vhnt, số 65
24 September 1995
Trong số này:
+ thư tín / vhnt
+ 1 - thơ, Ngày Về Thăm Mẹ, Trương Nguyễn Thi Thanh
+ 2 - thơ, Tâm Sự Thi Nhân, Tien Doan
+ 3 - tùy bút, Hồn Thu Thảo, NDL
+ 4 - thơ, Quả Bàng Cho Em, Nguyễn Văn Diệm
+ 5 - nhạc, Dư Âm của Nguyễn văn Tý, Minh Hiến/Ngô Minh Dức
+ 6 - tùy bút, Thương nhớ Mười Hai, Vũ Bằng
bạn đọc mến,
Trong truyện Kiều, Kim Trọng đón tiếp Thúy Kiều lần đầu tiên ở nhà mình, như một vinh dự và hạnh phúc, chàng tiếp đãi người yêu với: "Thời trân thức thức sẵn bày".
Một cuộc tiếp đãi thanh lịch và quí trọng. "Thời trân" là những sản vật quí đương mùa (thời là mùa, trân là quí). Theo nhà văn Vũ Bằng, muốn tìm hiểu văn hóa của một địa phương, nếu không biết những "thời trân" thì thật thiếu sót. Nó liên quan đến địa lý và lịch sử, với phong tục tập quán, văn chương và nghệ thuật... của một địa phương. Những vật sản này có khi rất tầm thường, rất bình thường, không đắt tiền nhưng lại quí vì nơi khác, lúc khác lại không thể có.
vhnt muốn nhắc nhở lại những vật sản đặc biệt của từng vùng của quê hương, và xin bắt đầu số này với loạt bài "Thương Nhớ Mười Hai" của Vũ Bằng. Trong Thương Nhớ Mười Hai, bạn đọc sẽ gặp những vật sản từng tháng ở miền Bắc nước ta. Mỗi tháng VHNT sẽ đăng một bài của thương nhớ 12, chia ra làm vài kỳ cho mỗi tháng. Mời bạn thưởng thức bài về tháng 9: Gạo Mới Chim Ngói.
Chúc bạn một cuối tuần bình yên và thư thả.
thân ái,
PCL/vhnt
Ngày Về Thăm Mẹ
đã lâu quá hôm nay về thăm mẹ
hẳn mẹ già lại thêm yếu hơn xưa
tóc điểm sương vẫn hong dưới hàng dừa
mẹ yêu quá quê hương từng tấm ruột
mới vào làng con đếm trông từng bước
ống quần cao mẹ vội vã tìm con
vì tháng năm mong mỏi mẹ héo mòn
ôi đau xót, mẹ con nay già úa!
con nâng tay xoa từng hàng nhăn nhúa
nước da này xưa một thuở tươi xanh
nay rán khô vì mưa nắng mấy mùa
con khóc nấc - mẹ ơi, con nhớ mẹ
mẹ trách con lời yêu thương - thật khẽ
con nhỏ này mấy độ chẳng thăm bu
với ngón tay xương xẩu, mẹ dí đầu
cười hóm hém, mắt mẹ đà rươm rướm
mẹ có nhớ ngày con còn chưa lớn
quất ngọn roi những lúc nói chẳng nghe ?
nay lớn khôn con mong muốn trở về
bao bấy lỗi, con trông chờ roi mẹ
tựa thuở nào, giọng bu buồn se sẽ
nín đi con, bu chẳng nỡ phạt đày
mẹ có đã, là vì hòng răn dạy
nước về nguồn dù có chảy bao xa
Trương Nguyễn Thi Thanh
Các bạn mến,
Cho Ngoan Đồng thanh-minh thanh-nga một chút nha. Ngoan Đồng ruột để ngoài da, làm gì có tâm-sự. Ngoan Đồng cũng chẳng phải thi-sĩ, nên chẳng dám xưng là thi-nhân, e bị liệng cà-chua, trứng thối vì dám "công-xúc" thi-sĩ. Bài này và bài ho hen, ho lao gì gì đó, Ngoan Đồng để chọc phá một người, dẫu mới quen trên net, nhưng Ngoan Đồng rất mến, và cũng để giúp "vui" cho các bạn. Hihihi, này thi-nhân thất-tình ơi...
Tâm Sự Thi Nhân
Ðem yêu-thương một mối tình khờ
Bao tương-tư dệt hết vào thơ
Bao lần hò-hẹn bao ân-ái
Bao lời thề-ước nhẹ như tơ
Ðem tâm-sự gửi trao thiên-hạ
Ðể tìm quên kỷ-niệm ban sơ
Ðể khuây-khỏa nỗi niềm nhung-nhớ
Ðể khách dọc xong phải thẫn-thờ
DMT (lão ngoan đồng)
23Sep95
Hồn Thu Thảo
Trời bên ngoài lạnh giâ Tiếng gió gào thét âm ỉ. Mùa đông tới sớm hơn thường lệ.
Tôi thong thả uống từng ngụm trà nóng hổi và nhìn đống sách vở bày la liệt trên bàn với nổi ngao ngán. Trời lạnh thế này, không có gì thú bằng cuộn mình trong chăn và ru ngủ bằng vài quyển truyện chưởng của Kim Dung, hay một cuốn truyện trinh thám của Agatha Christie, hay một cuốn tiểu thuyết lãng mạn trữ tình nào đó. Tôi ngã người trên ghế, mệt mỏi. Hôm nay tôi đã bỏ hết năm tiếng đồng hồ để nghiền ngẫm các phương trình thủy động lực học cho bài kiểm ngày mai. Tôi nhìn cái chăn ấm áp trên giường và cân nhắc xem có nên tiếp tục "luyện công" hay là "thiền" theo phương châm "đói ăn khát uống, mệt ngủ" của các vị Tổ sư ngày xưa. Cuối cùng tôi tự bảo với mình: "Thôi, mệt thì đi ngủ đi, có học cũng không vộ... nhất là bị chi phối bởi cái thời tiết hấp dẫn nàỵ". Thế là bản năng con người đã thắng! Tôi thở phào nhẹ nhõm, tắt đèn và trèo lên giường. Tôi tung chăn đắp kín khắp người và cuộn mình như một con mèo nhỏ rồi từ từ nhắm mắt để tận hưởng cái thú vị của giấc ngủ mùa đông.
Tôi đang nằm mơ màng, bỗng thấy ai kéo tay mình và nắm tóc giựt giựt. Tôi ú ớ một vài tiếng, rồi choàng tỉnh mở mắt. Trước mắt tôi là một ông lão râu tóc bạc phơ. Cụ nói:
- Cháu có nhận ra cụ không?
Tôi xoay nguời trên giường nhìn ông rồi đáp không ngần ngại:
- À, cháu nhận ra cụ rồị Cụ là cụ Tư thân thương của cháu đó mà. Mà cụ đã mất được ba năm rồi!
Cụ bảo:
- Phải, cụ Tư xác thịt đã mất, nhưng linh hồn của cụ vẫn còn đây cháu à.
Tôi giật mình. À, thì ra mình đang nói chuyện với ma. Nhưng sao mình vẫn thấy hình dáng của cụ một cách rõ ràng thế này. Tôi liền hỏi cụ:
-Sao cháu thấy cụ như một người bình thường, không có gì khác biệt hết vậy. Râu tóc cụ lại bạc hơn hồi xưa nữa. Mà cụ trông còn khỏe hơn trước nhiều đó cụ.
Ông cụ mỉm cười
- Cháu biết không, tóc cụ có thể thành trắng hay đen tùy ý. Ở xứ cụ ở bây giờ, không có bệnh hoạn đau khổ như ở đây. Sống ở đó người ta rất hạnh phúc, không phải lo nghĩ nhiều như ở địa cầu này. Chỉ tới số rồi mất mà thôị Cụ có thể đi đâu tuỳ ý như các phi hành gia trong the Enterprise hay Q của "Star Trek, the Next Generation" đó cháu.
Tôi liền hỏi:
- Ủa, Tại sao chết rồi rồi lại chết thêm một lần nữa? Cháu có thể lên xứ của cụ được không? Ở xứ sở này cháu mệt quá đi. Ðủ thứ tiền bạc phải lo. Bệnh cũng không dám vào nhà thương. Cháu lại mệt mỏi vì phải học hỏi quá nhiều thứ.
Cụ cười không trả lời mà hỏi lại tôi:
- Ước nguyện đi học của cháu ngày xưa là gì, cháu còn nhớ không?
Tôi đáp một cách chán nản:
- Ngày xưa cháu thấy cụ mù loà tội nghiệp quá nên muốn học giỏi để trở thành bác sĩ chữa mắt cho cụ và những ai không may bị các thứ bệnh tật hành hạ. Nhưng bây giờ cụ đã mất rồi, cháu học y để làm gì. Bác sĩ thật ra đâu có cứu nổi người khác đâu, thực tế họ chỉ làm giảm nỗi đau khổ của bệnh nhân một phần nào đó mà thôi. Cội gốc của các căn bệnh thường là cách ăn uống và sinh hoạt của bệnh nhân, song các bác sĩ không thể can thiệp vào nếp sinh hoạt của bệnh nhân một cách trực tiếp. Tất cả các ngành khác cũng vậy. Ai học cũng vì muốn kiếm một việc làm tốt lành mà thôi.
Cụ lắc đầu:
- Cháu nói sai rồi. Hãy nhìn đây.
Cụ mang lên mắt một chiếc "băng đô" bằng thép và nói với tôi:
- Ðây là viser giúp cho cụ nhìn thấy rõ mọi vật. Ở xứ cụ không có người mù và mọi nguòi đều nhàn nhã. Sở dĩ mọi nguòi ở xứ sở của cụ nhàn nhã là vì trình độ khoa học kỹ thuật của họ rất cao. Biết bao nhiêu nhà bác học, kỹ sư, đã dồn tâm huyết để cải cách cơ sở hạ tầng. Các nhà xã hội học và triết học thì góp phần vào việc cải tạo cấu trúc xã hội cho hợp lý và có hiệu quả hơn. Việc làm của mỗi người dù nhỏ tới đâu cũng mang lại một ý nghĩa đáng kể cho xã hội.
Tôi nhắc lại câu hỏi:
- Nhưng tại sao tại xứ sở của cụ vẫn còn cái chết? Và bao giờ cháu có thể lên đó ở được hả cụ?
Bấy giờ cụ mới trả lời:
- Cháu chưa sống tròn hết trách nhiệm ở đây nên cháu chưa thể gia nhập thế giới cụ đang sống được. Mỗi một thế giới đều tuân theo luật nhân quả luân hồi. Chỉ khi nào thấu triệt sự sống, người ta mới thoát khỏi vòng sanh tử được. Ở đâu cũng có cái chết và sự sống. Chính vì vậy mà các nhà khoa học mới bỏ bao công sức để nghiên cứu vềsự sanh tử của con người. Cháu phải ráng học giỏi đi rồi còn góp phần cho xã hội nữa chứ.
Ông cụ chợt bảo:
- Thôi, ta phải đi rồi.
Thân hình cụ lóe sáng và tan lẫn trong màn đen của căn phòng. Tôi bật dậy khỏi giường đưa tay như níu kéo cụ trở về:
- Cụ ơi, cụ khoan đi đã cụ...
Tiếng kêu của tôi hụt hẫn giữa hư không và bàn tay tôi níu kéo một cách tuyệt vọng một cái gì đó không hề tồn tại trong màn đen. Tôi bước loạng choạng như một người say và chới với rơi vào một vực thẳm vô hình với một tốc độ kinh hồn. Chung quanh tôi chỉ là một vùng bóng tối huyền bí...
Reng... Reng...
Tiếng đồng hồ báo thức đưa tôi trở về với thực tại. Tôi mở mắt và nhận ra mình vừa mơ một giấc mơ đẹp. Bốn giờ sáng. Tôi vẫn còn bài tập về nhà của môn giải tích số chưa làm xong. Nghĩ đến trách nhiệm của mình, tôi vùng thức dậy.
Tự dưng, tôi thèm một tí cà phê ấm trong buổi sáng lạnh giá. Một tí cà phê nóng như những ly trà sâm ngọt ngào mỗi buổi sáng tôi vẫn thường hay pha cho cụ Tư khi cụ còn sống. Một tí cà phê đắng như những lời la rầy của khi tôi lười học. Phải, trong giờ phút này, có lẻ tôi chỉ ao ước một giây phút hiện diện của cụ mà thôi...
Gió vẫn gào thét. Ánh đèn ngoài hiên chiếu hắt những bông tuyết đầu mùa đang rơi lã chã. Bốn bề tịch mịch. Tôi đứng bên khung cửa sổ với ly cà phê nóng trên tay mà vẫn có cảm giác như mình đứng bên ngoài trong làn tuyết buốt giá của buổi sớm mùa đông.
Không biết cái lạnh giá ngoài kia có bằng cái giá lạnh trong lòng tôi vào giờ phút này chăng?
Sep 22, 1995
Quả Bàng Cho Em
Hà Thao mỗi độ thu về
Lá bàng vờn cỏ làm mê lòng người
Xuân qua, Hạ đến, Thu rời
Đông sang tuyết phủ thương người biệt hương
Bao đêm thao thức canh trường
Mơ về quê cũ lòng vương vấn nhiều
Nhặt bàng đem tặng người yêu
Bàng ơi cho trái... anh chiều người thương
TTTN-KV
(09/23/95)
(trích "Kỷ niệm vui đời nhạc sĩ" của nhạc sĩ NVT, pp. 149-160)
VỀ BÀI HÁT DƯ ÂM
Vừa vào TPHCM, nghe tin anh NVT ốm nằm ở bệnh viện, tôi và nghệ sĩ sáo Ðinh Thìn vội đến thăm anh. Cùng đi với chúng tôi có anh Ðinh Phương, cũng người quê ở khu 4, một tiến sĩ rất yêu quí nghệ sĩ.
Anh Tý nằm ở khoa tim mạch, anh bị đau tim và rối loạn tuần hoàn mạch máu não.
Gặp nhau chúng tôi rất mừng vì anh không đến nỗi ốm nặng. Tôi giới thiệu các bạn với anh. Chúng tôi ôn lại những ngày kháng chiến.
Mới cách nhau vài năm mà tóc anh đã bạc trắng, vui câu chuyện tôi đùa: Phải chăng "nhớ em mấy thuở bạc đầu"? Và cũng do đó đã nhắc đến bài DƯ ÂM.
Nghe nói đến hai chữ Dư âm, anh Tý bỗng im lặng trầm tư.
Ðinh Thìn nói: Anh Tý sáng tác Dư âm vào năm nào?
Anh Tý ngẩng mặt lên, nhìn về phía xa xăm, không trả lời thẳng câu hỏi mà thong thả kể, như tự nói với mình:
Hồi đó tôi có một người bạn rất thân tên là Thủy, anh ấy rủ tôi về chơi nhà người chị của anh ấy ở một làng ven biển Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Nơi đây gạo trắng nước trong
Ðường làng cát mịn, đỏ hồng gót chân.
Chị anh ấy có hai người con gái, cô chị tên là Hà, kém tôi dăm ba tuổi, cô em là Hoàng đang học lớp 10. Hình như bạn tôi muốn tôi làm quen với cháu anh, cô Hà. Khi tôi đến, gia đình niềm nở đón tiếp. Hà, một cô gái khá xinh, có đôi má lúm đồng tiền, đun nước pha chè, thứ chè xanh vừa hái ở vườn, vò nát, chế nước sôi uống rất thơm ngon.
Hà ngồi lại tiếp tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau về văn thơ, về ca nhạc. Hà yêu cầu tôi hát một số bài của tôi đang thịnh hành và những bài vừa sáng tác. Hà thông minh, sắc sảo.
Trong lúc đang nói chuyện với Hà, tự nhiên tôi cảm thấy hình như có một đôi mắt nào đó đang nhìn tôi.
Khi Hà đi vào trong pha thêm nước vào chè, như một phản ứng tự nhiên tôi quay lại đằng sau thì bắt gặp một cặp mắt với bờ mi dài rậm, đang chăm chăm nhìn tôi, đôi mắt của một cô gái, không, của một cô bé khoảng 15 tuổi, đôi mắt như hai giếng nước trong tĩnh lặng với một chiều sâu thăm thẳm, đôi mắt trần tục, nhưng lại có một cái gì đó thật hấp dẫn, thật lôi cuốn, tôi choáng ngợp về sự hiện diện bất ngờ của cô bé. Ðó là Hoàng, em ruột của Hà.
Vừa lúc ấy có tiếng dép của Hà, bờ mi khép lại, đôi mắt biết mất.
Hà đưa tôi xem tập ca dao cô vừa sưu tầm, nhờ tôi góp ý sắp xếp. Cô trình bày ý đồ, tôi chăm chú lắng nghe nhưng thật ra chẳng hiểu gì cả.
Vừa lúc ấy đôi mắt lại xuất hiện, Hoàng bước nhẹ đến sau lưng chị, Hà không để ý vẫn say sưa nói.
Giữa ánh sáng rực rỡ của chiều tà, Hoàng càng đẹp lộng lẫy hơn, một vẻ đẹp đến nín thở, khuôn mặt trái xoan, nước da trắng hồng với mái tóc đen nhánh chảy dài xuống đôi bờ vai đến tận lưng như một giòng suối và đặc biệt vẫn là đôi mắt, đôi mắt nhìn thẳng vào mắt tôi,bây giờ không tinh lặng mà long lanh, lấp lánh như mặt hồ xao động, đôi mắt biết nói, biết cười, biết giận hờn, biết nuôi khát vọng, biết cầu xin và rõ ràng... biết yêu. Nhìn vào đôi mắt Hoàng tôi bị phân tâm, tôi không còn hiểu gì, nghe gì, thấy gì nữa.
Hà ngước mắt nhìn tôi, thấy tôi cứ chăm chăm nhìn vào một điểm trên đầu nàng, nàng vội đưa tay vuốt tóc, nhưng rồi nàng quay mặt lại và thấy Hoàng, em mình, đang đứng đằng sau, bốn mắt Hoàng và tôi nhìn nhau đắm đuối, Hà chợt hiểu, vùng vằng bỏ đi.
Tôi như tỉnh cơn mê, còn Hoàng thì bỏ chạy theo chị vào nhà trong.
Mấy tháng sau tôi mới gặp lại Thủy, anh cho tôi biết anh và Hà, hai cậu cháu, đã cãi nhau. Hà nhất định không đồng ý để cậu Thủy đưa tôi về chơi nhà, còn Thủy thì cứ muốn đưa bạn về.
Anh trách tôi: Cậu vụng về thế nào để Hà giận ghê thế. Chắc lại chê thơ của nó chứ gì. Ðối với phụ nữ như thế là không được, thiếu tâm lý.
- Không, tôi không hề chê một câu nào.
Thủy ngạc nhiên nhưng rồi chợt hiểu:
- À, hay là cậu khen nó quá lời? Con bé ấy tinh lắm, không dối được nó đâu, nó ghét nhất là tính dối trá.
- Không, tôi cũng chưa hề khen một câu nào.
- Thế nghĩa là thế nào? Không khen, không chê, cậu nghe xong rồi cứ ngồi im à.
- Vâng.
- Thôi chết! Thế thì còn nặng gấp mấy lần. Như thế là nó cho cậu coi thường tài năng của nô May mà cậu chưa khen: chữ viết đẹp và trình bày trang nhã đấy! Thôi, cậu fải đến nhà mình xin lỗi cháu tôi, sau đó phải khen vài câu rồi hãy góp ý kiến một cách thẳng thắn. Nói thật, mình rất muốn cậu trở thành cháu của mình, đừng tự ái nhé!
Tôi chân thành trả lời: Vâng, tôi cũng rất muốn trở thành cháu của anh (tất nhiên với một nghĩa hoàn toàn khác).
Thủy lại đưa tôi về nhà một buổi chiều. Tiếng sáo diều vi vu trên cánh đồng êm ả đượm hương thơm mùi cốm.
Anh mời tôi ngồi ở bộ ghế mây đặt tại góc hiên nhà, nhìn ra một sân gạch rộng. Anh pha chè mời tôi uống, còn anh phải lên phố huyện có tí việc, anh nháy mắt khuyên tôi hãy kiên trì.
Tôi ngồi đợi mãi chẳng thấy ai ra. Chè đã nhạt nước và hoàng hôn đã buông xuống, hình như tôi đã bị bỏ quên. Tôi định đứng dậy ra về thì vừa lúc ấy, không phải Hà mà cô bé Hoàng tóc ướt sũng đang từ trong nhà đi ra sân, đến ngồi trên tường hoa, quay lưng về phía tôi, mặt hướng về fía chân trời xa, thỉnh thoảng nàng ngửa đầu rũ rũ tóc để hong gió.
Nàng có biết là tôi đang ngồi trong góc hiên này không? Tôi cũng không hiểu tại sao nàng lại gội đầu vào lúc chiều muộn và hương bưởi thoang thoảng không biết có fải từ mái tóc nàng tỏa ra hay không...
Tôi lặng yên ngồi ngắm nàng trong ánh hoàng hôn, một vẻ đẹp thơ ngây, kỳ diệu, lung linh, huyền bí.
Tôi, tuy chưa đến tuổi ba mươi, nhưng cũng đã trải qua bao đau khổ ê chề của cuộc sống: từ lâu, tôi đã biết cái gì là thực tế có thể đạt được và cái gì là không thể được. Cô bé ngồi kia là một giấc mơ không thể với tới được, mà thậm chí còn không dám nghĩ đến nữa, vì tuổi tôi gần gấp đôi tuổi nàng. Mẹ nàng, cậu nàng, chị nàng và có lẽ cả nàng cũng không bao giờ chấp nhận, vậy thì chớ dại dột đuổi theo ảo vọng!
Trăng lên, nàng đi vào nhà và lấy cây đàn ghi ta ra. Nàng gẩy nhẹ dây dạo nhạc và khe khẽ hát như để cho riêng mình nghe. Ánh trăng chảy dài trên suối tóc. Tiếng hát to dần.
Tôi lắng nghe đến sững sờ giọng hát trong vắt, ngọt ngào mà sâu lắng của cô gái nhỏ. Tiếng hát nói lên sự khát khao và ước vọng, thương cho người cô lữ đêm đông không nhà, khóc cho những mối tình thầm kín đã vỡ, những giấc mộng tuổi thơ đã chết.
Ngồi trong bóng tối mắt tôi ứa lệ, tôi xúc động đến thấy ớn lạnh ở xương sống.
Tôi chết lặng theo tiếng hát buốt nhói của con tim đau khổ đầy lòng bác ái, vị tha. Tôi ngồi đó lặng yên như hóa đá.
Năm 1950 tôi gia nhập quân đội nhân dân và được cử làm trưởng đoàn văn công sư đoàn 304.
Một đêm, sau khi tôi đi kiểm tra đơn vị về, dưới ánh mặt trăng trong, trên cánh đồng bát ngát dậy hương cốm, những kỷ niệm ở làng ven biển sống lại trong tôi, những nét nhạc tự nó âm vang thôi thúc. Sợ nó biến mất mà không kịp ghi lại, tôi vội xách cây đèn bão xuống nhà bếp, hạ cái nia xuống đất, lấy tấm cót quay quanh để che ánh sáng, đề phòng máy bay địch tập kích. Tôi chui vào ngồi giữa cái nia như ngồi trong lòng giếng, gẩy đàn và sáng tác. Có lẽ không fải tôi sáng tác mà tôi ghi lại những gì vốn có trong đêm trăng ấy:
"Ðêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ
Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ
Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn sóng
Yêu ai em nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa xôi..."
Và nét nhạc cũng tự thân nó trào ra như một giòng suối uyển chuyển nhịp nhàng theo lời ca.
Như vậy là bài hát Dư A%m đã được sáng tác chỉ trong một đêm trên một chiếc nia có tấm cót vây quanh.
Nó là bài hát bỏ túi, riêng tư cho mình và cho các bạn rất thân, nhưng không biết tự bao giờ nó đã phổ biến.
Năm 1957, công tác ở Hội Nhạc sĩ, tôi về Vĩnh Yên, Vĩnh Phú sưu tầm dân ca. Một buổi chiều đang đi trên cánh đồng rộng mênh mông thì trời nổi giông, nhìn quanh không có nhà cửa, chỉ có một doanh trại bộ đội gần đấy. Tôi vào phòng trực, đưa giấy tờ định sẽ xin trú lại qua đêm với lời hứa sẽ sáng tác cho bộ đội một ca khúc.
Tôi lững thững vào doanh trại thì có một nữ chiến sĩ dáng cao cao, mặc quân phục mới, đầu đội mũ cối quai hạ xuống cằm, đi ra.
Từ xa tôi đã ngờ ngợ thấy một bóng dáng nào đó rất quen. Ðến gần chỉ còn độ dăm bước thì tôi chợt nhận ra Hoàng, chính là Hoàng. Tôi dừng lại, ngỡ ngàng, rồi quay gót đi nhanh như chạy trốn, ra phòng thường trực xin lại giấy giới thiệu, bỏ đi dưới trời mưa tầm tả.
Sao tôi lại chạy trốn Hoàng?
Không, tôi không chạy trốn nàng mà tôi chạy trốn chính những ảo vọng đã bừng cháy trong tôi, tôi sợ có tan vở. Chỉ có một điều tôi băn khoăn mãi là liệu nàng có kịp nhận ra tôi không.
Năm 1962, ở Hà Nội, một hôm tôi thấy Hoàng vẫn mặc áo quần bộ đội, nhưng đã trải màu sương gió - đang đi vào một hiệu sách cạnh nhà tôi. Mười ba năm đã trôi qua rồi còn gì! Tôi quyết định sẽ gặp Hoàng, tôi đứng ở cửa chính để chờ. Rõ ràng có lần nàng quay lại nhìn tôi, bỗng nàng lách vội ra cửa phụ rồi biến mất.
Ðấy, cuộc đời là sự trả giá! Tôi đã chạy trốn nàng thì bây giờ nàng lại tránh mặt tôi.
Từ bấy đến nay, tôi chưa bao giờ gặp lại nàng. Tất cả đã qua đi và cánh cửa quá khứ đã khép lại. Dư Âm chỉ là một mối tình không một lời nói, không một nụ hôn... và cũng có thể chỉ là một mối tình đơn phương, một ảo ảnh mà thôi.
- Thế anh có biết chị Hoàng bây giờ làm gì và ở đâu không?
- Nào tôi có biết!
Lúc này anh Ðinh Phương lên tiếng: Anh Tý ạ, tôi cũng người Quỳnh Lưu đây! Nhà Hoàng ở cách nhà tôi không xa. Em gái tôi là Diệu Hương học cùng lớp với Hoàng, hai người chơi thân với nhau. Qua Hương tôi biết Hoàng rất quí mến anh. Khi bài Dư âm của anh không biết từ đâu lọt về trường, Hoàng là người dám công khai trình diễn và là người trình diễn đầu tiên. Có lúc cô bé ngồi nhìn bản nhạc một mình rồi cười khúc khích. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, đến học kỳ sau có một điều làm chúng tôi rất ngạc nhiên: Hoàng vốn hồn nhiên, nhí nhảnh là vậy, bỗng trở nên trầm tư, ít nói, hay buồn hình như đang có điều gì khắc khoải chờ mong. Hoàng thích sống cô đơn, cô đơn ngay giữa những người thân: mẹ, chị, cậu, bè bạn... Có lần Hoàng nhìn bầy ong trong vườn và nói với Hương: Con ong bay đi tìm hoa hút nhụy về làm mật, rồi sẽ chẳng bao giờ trở lại với đóa hoa ấy nữa. Ai có thể trách nó là bạc bẽo hay vô tình! Nó hiến dâng đời vị ngọt mà nó đã dùng cả tâm lực mình chắt lọc ra.
Hương cãi lại: Nhưng hoa cũng phải tự hào vì đã được đóng góp sức mình cho những giọt mật đó.
Hoàng nói vớ giọng lạnh lùng: Mật có loại ngọt... mà cũng có loại đắng lắm!
Cũng từ dạo đó Hoàng hầu như không bao giờ hát nữa, hoặc có chăng chỉ hát một bài... Dư Âm.
Tiếng hát của nàng tha thiết.
"Dư âm tiếng hát reo lên trong lòng anh bao nhớ nhung
Ðê mê lòng nhớ đêm qua giấc mơ, môi em hé rung
Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió
Ðưa anh tới cõi mơ hồ nào đấy, muôn kiếp bên nàng".
Vâng, Hoàng đã đổi chữ "đàn" thành chữ "nàng", "muôn kiếp bên nàng", Hoàng cho rằng tác giả đã vô ý chép sai (?)
Nhưng có một điều trái nghịch mà tôi và em tôi đều thấy: Khi hát Dư Âm mắt Hoàng ngấn lệ. Hình như Hoàng đang khóc cho một cái gì rất đẹp, rất cao thượng đã chết.
Anh Tý như người mất hồn, lẩm bẩm: Lỗi tại tôi! Nàng cho tôi là kẻ vô tình... từ giờ đến khi nhắm mắt nhất định tôi fải tìm gặp Hoàng để nói với Hoàng một câu, chỉ một câu thôi: Không! Anh không fải là người như thế!
Anh lặng đi hồi lâu, ngồi im bất động. Sợ anh bị ảnh hưởng đến tim, tôi cầm tay anh an ủi:
- Dù sao hôm nay anh cũng biết được một tin vui về Hoàng, đó cũng là niềm an ủi trong cuộc đời. Tất cả không phải là ảo ảnh mà đã gần với sự thật hơn.
Anh Tý buồn rầu nói:
- Chính vì vậy tôi càng thấy tôi có lỗi lớn hơn biết bao! Giá chi...
Cuộc đời của mỗi người, nói cho cùng rồi cũng qua đi, còn lại chăng chỉ là dư âm của một thời dĩ vãng lắng đọng mãi trong lòng chúng ta.
Nghệ Sĩ Ưu Tú Minh Hiến
(Nhân ngày sinh thứ 70 của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý)
THÁNG CHÍN, GẠO MỚI CHIM NGÓI
Thì đã bảo cái gì đẹp thường là vẫn chóng tàn. Giai nhân, danh tướng đều không để cho người ta thấy bạc đầu thì dễ gì trăng lại cứ sáng mãi, tròn luôn để cho tao nhân mặc khách cứ uống rượu khà mà ngâm câu "nguyệt thi cố hương minh".
Trăng giữa tháng tám đẹp trội lên, đẹp ảo huyền tức là trăng sắp kém tươi và bớt sáng đến nơi rồi. Biết quá cái diễn tiến của cuộc đời là thế, các nhà thơ đành chỉ còn biết nhìn trăng mà luyến tiếc, sống mà đã thấy rõ rằng ngày đương có là ngày đã hết.
Bao nhiêu lời vàng nói lên cái cảnh đưa bạn ở trên sông nước bây giờ thành ra là những tiếng thơ tả nỗi lòng của người đa cảm chia tay với trăng thu để cho những ngày bàng bạc mầu chì có mưa bóng mây, có gió lạnh, có tiếng sếu kêu đìu hiu về thay thế.
"Ðầu bến sông Hoài bóng nguyệt soi,
Trời chìm đáy nước, nước trôi xuôị
Sáu triều việc cũ,
Mây nổi chơi vơi,
Dưới trăng ấy
Ta với người
Biết nhau rồi đấy muôn trùng thẳm,
Thuyền rẽ sông Hoài sóng bạc trôi ."
Cái buồn của tháng tám nên thơ, qua khúc rẽ, cái buồn của tháng Chín ủ ê, day dứt.
Nhìn lên trời, người ta trông thấy trăng liềm nhô ra khỏi mộng để cho ánh ngà vắt sữa xuống ngàn cây; nhưng bây giờ thì mỗi khi chiều lắng xuống, sương đâu đây đã dâng lên và hơi lạnh bắt đầu vỗ cánh bay vào trong quán gầy, có người đàn bà vặn ngọn đèn nhỏ lên may áo rét cho chồng nơi gió cát.
Những lúc đó, vì có muốn bắt chước người ly phu trong thơ Ðường lạy trăng xin ở lại thì trăng cũng chẳng buồn nghe. Bấy giờ, nghĩ mới ghê cho các cụ ngày xưa, biết lẽ tồn vong hơn cả ai ai, gặp những giây phút rầu rĩ như vậy, không nói không rằng, lặng lẽ trèo lên núi cao uống rượu "Trùng Cửu đăng cao" để tiếc nuối mùa thu sắp hết.
Hay là để hưởng nốt những cái gì còn để hưởng? Không biết. Nhưng thấy các cụ ăn Tết Trùng Cửu ở trên cao như thế thì vợ chồng mình một ngày Trùng Cửu xa xưa nào đó cũng bắt chước, trèo lên trên lầu, nhìn ra sông nước xa xa ngâm khúc hát tạ từ:
Hôm nay có phải là thu,
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về
Cảm vì em bước chân đi
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn,
Ai về xa mãi cô thôn
Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà
Ngày anh mới bước chân ra
Tuy rằng cách mặt lòng ta chưa sầu
Nắng trôi, vàng chảy về đâu?
Hôm nay mới thật bắt đầu mùa thu
Vũ Bằng
Thương Nhớ 12, Tháng Chín
(còn tiếp)