vhnt, số 258
30 December 1996
Trong số này:
T h ơ :
1 - Tìm thấy con đường ........................Nguyễn Xuân Thưởng
2 - Sợi tơ nhện / Chiều ngang đầu núi .....................Lê Tạo
3 - Nói với bà xã ...........................................Quan Dương
4 - Ru chiều .....................................................Thu-Hồng
5 - Không đề .................................................Thư Hương
6 - Khoảng trống ...............................Trương-Nguyễn Thi Thanh
7 - Ánh sáng ......................................................Hoài Nam
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Người lính trong truyện Trần Hoài Thư .........Nguyễn Vy Khanh
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Dấu cỏ trên đồi .................................Nguyễn Bá Dĩnh
tìm thấy con đường
em lên rừng xanh thở lượng đất trời
chỉ thấy sương mù khói xe giăng mắc
em xuống suối nguồn uống dòng nước mát
nước tanh mùi hóa chất anh ơi
em bèn ra biển, biển đục ngầu phế thải
chẳng chốn dung thân, em lạc giữa đời
hoảng hốt chạy trên đồng bằng thấm độc
màu xanh rừng biến mất mỗi bước chân
em ngã quỵ không một ai hay biết
trên quả địa cầu loang lỗ nhân tâm
thân quằn quại giữa trưa phóng xạ
ngửa cổ van xin một phép lạ hiển linh
lỗ ô zôn bỗng mở ra toang hoác
em biết lấy gì đắp điếm niềm tin
này em ơi xin em đừng thoái thác
phép linh là về sống thật với mình
nguyễn xuân thưởng
Sợi tơ nhện
Sợi tơ nhện trói đời tên lữ khách
Buộc hắn nằm yên trả nợ áo cơm
Hắn bất lực từ giờ cho đến chết
Hoài bão, ước mơ... tất cả lãng quên
Sợi tơ nhện chôn đời tên lữ khách
Dân tộc ư! lim dim mằt mơ màng
Ðất nước ư! hơn một lần đã mất
Hắn đâu cần phải bứt rứt tâm can.
Sợi tơ nhện, ôi! vòng tròn oan nghiệt
vòng áo cơm - sợi tơ nhện cuộc đời
Biết bao người vung tay là bứt hết
Hắn cuối đầu, đành chịu trói... tàn hơi...
Chiều ngang đầu núi
Chiều về ngang đầu núi
người gọi người tìm nhau
lá vàng hôn mặt suối
nhắc nước nhớ giang đầu
Chiều mênh mang đầu núi
cách xa đời rộn ràng
từ lạc nhau thưở ấy
đời ngút ngàn hỗn mang
Cây rừng khe khẽ vẫy
gió ru hời trăm năm
nhói đau bên góc trái
lòng muộn màng ăn năn
Sông bắt đầu từ suối
biển đợi chờ tình sông
hoa vàng mong ong tới
bóng người... triền dốc lăn
Nhìn lên, con dốc đứng
nhìn xuống, tít khơi mù
giữa triền nghe gió lộng
người bây chừ về đâu?
Chiều về ngang đầu núi
bóng đêm nuốt mặt trời
hồn trợt chân chới với
buồn hòa lòng biển khơi.
Lê Tạo
Nói với bà xã
Một chén mắm đường dầm ớt
Cộng một trái xoài xanh
Chia đều hai tiếng: hít hà
Số thành: bà xã
Ngọt, chua, cay + hít hà = môi em đỏ
Ðâu cần phải thoa son
Bà xã là người đẹp nhất trần gian
(Chưa có gã nào dám nói điều ngược lại)
Ngọn gió bấc trở mình se se thổi
Ðã có môi em đỏ làm chốn trú Ðông
Chỉ còn thiếu sợi nắng hồng
Ðể anh hái tặng em thoa trên má
Ðường long nhong đôi bao lần quị ngã
Con ngựa hay chạy mãi cũng phải có lúc què
Anh như cánh lục bình trôi mù tịt ngoài xa
Em làm bến cỏ đợi chờ năm tháng
Dẫu ngút mắt chiếc thuyền trên biển rộng
Vẫn còn bờ để sóng giạt gởi tấm tàn thân
Một đoạn phim tình cảm trái ngang
Cộng hai hàng nước mắt
Chia đều: thút thít
Số thừa: lòng độ lương bao dung
Một vòng danh ảo, một cuộc phù vân
Em rất chân tình khi rơi giọt lệ
Có đi qua đôi mắt trong, xin nhớ đi khe khẽ
Kẻo đánh thức tim em vốn đã hao gầy
Cho dù anh "ca" em bằng một triệu lời thơ hay
Mà chẳng hiểu được em cũng đều vô nghĩa
Có phải vậy không em?... Bà xã...
Quan Dương
12/96
Ru Chiều
Chiều thu
vàng rợp phố phường
Chiều thu
làn gió vô thường nhẹ lay
Hình như
... đôi mắt cay cay
Hình như
... vì lẽ bụi bay ngập đường
Trách thầm hạt bụi vấn vương
Xoay xoay trong gió, niềm thương lạc loài
Lá vàng về vội chiều nay
Lả lơi theo gió ru hoài gót chân
Tình thơ
như giấy trắng ngần
Tình thơ
đẹp tựa một vần trăng thanh
Chiều nay,
quả thật nhớ anh
Ru chiều,
nắng nhạt, vàng hanh một trời
Thu-Hồng
12/10/96
Không Ðề (1)
Lơ lửng đâu đây tiếng gọi thầm
Vẳng lại tự ngàn năm
Giọng thạch cầm trong vắt
ngân ngân
Lung lay hồn người sơn cước
Tiếng gọi thổn thức
Ngẩn ngơ con Ô Thước lắng nghe
Long lanh dây đàn,
Lả lướt phím tơ
Tri âm từ độ cổ sơ...
Thư Hương
12/96
Khoảng Trống
trong tôi có khoảng trống
một khoảng trống vô hình
tôi cố tìm cái lấp
sao vẫn còn rỗng tênh?
gió lao xao ngoài cửa
một ai đó thở than
tôi nằm không quậy cựa
tiếng ai khóc bạt ngàn
đêm nay trời lạnh quá
ôi bao kẻ không nhà!
sương khuya xào xạc lá
lòng nhớ mẹ, mong cha
ánh đèn đường yếu ớt
một bóng dáng quen quen
tim tôi dường như biết
bỏ ngõ, chẳng cài then
tôi nằm yên mong đợi
tiếng đẩy cửa bước vào
nỗi chờ trông mệt mỏi
nữa lần nữa là bao?
tôi nghe như khoảng trống
gậm nhấm nỗi u sầu
khoảng trống rồi sẽ rộng
trong tôi rồi sẽ đau
nhỡ sáng mai thức giấc
khoảng trống đã là tôi
tôi sẽ ngồi khóc nấc
tôi mất tôi mất rồi!
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Ánh Sáng
Viết cho small_help4VN
Một cô bé vừa lên tròn sáu tuổi
Buổi sáng đến trường, buổi học đầu tiên
Không có mây hồng, và tay mẹ dắt
Bé lần mò theo bước gậy, lanh canh
Trong giờ học, câu đầu tiên bé hỏi
Cô giáo ơi cô, ánh sáng là gì ?
Màu của bé, đầu tiên và mãi mãi
Một màu đen bất tận, thiên thu
Vuốt tóc bé, cô giáo buồn khẽ bảo
Ánh sáng là kết hợp của nhiều màu
Qua lăng kính , ánh sáng sẽ biến thành
Màu đỏ nâu vàng lục lam chàm tím
Cô giáo cầm bàn tay em bé nhỏ
Những ngón tay sao phân biệt những màu
Những ngón tay sao thấy nổi chiều cao
Những ngón tay sao hiểu nổi chiều dài
Cô cầm tay em, ôi muời ngón nhỏ
Cô gọi đây là hồng đỏ tím vàng
Năm ngón tay như ngũ sắc cầu vồng
Qua lăng kính tâm linh, em bỗng thấy
Ánh sáng loé ngời qua những khe tay
Ánh sáng bắt nguồn từ trong tưởng tượng
Hay từ trong trái tim cô run rẩy
Ánh sáng bừng lên, ánh sáng tình thương
Mỗi buổi sáng, khi mắt bừng tỉnh dậy
Có thấy chăng điều kỳ diệu quanh ta
Hoài Nam
12/11/96
Người Lính Trong Truyện Trần Hoài Thư
1.
Văn học Việt Nam từ nửa thế kỷ nay có thể nói là một văn học chủ yếu chiến tranh: chiến tranh chống thực dân 1945-54, chống cộng trong Nam và chống "Mỹ ngụy" ngoài Bắc 1954-1975, chống chủ nghĩa ngoại nhập, chống độc tài tranh đấu cho dân chủ, tự do từ ngày 30-4-1975, ở trong cũng như ngoài nước. Trong cuộc chiến 1954-1975, "văn học" chống "Mỹ ngụy" điều động bởi Hà-Nội từ các nhà văn bộ đội và các xưởng viết văn từ Bắc vào đến Trường Sơn, Cục "R", đã sản xuất nhiều hình ảnh lính bộ đội hoặc "giải phóng" hăng say với lý tưởng "đuổi Mỹ" và cứu người miền Nam đang bị "ngụy" và thực dân mới... bóc lột, cơ cực (!). Những người lính có khi được gọi là "thanh niên xung phong" này đầu óc được thông tin Nhà Nước bơm đầy hận thù, chấp nhận sinh Bắc tử Nam, bắn giết, phá "địch", không tâm hồn tư riêng, quên gia đình và bản thân, vv. Vì nhu cầu tuyên truyền chính trị, người lính bộ đội và giải phóng thường được mô tả theo cùng một khuôn rập. Trong Văn Học Việt Nam Chống Mỹ Cứu Nước, Viện văn học của Hà nội đã... tự hào tổng kết:
"Văn học của chúng ta trong những năm chống Mỹ đã làm đúng những lời căn dặn đó của Đảng. (...) Chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mảng đề tài lớn nhất trong những năm này, mặc dù đề tài trên đã chiếm vị trí hàng đầu. (...) Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã trở thành một nội dung tư tưởng chủ yếu của văn học trong những năm chống Mỹ, và những anh hùng, chiến sĩ trên các lãnh vực đã trở thành những nhân vật chính mà các tác phẩm văn học đã miêu tả. (...) Trường đào tạo các nhà văn trẻ vẫn tiếp tục mở hết khóa này đến khóa khác. ..." (1)
Bên này vĩ tuyến 17, báo chí, xuất bản phẩm tràn ngập những hình ảnh chiến sĩ cộng hòa gan dạ, yêu nước, bảo quốc an dân. Họ là bảo hiểm cho người hậu phương, là an ninh nơi thôn làng, là giải cứu cho những vùng địch tạm chiếm. Người lính cộng hòa được các nhà văn thơ Nguyễn Đạt Thịnh, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Tuấn, Hà Huyền Chi, Tô Kiều Ngân, Hồ Minh Dũng, Văn Quang, vv tâm lý chiến hóa cũng như lãng mạn và thi vị hóa. Những anh hùng ca được nuôi dưỡng suốt cuộc chiến.
Nhưng cuộc chiến càng kéo dài, người lính càng trở nên cô đơn, bi quan và đăm chiêu dưới các ngòi bút của Thế Uyên, Dương Nghiễm Mậu, Thảo Trường, Ngô Thế Vinh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ,... hoặc trằn trọc không lối thoát đến độ phải đối kháng hoặc phản chiến như Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục.
Đó là vì miền Nam Cộng hòa chế độ tự do dân chủ, do đó bên cạnh những hình ảnh chính thức, đã có những người lính bạt mạng như Nguyễn Bắc Sơn:
"... Kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tội trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau..."
(Chiến tranh Việt Nam Và Tôi)
Chiến tranh chấm dứt vào cuối tháng tư 1975 nhưng văn học chiến tranh vẫn tiếp diễn ở hai mặt trận trong và ngoài nước. Trong nước, vì nhu cầu chiến thắng và thống nhất, một nền "văn chương cách mạng" hậu giải phóng được chính thức phát động. Nào là biên khảo, nhận định, hồi ký, truyện ngắn dài, truyện trinh thám, vv cập nhật vai trò những người lính "cách mạng, giải phóng" và bôi đen những người lính phe đối nghịch bị lãnh đạo và đồng minh lừa dối bỏ rơi và nay đang tàn tạ trong các trại học tập. Người "chiến thắng" đặt nặng việc phá hủy văn hóa Việt Nam Cộng Hòa. ghi cả trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) nhiệm vụ phải "quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa thực dân mới" ở miền Nam (2).
Ở hải ngoại, một nền văn học lưu vong được hình thành. Đây sẽ là một văn học Miền Nam nối dài với những đặc điểm của hoàn cảnh mới của dân tộc. Chiến tranh 1954-75 tàn cuộc vì cờ gian bạc lận. Miền Nam bị các thế lực ngoại bang cấu kết bức tử, bị lương tâm nhân loại mù quáng vì tuyên truyền, bỏ rơi. Người lính cộng hòa bị bức tử nhưng chưa chết, được người bỏ xứ phục hồi dưới nhiều hình thức. Một dòng văn chương hoài niệm được bắt đầu và kéo dài tới cả hôm nay, dài về thời gian hơn cả những hoài niệm của cuộc di cư 1954. Các truyện thơ về người lính, của người lính, lần lượt xuất hiện ngay từ những năm đầu lưu vong và đều đặn hơn từ những đợt vượt biển, đoàn tụ gia đình (ODP) và gần nhất là HO cựu tù cải tạo. Nhưng phải đợi đến đầu thập niên 1980, các nhà văn thơ từng khoác quân phục Cộng hòa góp mặt càng đông đảo và đáng kể như Cao Xuân Huy (Tháng Ba Gãy Súng), Nguyễn Ý Thuần, Luân Hoán, Thái Tú Hạp, Khánh Trường, Nguyên Vũ, Hoàng Khởi Phong (Ngày N+), Phạm Huấn, Hà Huyền Chi, Nguyễn Tấn Hưng, v.v...
Hình thức thứ hai là các hồi ký lao tù từ những năm đầu thập niên 1980 : Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Đáy Địa Ngục của Tạ Tỵ, Cùm Đỏ của Phạm Quốc Bảo, vv. Người lính thua trận. Những đấu trí vô vọng, những đầu óc một chiều ngoan cố dù đã thắng trận cờ. Những cảnh đời khốn cùng, những con người hèn hạ ! Phần lớn các hồi ký cải tạo nói chung không đi xa hơn những ký sự, chuyện đời.
Bên cạnh những hoạt động văn chương, còn có những bài báo, các truyện kể, những đính chính tranh luận về những trận đánh và một số biến cố lịch sử, càng xa cuộc chiến càng mãnh liệt, trên các báo chí hội đoàn và thương mãi. Nói chung, người ta nói và viết nhiều đến những sĩ quan cao cấp, về những cử chỉ anh hùng hoặc thối nát, tầm thường của họ mà ít nhắc nhở đến những người lính thấp nhỏ hơn; họ có chết hoặc bỏ chạy cũng ít ai nói tới.
Hình ảnh người lính đã theo chừng ấy giai đoạn trôi nổi với cuộc chiến, lúc nào cũng hào hùng vĩ đại, nhưng cũng có những người lính rất tầm thường, đáng thương vì là nạn nhân của những thư hùng bạo lực, của những mưu đồ tranh chấp. Những người lính tầm thường hơn nhưng tâm tư phức tạp: có người vì lý tưởng, nhưng một cách thực tế họ đã chiến đấu vì tình đồng đội, vì nghĩa "thầy trò", vì màu cờ sắc áo của binh chủng.
2 .
Những người lính của Trần Hoài Thư đặc biệt có tất cả các đặc tính vừa kể. Anh đã viết về những người lính có thật, những cái sống thực thường nhật, những cái anh đã sống; đã lăn lộn với bom đạn, anh đã sống cái tang thương của bom đạn, và anh đã đưa kinh nghiệm đó vào văn chương. Trong bài này chúng tôi giới hạn ở các truyện ngắn (anh còn là một nhà thơ) anh đã viết ở hải ngoại từ 1980 tức từ khi anh vượt biển đến Hoa Kỳ, đã được xuất bản trong tập Ra Biển Gọi Thầm (3) hoặc đã xuất hiện trên các tạp chí văn học và cộng đồng ở Bắc Mỹ. Tác phẩm của anh xuất hiện đều đặn trên nhiều báo chí ở khắp Bác Mỹ kể cả mạng lưới thông tin internet.
Ra Biển Gọi Thầm gồm 20 truyện ngắn, ngoại trừ bốn truyện đã đăng báo trước 1975 và được viết lại, phần lớn được viết vào những năm gần đây, có bốn truyện duy nhất có ghi chú ngày viết thì đều là 1995. Các tác phẩm Trần Hoài Thư viết về người lính nhìn chung, như một tiếng nói của lương tâm, một nhức nhối của tiềm thức, một hoài niệm về một quá khứ gần đó mà đã xa, về chính tuổi trẻ bị đánh mất, về những bạn bè, những mối tình đổ vỡ, đau khổ và những cảnh đời trái ngang.
Điểm trội bật trong các truyện là cái nhìn của anh như một người lính về cuộc chiến, một cái nhìn không lạc quan về một chiến trường bi thảm, ngoài lề tiếng nói của chính quyền...
Trước 1975, anh đã nghĩ:
Tôi đang viết về một thảm kịch, cho con cháu chúng ta trong tương lai, để sau này khi lớn lên chúng sẽ hiểu về cuộc chiến này. Đêm qua, cả làng bên sông, nơi mà bọn tôi đã đến và gìn giữ, sau đó bàn giao lại cho nghĩa quân và xây dựng nông thôn, đã bị pháo dập. Địch kéo về cả đại đội chọc thẳng vào làng. Từ lâu những người bên kia đã coi cái làng như một cái gai cần phải nhổ bằng bất cứ giá nào. Những người ngồi ở Sài Gòn hay Hoa thịnh Đốn thì muốn coi ngôi làng như một thành công trong chính sách bình định phát triển. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Họ đã ngu xuẩn để hiểu về kế hoạch bảo vệ dân làng về lâu về dài. Một trung đội nghĩa quân làm sao đủ sức che chở cả ngôi làng. (...) Tôi đã đến cùng với bãi hoang tàn để hiểu rõ hơn về sự thật của cuộc chiến. Cuối cùng cũng vẫn là dân vô tội. Rõ ràng chúng ta đã bị thua. Chúng ta đã đến với họ, mang lại niềm tin cho họ, nhưng chúng ta không thể bảo vệ họ... ( Nhật Ký Hành Quân, tr. 129).
Cuộc chiến đã khiến con người đánh mất phẩm giá, trở thành biện minh dẽ dãi cho mọi hành động : "Chiến tranh, tôi phải cảm ơn nó, để tôi có thể dẹp bỏ hết những sự ghê tởm , khinh bỉ cái quá khứ rục mửa của tôi. Chiến tranh đã giúp cho tôi thấy rõ rằng mọi sự là vô nghĩa, là hư vô. Đừng bận tâm và thắc mắc. Đừng tự ái và ghê tởm. (...) Xã hội này thối nát này phải cảm ơn chiến tranh..." (Cuộc Sống Tôi, Những Vì Sao Vĩnh Biệt, tr. 105).
20 năm sau, trong Thư Về Người Đồng Đội Cũ Sau 25 Năm Thất Lạc, Trần Hoài Thư có dịp nhìn lại cuộc chiến:
Tôi viết đến đây, bằng tất cả sự bình an của chính mình , sau hơn hai mươi năm, về một cuộc chiến kỳ lạ, vô ích, phi nghĩa phi nhân. Lúc này, chúng ta có quyền thẩm định về giá trị của chiến tranh và lịch sử. Nhưng tôi không thể bình an khi cái cuồng điên kia đã trở thành thú tính. Họ rõ ràng hơn chúng ta. Bởi vì họ có cả một khối thép thành trì bên ngoài và khối thép căm thù bên trong đầu óc, và con tim họ. Còn chúng ta thì cô đơn. (...) Chúng ta đã chiến đấu trong nỗi cô đơn và quả cảm. Và chết cũng quả cảm và cô đơn. Như bao nhiêu đứa con của một đại đội bộ binh. Như bao nhiêu người trẻ tuổi không may sinh vào một nơi đầy bao nhiêu tai ương lớn lao nhất của quả địa cầu (tr 74).
Người lính Trần Hoài Thư đáng tội, chỉ vì anh có suy nghĩ, biết nhìn thấy những bất nhân và bất công, những tâm địa và tư cách của những kẻ cùng chiến tuyến:
Tôi đã vùng vẫy. Tôi đã thét gào. Tôi mang kính cận dày, cột dây thung sau gáy để nhảy trực thăng, nhảy diều hâu trong khi con cái những kẻ quyền lực trốn lính hay ở hậu cứ. Xin các ngài đừng lên mặt dạy đời trong khi các ngài chưa biết thế nào là máu thấm vào áo trận. Cũng xin các người bên kia đừng chửi tôi là lính đánh thuê, đánh giặc mướn trong khi tôi mời các người từng điếu Pall Mall. Tôi là tôi. Tôi làm chủ lấy tôi. Tôi quyết định lấy đời tôi (Nha Trang, tr. 174-175).
Phẫn nộ, cô đơn, sau một trận đánh hình như tất cả đội ngũ đều chết, người lính đó quyết định bỏ ngũ. Anh lý luận : "Kẻ đào ngũ trái lại phải là một tay lính chiến đấu cô độc nhất, bởi vì nó chẳng có đội ngũ. Cứ xem tôi là kẻ hèn, nhưng có biết bao kẻ hèn hơn tôi. Mượn áo lính để tiến thân. Chưa bao giờ ra mặt trận một ngày mà hùng hổ la gào. Nghe tiếng súng nổ thì són đái. Thách có tay nào mang kính 8 độ đi thám báo...." (Thư Về Người Đồng Đội..., tr. 77). Trong Kẻ Đào Ngũ (4), Trần Hoài Thư đã tả hoàn cảnh và tâm trạng của người bỏ ngũ. Sống sót sau một trận giao chiến địch tràn ngập, anh thiếu úy trung đội trưởng thám kích bộ binh bị thương nặng ở vai và ngực, xuất viện ra, chán chường phẫn uất, đã lựa chọn sống nhờ sống chui không ra trình diện lại đơn vị. Áp lực người cha, người con không muốn mang tiếng bất hiếu năm tháng sau phải ra trình diện, bị giáng cấp và ra đơn vị tuyến đầu khác.
Một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, trớ trêu, khó hiểu. Hai người yêu nhau cùng lớn lên ở cùng một địa phương mà rồi mỗi người phải một chiến tuyến, người yêu theo cộng sản như Hồng cô gái quán cà phê mê thơ văn chàng trong Vết Thương Không Rời, như Quỳnh người nữ quyết tử viên sau trở thành cô giáo quận lỵ Tuy Phước trong Tháng Bảy Mưa Ngâu, vv. Hoặc như hai cha con theo cường điệu của cuộc chiến, ngày kia phải đối đầu nhau trên cùng bãi chiến, trong Người Anh Hàng Xóm. Một chiến tranh tàn bạo, bắn lầm là chuyện thường tình giữa hai lằn đạn, nhưng tại sao nạn nhân lại là một đứa trẻ 12 tuổi (tr. 128), vv. Người lính có suy nghĩ, có con tim nhiều khi đã phải thả thanh niên trốn quân dịch đang trốn về nhà làm ruộng, nhưng biết đâu lại là VC nằm vùng, sẽ đi đắp đê, gài mìn, ...!
Vết Thương Không Rời kể chuyện trung đội thám kích xuống đồi đột kích một đêm mưa gió như đến "từ bốn cõi âm binh", mà lại là vùng quê ngoại của thiếu úy Tân. Toán quân anh đi giải cứu quê cũ của anh nhưng địch không lẽ lại là cả ngôi làng. Khi mục tiêu đã đạt, địch đã bị giết thì hóa ra là những cán bộ gái thường ngày ở quận lỵ vẫn liếc mắt đưa tình với mọi sĩ quan. Càng đi sâu vào cuộc chiến, người lính đó biết lịch sử có những bước đi khắc nghiệt, có những khoảng cách của định mệnh xa mà gần, gần rồi xa như nhịp cầu Ô Thước mà anh đã phải chấp nhận. Tháng Bảy Mưa Ngâu đưa hai người yêu nhau đến gần nhưng rồi mãi mãi xa, vì giây oan nghiệt ý thức hệ đối nghịch và nay người quê nhà người lưu xứ xa xôi!
Người lính Trần Hoài Thư không lý thuyết cao siêu, không siêu tưởng. Trong cái tương đối của đời lính, anh chỉ đi tìm hạnh phúc cho cuộc đời, đi tìm và khi tưởng có được, anh dựng xây một tình yêu, muốn dừng lại, "sẽ không còn phóng đãng, bụi đời" . Sau những ngày chạm trán với kẻ thù, với tử thần, bị dồn nén, dĩ nhiên người lính có những phóng đãng, hoang đàng. Trong Sỏi Đá Ngậm Ngùi sáng tác mới nhất (24-9-96) (5), ứng chiến ở một vùng đồi Bình Định nơi đó có tháp Chàm, nơi đó chàng "tơi tả trong những khu rừng khổ sai", người sĩ quan độc thân đưa người người yêu đi thăm căn cứ. Sau đó mỗi lần đi phục kích, chàng "không quên giả vờ vào nhà em, xin gáo nước lạnh" bên kia sông Tuy Phước. Mẹ cô gái đã từ gọi "thiếu úy" đến "cậu" rồi "cháu", ba chàng đánh điện tín hứa sẽ vào đi hỏi, tưởng hạnh phúc sắp đến gần, nhưng định mệnh cả dân tộc ập đến với sự sụp đổ tức tưởi của miền Nam Cộng Hòa, nói chi đến chuyện cá nhân. Hãy nghe tiếng buồn của người lính cộng hòa:
Em, người sắp làm vợ của anh cũng mất. Anh bị bắt làm tù binh, để sau đó bị giải từ trại tù này qua trại tù khác, để không có thì giờ mà nhớ lại một người thân yêu cũ, đến buổi cuối cùng, thấy bóng em nhỏ nhoi côi cút ở bên kia sông. Tạm biệt hay là vĩnh biệt. Không bao giờ anh dám nghĩ đến dưới đôi giày trận, những hạt cát vô tình lọt vào trong giày, mà đau nhức suốt đời. Sỏi cát ngậm ngùi. Tiếng hát cất lên từ một người cô phụ hay tiếng u uất thống thiết từ những người yêu nhau muốn gần nhau mà phải vĩnh biệt chia xa.
Một cuộc chiến buồn thảm, đó có thể là lý do tại sao các chuyện tình của người lính Trần Hoài Thư không bao giờ có đoạn cuối vui và... bình thường. Không chết giữa hai lằn đạn thì cũng chết vì hải tặc, lấy chồng Mỹ, bặt tin, vv. Trước những giây phút đẹp của những cặp tình nhân dù họ là kẻ thù, người lính phải trực diện với kẻ thù đó vẫn hơn một lần chứng tỏ còn có tình người, có tâm hồn. Trong Viễn Thám, trung đội thám kích đang săn tin về một đơn vị Bắc quân mới xâm nhập vùng Trường sơn, đã không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát bên bờ suối. Quân thù đó nhưng người lính đã không bắn. Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu (...) Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam... Tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu (6)
Trong các truyện của Trần Hoài Thư, người đọc thường gặp lại một số hình ảnh, địa danh và nhân vật quen thuộc vì thường là chuyện đời lính của chính tác giả. Những Quy Nhơn, Huế, Tuy Phước, Đà Nẵng và Cần Thơ (ít hơn). Những đồng đội Nha, Minh, Năm Râu, những người lính Thượng Lương Văn Tướng, Y Đao, Nay Lat, vv. Còn nhân vật xưng tôi thường là Ba Cận Thị hoặc thiếu úy Tân. Những người đồng đội "huynh đệ chi binh" như anh tà lọt: "Ông thầy, ở đây có lá giang, ông thầy nghỉ để em nấu canh lá giang với thịt hộp cho ông thầy ăn" (6). Ngoài những người đồng đội, Trần Hoài Thư còn viết về những cấp chỉ huy. Dĩ nhiên anh có nhắc đến những "Mặt Trời" thường chỉ tới thị sát khi mặt trận đã xong, gắn huy chương, vỗ về, cả những nhắn nhủ, đòi hỏi trước mỗi chiến dịch, công tác. Anh cũng viết về những nhũng lạm của các cấp chỉ huy, những hại việc nước và chính nghĩa chung ! Nhưng đặc biệt khi viết về hai tướng Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam (Khi về Nữu Ước) và "đại bàng" Hạnh (Nha Trang), ngòi bút của anh trở nên thiết tha, cảm động, đầy tình người ! Hãy nghe những lời của tướng Hưng - trong truyện là hồn ma quanh quất ở công viên Nữu Ước:
Ta rất thương đứa con gái đầu lòng của ta. Vì ta mà nó khổ. Bây giờ nó cận thị nặng hơn cả chú em nữa. Nhà nó bây giờ chỉ có mỗi bề 4 mét, mưa thì nước ngập quá đầu gối, không có cả nhà vệ sinh. Nhưng căn nhà lại nằm trong kế hoạch giải tỏa. Tương lai nó không biết ở đâu nữa". (...) "... nhờ chú em nhắn lại những người còn mến ta. Cái nấm đất chôn ta đã bị san bằng rồi. Cả cây trụ đèn dùng để làm dấu mộ ta cũng bị đào nhổ rồi. Ta lạnh lắm. Từ lâu ta không có hương lửa... (tr. 99-100)
Đó là cái bẽ bàng u uất của những kẻ đầu đàn có lương tri, họ đã thành nhân dù đã không thành công. Và còn nhiều cái bẽ bàng khác với người lính của Trần Hoài Thư. Bẽ bàng của những ngày cuối của chiến tranh. Trong hai truyện khác mới viết gần đây, Thị Trấn Lửa (7), Ngày Cuối Tại Một Thị Trấn (8), anh tả tình cảnh bi đát của hồi kết thúc cuộc chiến, những người lính bị rơi vào bẫy, bị bỏ rơi với định mệnh của cả dân tộc. Trong Thị Trấn Lửa, đám tàn quân cản đường tiến của Bắc quân trong khi cấp chỉ huy bỏ chạy. "Tội này ai gây nên. Lịch sử này ai gánh chịu. Những người lính của tôi, họ ít học, người gốc nông dân, người gốc Thượng, gốc Nùng, người bị bắt đi quân dịch, họ đâu có tội gì để gánh cái khối đá tảng của lịch sử. Những người có trách nhiệm bây giờ ở đâu, sao máy thì bặt tăm không một lời thăm hỏi. Hay họ đã chạy trốn rồi (Mà quả vậy, sau này tôi được biết ông trung đoàn trưởng và toàn ban tham mưu của ông đã đào tẩu hồi nửa đêm)". Tiếp viện chờ không thấy, đám tàn quân bất ngờ bị pháo kích, họ trở thành " những con mồi tội nghiệp. Làm sao chúng tôi biết là thị xã TĐ đã mất từ lâu, và tên sĩ quan trong trung tâm hành quân mà chúng tôi liên lạc để báo cáo, để hy vọng, để đặt hết bao nhiêu nương cậy, chính là tên địch nằm vùng đã ra lệnh pháo dập xuống đầu chúng tôi".
Ban Mê Thuột, Ngày Đầu Ngày Cuối (9) là anh hùng ca về một đại đội trinh sát. Từ ngày 10 đến 17 tháng 3-1975, diễn ra trận đánh anh dũng nhưng cô đơn, một trận đánh cuối cùng của đại đội trinh sát tăng phái cho trung đoàn 53 bộ binh. Những người lính dũng cảm làm tròn nhiệm vụ bảo vệ phi trường Phụng Dực và bản doanh trung đoàn khi tình hình chiến sự đang nghiêng về thua hơn là thắng. Đại đội cầm cự được bảy ngày đối đầu với quân cộng sản Bắc Việt chính quy đông gấp nhiều lần về số quân và tiếp vận. Trong khi họ chiến đấu cô đơn thì ban tham mưu và trung đoàn trưởng bỏ chạy, cũng như những sĩ quan khác quân xa đã nhắm hướng phi trường. Nhưng tất cả đã muộn màng...! Sự dũng cảm của 70 người lính không cứu được Ban Mê Thuột đã bị tràn ngập. Phần còn lại cho những người lính là con đường rút, tưởng may có thể trú thân ở chi khu Lạc Thiện nhưng bị "địch giả bạn để cài đơn vị vào cái bẫy oan nghiệt", đành rút vô rừng và lạc vào mật khu Khuê Ngọc Điền! Đã vậy những người lính cô đơn sống sót còn bị đồng bào vùng tạm chiếm nhìn như... tội phạm chiến tranh!
Tàn cuộc chiến, bị bỏ rơi, người lính không lâu sau còn bị kẻ chiến thắng gian trá bắt tù đày, biệt xứ và bị trả thù. Đi lính là để trả nợ non sông, nhưng tháng tư 1975, người lính còn phải trả nợ cho những sai lầm của lãnh đạo, chỉ huy. Người Và Quỉ là cảnh thiên đường học tập, người thì điên, người chịu đựng, người căm phẫn. Trong tuyệt vọng, lương tâm người lính có dịp được thử thách.
Học tập ra, người lính thua cuộc sống lây lất ngay trong quê hương đất nước anh đã bị thương đổ máu, mất cả tuổi trẻ để bảo vệ. Anh lính cộng hòa trở thành Người Bán Cà Rem Dạo vẫn giữ được cái kiêu hãnh của con người trước xảo trá : anh từ chối vào Hội nhà văn thành phố, dù sẽ được chế độ mới cho một số quyền lợi. Anh lính sẽ trốn đi, chấp nhận xa quê hương.
Đời sống lưu đày nơi xứ người khó khăn, cô đơn. Tuổi trung niên, người lính di dân phải làm lại cuộc đời, học tiếng nói, học nghề. Để cho con cháu, cho mai sau ! Người lính bị ép bỏ cuộc chơi, "tủi như người không có quê hương", có lúc phải chạm trán với những người bản xứ thiên tả, kỳ thị. Rồi những người thân quen, bạn bè và đồng đội cũ sẽ tái hồi với người lính. Những mất mát và hạnh phúc còn lại. Nỗi đời cô đơn xa xứ ấy được Trần Hoài Thư ghi lại qua các truyện Thư Về Người Đồng Đội Cũ Sau 25 Năm Thất Lạc, Người Về Trăm Năm, Ở Một Nơi Nào Rất Xa, Cho Con Mùa Tựu Trường, Bên Này Dòng Hudson, Đất Khách (10), Người Bị Thua Cuộc (11), vv. Người lính phải xa xứ nhưng vẫn có cái nhìn rộng lượng như đối với một nữ sinh viên VN du học con cán bộ cao cấp, trong Một Nơi Nào Rất Xa. Có lẽ anh mong một ngày kia khi bụi mờ quá khứ lắng bớt, sự thật về sinh mạng dân tộc, về một giai đoạn lịch sử sẽ được những thế hệ đi sau không phải nhìn với những lăng kính, sẽ hiểu rõ hơn.
3.
Trần Hoài Thư có những tác phẩm về người lính rất thành công và cảm động như Bãi Chiến, Khi Về Nữu Ước, Tháng Bảy Mưa Ngâu, .... Trong toàn bộ, truyện về người lính của anh là những hoài niệm, ưu tư, khắc khoải, những cay đắng hoài nghi, nhưng cũng là những chân dung những người lính thật, có lửa có lòng, có tốt có xấu, nhưng vượt trên tất cả là thân phận của những con người bị đày đọa, hy sinh, lừa dối. Khác với những hồi ký của các lãnh tụ, tướng lãnh, tác phẩm của Trần Hoài Thư là những đau khổ anh hùng của những người lính vô danh, những tâm tư của một thế hệ trẻ bị nướng vào chiến tranh.
Các truyện của Trần Hoài Thư về người lính cũng là truyện của chính anh, từ những mối tình, đời lính - anh là trung đội trưỡng thám kích bộ binh vùng hai (đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 BB), những lần bị thương, rồi đào ngũ trốn ở Nha Trang và Phan Rang viết hàng loạt truyện và thơ đăng trên Bách Khoa, Văn, Văn Học, ... đến chuyện phải tái trình diện, bị giáng lon chuyển sang sư đoàn 23 ở Ban Mê Thuột rồi thuyên chuyển về quân đoàn 4 làm phóng viên chiến trường.
Chân dung người lính của anh sẽ góp phần giúp các thế hệ trẻ hơn hiểu hơn về một cuộc chiến, về một thế hệ, những nạn nhân. Người đọc có cảm tưởng anh còn muốn những người hôm qua là địch đối đầu ở trận chiến có cái nhìn trung thực hơn về người lính cộng hòa. Anh đã tự hứa viết giùm những người không thể viết, không thể nói, những người mang áo lính cộng hòa bị bỏ quên. Dù anh thú nhận không thể viết hết những gì chiến tranh đã gây nên nhưng chúng ta hy vọng anh đã lay động được lương tâm con người; biết đâu những tên đồ tể của chiến tranh sẽ cải tà quy chính (!), về với con người, lòng người, xây dựng những cuộc sống an bình và hạnh phúc ! Hơi thừa nếu cho rằng nhà văn Trần Hoài Thư có cái can đảm của người lính thám kích. Thật vậy, anh đã dám nói lên những sự thật đau lòng của chiến tranh, của những người cùng chiến tuyến, dám nói khác những tiếng nói chính thức mà nhiều người đã nhàm nghe ! Như anh đã thổ lộ đâu đó anh tự hào là người đã nghe trái phá nổ, do đó anh hiểu mãnh lực của trái phá như thế nào!
Truyện Trần Hoài Thư được đón nhận nồng nhiệt bởi người đọc liên hệ xa gần đến người lính Cộng Hòa, đáp ứng nhu cầu tự nhiên tìm về quá khứ của người lính đã hy sinh đời mình cho lý tưởng, nhất là những người lính cô đơn chiến đấu và cô đơn chống trả những oái ăm của định mệnh sau đó. Đó là những truyện nói chung tiêu biểu vì chứng minh văn nghệ vị nhân sinh, thỏa đáng những đòi hỏi của nhân sinh ở một tình huống hôm nay!
Nguyễn Vy Khanh
10-1996, cập nhật 10-1997
Chú-thích:
(1) Hà-nội: Khoa học xã hội, 1979, tr. 14-15.
(2) Văn Hóa Văn Nghệ Miền Nam Dưới Chế Độ Mỹ Ngụy. Hà nội : Văn Hóa, 1977. Tr. 8.
(3) Tác giả xuất bản, Plainfield, NJ, 1995. 222 trang.
(4) Tạp chí liên mạng Văn Học Nghệ Thuật số 242 (28-10-1996)
(5) Tạp chí VHNT số 238, 16-10-1996.
(6) Viễn Thám (Dân Chủ Mới số 55, 8-1996) tr. 59-61.
(7) Viết 17-9-1996, Dân Chủ Mới số 58 (11-1996), tr. 58-61
(8) Viết 26-8-1996, đăng trên VHNT số 223 (4-9-1996).
(9) Sau in trong tập truyện Ban Mê Thuột Ngày Đầu Ngày Cuối (Tác giả xuất bản, 1997. 241 tr.). Cùng trường hợp với các truyện khác đã nói đến trong bài viết, như Sỏi Đá Ngậm Ngùi, Thám Báo (tức Viễn Thám khi đăng báo).
(10) VHNT số 203 (5-7-1996).
(11) VHNT số 210 (31-7-1996).
Dấu Cỏ Trên Đồi
Tôi lớn lên ở Nha-trang, miền quê hương cát trắng. Năm đó, tôi học đệ tam, ban Văn chương, nên tha hồ xả hơi giữa hai kỳ thi trung học và tú tài một. Trong lớp tôi có nhiều nhân vật kỳ khôi lắm, một phần do các học sinh trường Collège franỬais bên cạnh đậu "brevet" xong chuyển sang, một phần do truyền thống cố hữu của các lớp đệ tam C.
Phá nhất là thằng Ngọc, vác cả kèn saxo vô lớp, đợi cô giáo quay lưng lại là lôi ra thổi toe toe mấy tiếng vang dội khiến cô giáo giật bắn cả người, may mà không tè ra lớp! Hiền lành thì cỡ thằng Hiệp, con nuôi thầy Cung Giũ Nguyên, lúc nào cũng sẵn sàng bị nhảy cửa sổ, cúp cua... Nhưng cự phách nhất phải là thằng Kim xóm chợ cá Phương Sài. Ðúng là dân chợ cá. Cả trường ai cũng sợ nó. Thành tích của nó là bẻ gãy tay một thằng lớp đệ nhất khi có chuyện xô xát ngoài đường. Tính tình nó dữ dằn đến nỗi nó không có một thằng bạn nào, trừ... tôi.
Chuyện tôi kết bạn với thằng Kim chợ cá cũng khá ly kỳ. Hôm đó, tình cờ dun rủi, tôi gây lộn với một tay anh chị trong trường. Thằng này còn kéo thêm ba tay anh chị khác lảng-vảng trước cổng trường chờ tôi. Cả lớp xanh mặt, xì xào dữ lắm, nhưng không ai dám can thiệp hay có ý định can thiệp. Phần tôi ngồi học nhưng cứ nhấp nha nhấp nhổm, chưa biết tính sao. Bốn đánh một không chột cũng què. Phen này chắc tôi bỏ mạng sa tràng, khó thoát cảnh bị làm nhục giữa ban ngày! Thì giờ lại cứ ác nghiệt, càng qua mau.
Chuông tan học hôm nay reo to hơn mọi khi. Chuông vừa reo, cả lớp không giấu vẻ ái ngại quay lại nhìn tôi. Mặt tôi lúc đó không biết màu gì, tay chân luống cuống thu xếp sách vở, chuẩn-bị ra đấu trường. Trong hoàn-cảnh thập tử nhất sinh ấy, chợt thằng Kim bước lại, ném cho tôi chiếc khoá dây xe đạp, hất hàm:
- Mày đi với tao
Tôi lẳng lặng nhìn Kim, bỡ ngỡ, nhưng cũng hơi an tâm. Hai đứa song song bước ra khỏi cổng trường, mắt không rời kẻ địch. Hôm ấy, lạy trời, có thầy giám học tình cờ đi cùng nên dưới thế vẫn bình-an, hai người thiện tâm thơ thới ra về còn nguyên một miếng.
Mấy hôm sau tôi với Kim luôn luôn về chung, trong cặp thủ sẵn bộ khóa dây làm vũ khí phòng thân. Thầy giám-học không về chung, nhưng mấy tay anh chị cũng không còn ngăn đường đón ngõ nữa.
Dần dà, Kim và tôi thân nhau. Kim rủ tôi về nhà chơi. Nhà Kim nghèo, cách chợ cá Phương Sài chỉ vài trăm thước. Mẹ Kim thấy tôi hiền, chăm học, không lêu lổng hoang đàng như con bà nên bằng lòng lắm.
- Bác có mình nó là con trai. Con lên đây học với nó cho có bạn. Ðể nó một mình, cứ đi chơi hoài, bác nói không nổi. Nhà tôi lúc đó khách khứa ra vô suốt ngày vì ba mẹ tôi là nhà buôn, học ở nhà cũng bị chia trí nên tôi đồng ý ngay. Thế là ngày nghỉ và cuốI tuần, tôi hay đến nhà Kim để ôn bài, làm bài, ăn dầm nằm dề như nhà mình, thật thoải mái. Vui thì học, học chán lăn ra đì-văng mà ngủ, chẳng ai quở mắng rầy la gì cả.
Một hôm, Kim và tôi ngủ trưa dậy, tôi thấy bóng một ni cô thấp-thoáng sau nhà. Kim bảo:
- Chị Phương đó. Chị tao đi tu.
Chị Phương học lớp đệ nhất, ban A Vạn Vật, trường Bồ Ðề, trên tôi và Kim hai lớp. Dáng người chị tầm thước, trắng trẻo phúc hậu chứ không đen đúa bặm trợn như Kim. Nụ cười chị thật nhẹ nhàng, tia mắt của chị thật hiền dịu. Khi chị cười, hỏi chào "Vĩnh phải không?", tôi cứ đứng trân trối nhìn chị như nhìn một bà tiên trong truyện cổ-tích.
Chị tôi đi lấy chồng sớm. Mẹ tôi không thân với tôi. Tôi chưa bao giờ được hưởng sự ngọt ngào đằm thằm từ một người đàn bà. Chị Phương là hoa thơm, mật ngọt. Dòng suối tình thương mát mẻ đã khơi nguồn chảy thẳng vào tâm hồn của một đứa trẻ thiếu tình thương của mẹ, của chị, là tôi. Ba tôi bệnh liên miên, nên mẹ tôi nắm quyền lãnh đạo gia đình, nghĩa là làm những việc mà người đàn ông Á đông thường làm: lo cái ăn cái mặc cho gia đình, dạy dỗ con cái. Thương cho roi cho vọt. Trong nhà hình như tôi được mẹ... thương nhiều nhất, nên tôi không hề biết đến sự dịu dàng của một người đàn bà Việt nam như trong sách vở vẫn mô tả. Chưa bao giờ mẹ tôi ôm tôi vào lòng, vuốt ve: con ngoan của mẹ,ngủ đi, mai mẹ làm bánh cho ăn. Muốn tôi đi ngủ, bà tay cầm chiếc roi, mắt nhìn tôi nghiêm khắc:
- Ði ngủ! Mai còn đi học sớm
Thường thì tôi riu ríu leo lên giường ngay để tránh cảnh leo thang chiến cuộc và những đường roi vun vút lạnh mình.
Tôi thương chị Phương ngay khi vừa nghe tiếng chị. Không có âm thanh nào thân ái bằng tên mình, nhất là khi nó được cất lên với một giọng nhu hòa, từ ái từ một cái miệng xinh xinh tươi tắn, với đôi môi đỏ hồng khoẻ mạnh. Tôi nhớ mãi những câu chị nói, và thỉnh thoảng khi nhớ chị, tôi lặp lại nho nhỏ chỉ vừa đủ cho mình nghe: "Vĩnh rán học cho xong bài đi, chịlàm bánh su cho ăn!", "Vĩnh có thích đi lên đồi học bài với chị không?", "Vĩnh đi với chị có mắc cỡ không? Thiệt hả chị? Vĩnh mê bánh su của chị lắm đó! Có, chị ơi! Vĩnh thích lên đồi học bài với chị lắm. Chẳng những lên đồi, mà lên núi, hay đi năm châu bốn biển với chị, đi suốt đời Vĩnh, Vĩnh cũng thích. Không, chị ơi! Không bao giờ Vĩnh mắc cỡ khi đi chung với chị ngoài đường. Ðừng nói chị là ni cô, cho dù chị là bà la sát thì em vẫn luôn luôn sung sướng được đi bên chị.
Tôi thường trả lời như vậy, và nhìn sâu vào mắt chị, với nụ cười ấm áp trẻ thơ của tôi. Những lúc ấy chị hay quay mặt nghiêng đi chỗ khác, tránh ánh mắt tôi. Tôi đoán là chị Phương có tâm sự gì ù-ẩn, và chị chưa muốn chia sẻ với tôi, một người bạn nhỏ của chị.
Từ nhà chị Phương đi vô phía trong, qua chợ cá Phương Sài chừng nửa cây số là gặp con sông Vĩnh Xương. Phía bên kia bờ sông là quận Vĩnh Xương nơi có nhiều ngọn đồi cao thấp không đều, cảnh trí rất yên-tĩnh. Chùa Hải Ðức nằm trên một ngọn đồi ở đây. Trong những ngày hè, chị Phương thường rủ tôi lên một ngọn đồi nhỏ, ngồi dưới bóng cây râm mát để học bài.
Chị chăm học hơn tôi. Trong khi chị ngồi học, tôi trải khăn lên cỏ nằm ngủ. Thật ra thì tôi đâu ngủ liền. Tôi chỉ làm bộ ngủ để xem chị làm sao. Khi tôi nằm lăn ra ngoài nắng, chị đỡ đầu tôi, kéo vô trong mát. Mắt chị không rời trang sách, nhưng một con muỗi bay qua mặt tôi chị cũng biết, lấy tay quạt đi.
Nằm ngắm trộm chị một lúc, tôi có khi ngủ quên luôn. Ðôi khi tôi mớ, chị Phương ơi, chị là bóng mát che đời em đó. Chị Phượng gõ gõ một ngón tay lên trán tôi, mắt chị nhìn xa xôi, nghĩ ngợi. Thật vậy, chị Phương ơi, chưa bao giờ có một tàn cây nào cho em bóng mát êm ả như chị. Chưa có ngọn gió nào làm em ngất ngây bằng bàn tay quạt muỗi của chị. Em thương chị. Em muốn suốt đời được nằm trên đồi xem chị học bài. Thời gian hãy ngừng lại, em không bao giờ lớn nữa và chị vĩnh viễn là cô học trò ngồi học trên đồi, chị Phương ơi.
Chị Phương thường nhờ tôi dò những bài triết, khi chị lẩm-nhẩm ôn lại. Có lẽ nhờ vậy mà sau này tôi quen với triết học hơn những môn khác. Có lần tôi hỏi chị Phương:
- Tình yêu là gì hả chị?
Chị Phương đỏ mặt:
- Ai biết
Tôi chợt thấy mình vớ vẩn, ai lại đi hỏi một ni cô về tình yêu! Tôi không bao giờ có ý trêu chị. Hỏi chị, nhưng chính là hỏi lòng tôi. Tôi còn trẻ dại quá. Tôi không hiểu thế nào là cho hay nhận, phân biệt giữa chủ thể hay khách thể. Tôi chỉ hiểu là chị Phương cho tôi rất nhiều, chị là gió mắt, là trăng thanh, là không khí trong lành, là nắng đẹp đầu hiên. Tôi êm đềm thụ hưởng và bơi lội trong thứ hạnh phúc trong sáng ấy như một chú cá nhỏ bên khe nước trong xanh. Phải chăng đó là tình yêu? Một thứ tình yêu thánh thiện vượt lên trên mọi thói tục tầm thường.
Tự nhiên chị và tôi cùng im lặng. Cái im lặng lắng đọng, trong suốt như mặt nước trên dòng sông thủy tinh. Tôi để tâm hồn bay theo những suy tư không giới hạn, như những đám mây trên khoảng trời mùa hạ, lóng lánh như những hạt cát của hải tần, theo sóng chạy lăn tăn dưới ánh nắng trưa hè. Chị Phương trầm ngâm, xa vắng. Mắt chị đã rời trang sách, dõi theo một đôi chim trắng xoải cánh bay về một cõi trời xa..
Chị Phương thường nấu cơm chay đãi tôi. Ăn đi em, ăn chay lòng dạ nhẹ nhàng, trí huệ khai mở, Trời Phật độ trì học đâu nhớ đó. Tôi cười, chị ưa thuyết pháp quá, chị có muốn em cạo đầu đi tu với chị cho có chị có em không. Chị thở dài, mặt hơi chìm xuống. Tôi hối hận ngay. Chị ơi, em nói thật mà, chị là một tiên cô do Trời Phật sai xuống trần để cảm hóa em. Em sẽ ăn chay, những món chị làm. Em sẽ niệm Phật, những lời chị niệm. Em nhìn thấy ánh sáng chói lọi của niết bàn qua tâm hồn thanh cao của chị. Em sẽ...
Chị Phương hiểu lòng tôi. Chị đã cười lên trong ánh mắt. Nắng ấm ngoài sân hắt lên sáng bừng trên mặt chị..
Một cuối tuần tôi dầm mưa đạp xe đến nhà Kim. Chị Phương thấy tôi ướt như chuột lụt, lo lắng:
- Sao dại vậy em! Ðợi tạnh mưa rồi đi! Dầm mưa cảm cho mà coi
- Em sợ chị đợi
Tôi vừa nói xong thì hắt hơi luôn mấy cái. Chị nhìn tôi mghiêm giọng:
- Cảm rồi. Lên đì-văng nằm, chị cạo gió cho
Chị lấy quần áo của Kim cho tôi mặc tạm, trong khi chờ hong bộ đồ ướt sũng của tôi. Tôi ngoan ngoãn nghe lời chị, leo lên đi-văng nằm sấp xuống cho chị cạo gió. Chị chọn đồng tiền nhẵn nhất để cạo cho tôi, vậy mà tôi vẫn thấy hơi đau, cứ nhúc nhích hoài. Chị Phương rầy:
- Con trai gì!..
Rồi chị xuống bếp lục tìm củ gừng để thay đồng tiền. Những vệt cạo của chị không làm tôi đau nữa, mà trái lại còn êm ái làm sao. Hơi ấm của dầu nóng, hơi ấm của chị, từ bàn tay thoăn thoắt nuột nà lan sang tôi. Tôi nghe hơi ấm truyền sâu vào da thịt, tỏa ra từng mạch máu. Tôi nằm lim dim nhắm mắt thụ hưởng cảm giác êm đềm ấy rồi ngủ quên luôn. Lúc giật mình chợp mắt, tôi thấy chị Phương bắc ghế ngồi đọc sách bên cạnh tôi. Lặng lẽ nằm ngắm chị một lúc, tôi cất tiếng, giọng hơi ỡm ờ:
- Cảm ơn chị Phương. Mai mốt chị cảm, em cạo gió lại cho chị nghe.
Chị Phương cười hiền:
- Chị sợ cạo gió lắm. Khi nào chị cảm, Vĩnh nấu cho chị tô cháo lỏng thật nóng, ăn xong chị khoẻ liền hà
oOo
Năm ấy chị Phương thi rớt. Tôi hỏi chị có buồn không. Chị cười:
- Má muốn chị học thì chị học. Má muốn chị đi thi thì chị đi thi. Ðậu rớt cũng chẳng để làm gì. Chị là người xuất gia ma. Hai chữ xuất gia từ cửa miệng chị chợt làm tôi xúc động
- Tại sao chị đi tu hả chị ?
Chị trù trừ một lúc lâu rồi thong-thả:
- Chị qui y để giải nghiệp cho má. Em biết không, má chị sống bằng nghề cho vay lãi, nghiệp chướng khôn cùng em ạ - Ðó là chị tự ý, hay má bảo chị?
Chị Phương trả lời rất chậm:
- Ý má, mà cũng là ý chị, em à. Em có đọc chuyện Mục Kiền Liên không? Chị nghe lời má, chính là để sau này có dịp vun phước chuộc tội cho má.
Chị Phương cười buồn:
- Không được đâu em. Thời buổi khó khăn, một mình má bươi chải trăm chiều..
Tôi làm ra vẻ không tin:
- Có thật là má bảo chị đi tu không? Chớ không phải chị thất tình ông nào..
Tôi kịp dừng lại bên bờ vực thẳm. Chị Phương kịp nắm tôi, lôi lên:
- Vĩnh ơi, làm gì có thứ gọi là tình yêu trên cõi đời này hả em! Tất cả những gì mà Vĩnh nghĩ là tình yêu, chỉ là vị kỷ, nghiệp chướng, mà thôi. Tình yêu thực sự phải vị tha, phải giải nghiệp.
Tôi cúi đầu suy nghĩ, chẳng hiểu gì ráo, mà còn cảm thấy hơi hờn chị.. Nhưng tôi không hờn được lâu, vì má chị hôm ấy trái buổi chợ, về sớm. Như không kịp thấy tôi trong nhà, bà cao giọng gắt con gái:
- Hết mùa thi rồi, mầy không trở lại chùa, bộ tính bỏ tu luôn hả
Chị Phương há hốc nhìn mẹ, rồi đôi dòng nước mắt từ từ lăn trên đôi gò má. Chị nhỏ nhẹ:
- Con đi bây giờ đó má
Nói xong, chị Phương quay gót vô phòng thu dọn quần áo. Má chị lúc đó mới quay qua nói với tôi:
- Nghĩ mà chán! Tu với hành gì mà cứ đi đi về về như đi chợ Tôi không dám nói gì, đứng dậy đi lên phòng khách, nghe lòng mình đau điếng. Tôi không nỡ thấy chị thân gái phải khăn gói ra đi khi trời sắp tối.
Tôi đợi chị ra, nói nhỏ vào tai chị:
- Ðể em đưa chị lên chùa nghen
- Tùy Vĩnh
Tôi dắt xe đạp ra khỏi nhà, mời chị Phương ngồi lên yên sau để tôi chở. Chị nói nhẹ:
- Chị thích đi bộ
Tôi dắt xe đạp đi bộ cùng chị. Ðược một quãng đường dài, chợt chị Phương dừng lại:
- Vĩnh về đi, không lẽ theo chị đến tận chùa!
Tôi cười buồn:
- Theo chị đến đâu em cũng theo hết
Chị cười thành tiếng:
- Ðồ điên. Chị chết đi Vĩnh có theo không?
Một cơn gió đêm lạnh lẽ thoảng qua khiến rồi rùng mình. Phương ơi, đừng nói gở, đừng bao giờ bỏ em. Tôi níu tay chị:
- Chị làm em sợ
Chị Phương quay lại, để yêu tay chị trong tay tôi, hai giọt nước mắt long lanh, không nóị Tôi năn nỉ:
- Chị lên chùa vài hôm rồi về nhà nghe chị
- Làm sao về được
- Chị còn giận má phải không
- Hết rồi! Nghĩ lại má cũng đúng. Ai đời ni cô gì mà không ở trong chùa mà cứ cặp đôi với...
Tôi hỏi trây:
- ... với ai?
Chị Phương thở dài:
- Thôi, em về đi Vĩnh
Tôi làm thinh không đáp, lặng lẽ bước bên chị cho đến khi cổng chùa hiện ra trước mặt Chị Phương nắm chặt tay tôi, bàn tay chị lạnh ngắt. Chị siết mạnh một cái rồi buông tay tôi ra, giọng lạc đi:
- Thôi Vĩnh! Vĩnh biệt em!.
Tôi choáng váng tưởng mình nghe lầm. Chị quay lưng, bước thật nhanh. Bóng chị nhòa đi, dài ngoằng, nhòe nhoẹt trên gương mặt đẫm nước của tôi. Chị ơi!.. Trời đã khuya lắm. Bầu trời đen thẳm. Tiếng chim ăn đêm não nuột một góc đồi. Tôi không về thẳng nhà, cứ đạp xe vòng khắp các ngả đường, dọc theo bờ biển. Vĩnh biệt? Tại sao lại vĩnh biệt? Chị Phương không bao giờ về nhà nữa sao? Tôi nhớ chị Phương. Hai mắt tôi ướt đẫm. Tôi sợ ngày mai. Ngoài khơi, những ngọn đèn thuyền lù mù, lung linh như réo gọi hồn tôi vào một cõi giới huyền hoặc. Tôi ngồi bệt xuống mặt cát ẩm, vốc lên từng nắm siết chặt trong lòng bàn tay. Phương ơi, chị ơi!.
Chiến cuộc xoay vần, ba mẹ và mấy anh em tôi dọn vô Sài Gòn ngay mùa thu năm đó. Tôi muốn ở lại lắm, nhưng không làm sao được. Cuộc sống mới, đèn sách, thi cử giam kín tôi trong một nỗi buồn vô hạn. Ba năm sau, tôi vào đại học. Rồi tôi có người yêu, một người con gái có mái tóc nhung đen và đôi mắt thăm thẳm như chị Phương.
Mùa hè năm đó tôi có dịp trở về Nha Trang. Chạy ào tới nhà Kim, mong thăm dò tin tức chị Phương. Vừa thấy tôi vô nhà, má Kim đã sướt mướt:
- Vĩnh ơi, con Phương chết rồi!
Tôi xây xẩm như té xuống hố băng. Mặt tôi chắc tái mét đến độ má Kim giật mình. Tôi bàng hoàng như người vừa tỉnh sau một giấc mộng ngàn năm. Chẳng ngờ hai tiếng "vĩnh biệt" mà chị nói với tôi lại có nghĩa này. Tôi ngồi bệt xuống đì-văng, lắp-bắp:
- Tại sao, bác?
Má Kim thở dài:
- Hai bên đụng nhau dữ quá... đạn lạc... chùa sập, nhiều người chết lắm..
Giọng má Kim nghẹn lại. Tôi chợt nhớ:
- Còn Kim đâu bác?
- Nó nhập ngũ, đóng ngoài Quảng trị, lâu lắm mới về một lần.
Tôi hỏi:
- Mộ chị Phương chôn ở đâu bác? Bác cho con đi thăm mộ..
Tôi theo chân mẹ Kim đến nơi an nghỉ của chị Phương. Chính là ngọn đồi mà chị và tôi ngồi dưới bóng cây để học bài trong những buổi trưa nắng cháy. Má Kim nói:
- Ðó là ý nguyện của nó khi lâm chung
Nước mắt tôi tới phút này mới trào ra được. Tôi nói:
- Bác về trước. Con ở đây một lúc với chị Phương rồi về sau.
Khi bóng mẹ Kim khuất dưới chân đồi, tôi ngã xuống mặt cỏ, khóc như một đứa bé khát sữa, quằn quại đau đớn. Chị Phương ơi, bóng cây còn đây, trời xanh mây trắng còn kia mà chị đi phương nào hả chị! Khóc đã, tôi lại nằm lăn ra, tìm lại trên mặt cỏ những dấu tích ngày xưa của chị. Tôi thấy hình ảnh chị lẫn lộn trong từng bụi cây từng lá cỏ. Tôi nghe cô đơn trùng điệp phủ vây. Chị vĩnh biệt em thật tình sao chị? Nước mắt của tôi lại trào ra. Phía bên dưới mặt đất mặt cỏ là thân xác chị. Tôi thấy từng ngọn cỏ như có linh hồn, vươn tay đón nhận những hạt nước mắt, thấm xuống tận thân thể chị. Tôi thấy trên từng dấu cỏ như còn in vết tích của người xưa. Những dấu cỏ theo tôi suốt cuộc đời. Phương ơi!..
Nguyễn Bá Dĩnh