vhnt, số 211
5 August 1996
Trong số này:
thư vhnt....................................................Trần Hoài Thư
T h ơ :
1 - Viết trước cho mùa thu ....................................Trúc Lê
2 - Dị mộng .......................................................Cỏ Nhớ
3 - Có phải lời tạm biệt ......................................Ý Liên
4 - Lời tình yêu ........................................Tôn Thất Hưng
5 - Về thơ ...............................................Trần Thái Vân
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Góp ý về "Nước cờ Hư Trúc" của NQT .............Dũng Nguyễn
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Thư gửi Mỵ ...................................................Y Khanh
8 - Những con rối cuộc đời ..........................Bùi Thanh Liêm
9 - Nó .............................................Nguyễn T. Ðoan-Thuần
Những ý nghĩ rời của một ngày đầu tháng tám
Sáng nay, vào lại chổ ngồi cũ, login, và mở lại E Mail. Không có thư. Hơi nhơ nhớ. Phải tập đi chứ. Ðể quen với đau.
Ðể chai như đá. Ðể khỏi một ngày nuốt hạt lệ đổ. Ðể cắn miệng cắn môi trong những giờ ly biệt.
Và cũng vì không tập, không coi đời là áng mây, không coi mắt xanh, tóc mềm chẳng qua là của phù vân ảo ảnh, nên sống mà cứ mộng ảo chập chùng.
Hôm nay, trên chục người bỏ đi. Các cubicle trống vắng. Vắng cả tiếng nói cuời quen thuộc đầu ngày. Về thể thao. Về thời tiết. Về trăm ngàn thứ. Họ bỏ đi lúc nào. Chẳng biết. Bây giờ còn lại dăm ba người. Ngồi xuống. Chồng tài liệu, sách vở bừa bãi trên bàn. Ly cà phê còn bốc khói. Một ngày bắt đầu cho cơm áo, hay cho những thứ tất nhiên hệ lụy. Những mảnh đời bị cắt bởi hai cây kim đồng hồ, bỏ lại đằng sau. Nhưng vẫn có những gì còn lại bây giờ và tương lai. Kỷ niệm. Hình bóng. Tình thân. Bằng hữu. Kinh nghiệm. Lịch s Và trong cái hộp đầy những nhụy hoa khô héo có cái nhụy nào để ta phải trân trọng hơn hết?
Người viết cũng vậy. Anh phải chọn lấy con đường nào để anh đi đây.
Một độc giả là giáo sư chương trình song ngữ ở một trường trung học tại Boston vừa cho biết anh đã mang Ra Biển Gọi Thầm vào lớp, và kêu một em gái lớp 12 đọc truyện Bãi Chiến. Em đọc một lúc, rồi ngưng. Em xin lỗi mắt em đã mờ lệ, không thấy chữ.
Ðối với một người viết như tôi, tôi coi đó là sự thành công. Ðó là niềm an ủi vô biên cho bất cứ một ai cầm viết. Nhưng một câu hỏi đặt ra cho tôi: Tại sao cứ mang lại hạt lệ cho thế hệ vô tội như các em, bắt các em phải nhớ đến những thảm kịch của quá khứ, trong khi tuổi của các em là lứa tuổi của mơ mộng, tình yêu? Có nên cho các em biết về những gì hôm qua mà chúng tôi đã chịu đựng ?
Trần Hoài Thư
Viết Trước Cho Mùa Thu
Ta đã rời tay
Xa người yêu dấu lâu rồi
Và còn lại nỗi cô đơn vĩnh cửu
Ðầy ắp con tim - Nghẹt thở đất trời
Ðúng hẹn như mùa Thu
Ta chẳng bất ngờ
Nắng vàng thắp ngọn đèn mơ
Ta chợt nhớ
Một lần gặp em
Hạnh ngộ
Em từng ở trong ngôi nhà cổ
Yên lắng tuyệt vời
Như lời bài ca không còn ai hát
Ngân nga nhịp đời
Một đêm trắng
Ta và trang sách cũ
Em dịu dàng tay đan
Bình minh không ló dạng
Chờ nụ hôn dài ngưng lại
Buồn - Ngày mai
Thu cho lá vàng rơi
Ngút ngàn xào xạc
Cho sầu bi chất ngất, kiêu sa
Tràn chén mỗi ngày qua
Còn chi ngoài cay đắng?
Ta yêu em
Không ngần ngại
Quyến luyến - Say mê
Nguôi tan - vùi thân vào xao xác mùa Thu
Cho cuộc tình thành gió vi vu
Áo nàng rơi
Như cánh rừng trút lá
Vòng tay ngọt ngào dịu vợi
Phút vĩnh hằng
Ta xin được ngủ quên
Tim ôm trọn nỗi đau
Ta đi qua và tình cờ tìm gặp
Một bài thơ
Viết trước cho Mùa Thu.
Ngày cuối tháng 7
Trúc Lê
dị mộng
Ðêm nghiêng xuống
nỗi buồn hạnh ngộ
người quê hương
giấc ngủ chập chờn đêm giông tố.
Mành động rèm thưa
lao xao mùa trăng quá vãng
người quê hương, người quê hương một thuở
ôm cuộc tình keo rã hồ tan.
Ðêm trải vàng nhung nhớ
thuở yêu em bồng bột
vẫn ngỡ mình xuống đời
vấp từng, vấp từng bước một .
Ôm thương tích thảng thốt
ở quê hương, người vai mỏi hồn mềm
như bao lần bất chợt
chỗ quê người cũng hồn mềm vai mỏi
bóng em.
Cỏ Nhớ
Có Phải Lời Tạm Biệt
Mai tôi rời thành phố mù sương
đồi dốc quanh co những điệu buồn
hồn tôi mưa nắng , trời tháng tám
nên mỗi lần đi lại nhớ thương
Mai tôi xa than`h phố sầu đông
tuyết trắng đường xa, trắng lạnh lùng
hồn tôi một góc trời ấm nắng
sẽ nhớ một trời xưa tuyết mênh mông
Mai tôi xa thành phố long đong
ngày nắng đêm mưa đến chạnh lòng
con đường nắng bụi, tôi kẻ lạ
để bụi vô tình cay mắt trong
Mai tôi đi còn lại một dòng sông
lau lách quạnh hiu thuở phiêu bồng
cơn lốc lưng trời nghe đồng vọng
nhớ người, tôi khóc một giòng sông
Ý Liên
Lời Tình Yêu
"Anh yêu em nên yêu vầng trăng mười sáu!"
Ðêm ba mươi cũng có trăng mà
Ngọn gió rì rào, trái tim thổn thức
- Sẽ chết vì...
Những lời đứt quãng
Môi đa tình nuốt mất lời yêu
Trăng bàng bạc tình chẳng cạn
Ngày rạng rồi trần trụi cùng ai
Ðem ân ái đổi trăm ngàn thứ
Nhẹ như lời ngọn gió theo mây
Ðêm và đêm, ngày và ngày
Ta lẫn lộn giữa tình và tứ
Người ơi người!
Viễn xứ gởi lời thợ
1990
TTH
Về Thơ
Tôi đến với thơ một chiều nhạt nắng
Hình như là thuở ấy mới mười ba
Ngồi bâng quơ đọc bài thơ tang trắng
Ngỡ rằng mình nhân chứng đã từng qua
Tôi vẫn nhớ về muà hè năm ấy
Nắng ươm vàng, mây trắng, gió xôn xao
Hoa khế đỏ, hương xưa giờ còn đấy
Giấc mơ hồng sợ lỡ bước nôn nao
Và như thế bài thơ tình thứ nhất
Mấy chục trang giấy nháp: chỉ đôi dòng
Mà sao tôi trong lòng rung động thật
Mối tình đầu? Có thể, hoặc là không!
Khi lớn lên, cuộc đời thâu nhỏ lại
Xa gia đình nhung nhớ cũng làm thơ
Biển Nha Trang mơ về bên cửa Ðại
Ðèo Phượng Hoàng thương quá bến Nam Ô
Thơ im lặng trong những lần lao động
Nơi nông trường đất đỏ bụi mờ bay
Ðỉnh đồi Mơ chiều thiên nhai gió lộng
Liếc nhìn Hoặc thơ chớm nở đầu tay
Tình hé nhụy thơ hồng hơn lúc trước
Tội cho thơ vất vả suốt ngày đêm
Làm thi sĩ, tôi chẳng hề mong ước
Làm tình nhân, tôi muôn thuở vẫn thèm
Thơ có lúc khóc cho vài thằng bạn
Chết sa trường, hoặc bị cụt chân tay
Tuổi mười tám không phải thời chiến loạn
Chết như là con chó nhỏ phơi thây
Thơ ray rứt trong những ngày viễn xứ
Ðã cùng tôi lên, xuống biết bao lần
Chiều độc ẩm, đàn nâng cung cô lữ
Tự nhớ mình, nhạc hoài cảm lâng lâng
Thơ hạnh phúc bên bờ hồ hoa trắng
Trăng mơ màng mang lại tuổi xuân xanh
Em cười, nói, rồi em ngồi im lặng
Ơ này thơ... Bất chiến tự nhiên thành
Thơ đã qua, một phần đời lưu lạc
Qua con đường không có tuổi, có tên
Qua đại dương cỡi trên đầu sóng bạc
Thương nhớ bao người, thơ thương nhớ tên
Ừ, gốc khế là người tình thứ nhất
Là cội nguồn thơ từ đó sinh ra
Hoa khế đỏ, trần truồng nhưng rất thật
Có ngọt, chua nên ngày tháng mặn mà
trần thái vân
Góp Ý Về "Nước Cờ Hư Trúc"
Ðọc Văn Học tháng 7 /1996, tòa soạn có giới thiệu bài viết "Nước cờ của Hư Trúc" của Nguyễn Quốc Trụ liên quan đến bài "Hiện thực và Tưởng tượng" của Nguyễn Xuân Hòang. Tò mò vì tên của bài viết, tôi có vội đọc lướt qua, xong rồi đọc kỹ và có ý dịnh sẽ viết vài dòng về bài này. Nhân tiện có anh Phùng Nguyễn gửi lên Ô-Thước, tôi có vài ý kiến trao đổi cùng các bạn.
Theo tôi, bài viết của NQT cũng ly kỳ uốn éo bí hiểm như tên của bài viết. Phần mở đầu hình như chẳng ăn nhập gì đến trọng tâm của bài. Ðưa lên một hình tượng nhân vật trong Thiên Long Bát Bộ và Lục Mạch thần kiếm, nhà sư Hư Trúc, NQT muốn nói gì đây?
Trong thế chẳng đặng đừng, Hư Trúc đã dùng vô chiêu thắng hữu chiêu, giống như là buồn ngủ mà gặp chiếu manh, chứ tài cán gì đâu. Cũng giống như Quách Tĩnh khi lạc trên Ðào Hoa đảo, đấu nhạc với Hoàng Dược Sư trong khi bản thân của anh chàng chẳng có một chút kiến thức nào về âm nhạc. Mà cái này thì liên quan gì đến chính tà, Quốc Cộng, liên quan gì đến cái mà NQT muốn nhấn tới: Nhà văn có tài là người giỏi bắt chước. Bắt chước có nghệ thuật, có sáng tạo.
Tiếp theo phần mở đầu lạc điệu là những lý luận giải thích về chữ sáng tạo, là sự bắt chước, là trò giỏi hơn thầy khi sáng tác ( Gabriel Garcia Marquez bắt chước, ôm nguyên bộ Absalom! Absalom! của Faulkner để viết thành Trăm năm cô đơn và nổi tiếng). NQT đã đi xa hơn khi cho rằng những nhân vật của Kim Dung là bắt chước từ Tây Phương???? Tôi nghĩ NQT cũng đã "tưởng tượng" hơi nhiều khi gán ghép điều này. Tôi vẫn không hình dung ra được Vô Kỵ và Kiều Phong thì dính gì tới Oliver Twist của Dickens chứ.
Tác giả càng lạc đề hơn khi giải thích nước cờ Hư Trúc theo cái nhìn chủ quan của tác giả: những giải thích có tính cách chính trị (pro politics), bôi bác, bôi nhọ những người bên kia: "... Có thể cắt nghĩa nước cờ Hư Trúc, khi được áp dụng vào cuộc chiến Việt Nam, qua một hình ảnh mượn từ huyền thoại Hy Lạp: Con ngựa thành Troiẹ Huyền thoại trở thành hiện thực cùng với cuộc tập kết năm 54 của những người Cộng sản Miền Nam, khi họ được lệnh Ðảng, mỗi người phải để lại, ít nhất là một cái bầu cho một cô gái Miền Nam. Huyền thoại tái xuất hiện khi Miền Nam tan hàng, bỏ chạy để lại tình người Việt trong từng câu nói, từng cách sống, từng lời hát, nói tóm lại cái được gọi là tình tự dân tộc.
Niềm bí ẩn, điều tối kỵ này lần đầu tiên được bộc lộ đối với những người Miền Bắc, ngay trong ngày 30/4/75 khi họ đụng chạm thực tế Miền Nam. Nhiều người nói, cuộc chiến Việt Nam không có kẻ thắng người bại, thực sự, người dân Miền Bắc, những.." Trong một bài viết văn học, đặc trưng này vô tình đã làm giảm giá trị của bài khảo luận.
Phần kết luận của NQT lại càng làm cho tôi buồn cười hơn. Ý tác giả cho là đừng nên sửa văn nhằm mục đích chính trị, vì chuyện này khủng khiếp lắm, vậy mà chính tác giả, qua bài viết này đã cố tình mang chính kiến của mình để giải thích lịch sử. Vậy thì thưa các bạn, chủ đề của bài viết này là gì?
Dũng Nguyễn
Thư Gửi Mỵ
Mỵ thương,
Nhận thư của nhỏ, ta cứ bâng khuâng mãi, nên xem ngay hay... để dành. Do dự rồi lưỡng lự rốt cuộc, ta chờ đêm đến trăng sao thắp đèn rồi ta mới hồi hộp bóc thư nhỏ ra đọc...
Nhìn hàng chữ tím thân quen lướt đều trên trang giấy trắng, ta hình dung ra được ngay nhỏ Mỵ ngày nào gò lưng cắm cúi, nắn nót nâng niu từng chữ một và luôn đạt ưu hạng trong phần trình bày!
Nhỏ vẫn còn viết bằng bút tre mực tím ư?! Cái ngòi bút nho nhỏ thanh thanh mà ngày xưa mi và ta vẫn thường nhín tiền quà để mua?! Nhìn nét chấm phá, từng nét phẩy thật kiêu hãnh... giản dị nhưng sắc sảo, đơn sơ... nhưng trữ tình... ta thật nhớ quá nhỏ ạ! Nhớ về nhỏ, nhớ về ngôi trường thân yêu, bạn bè quen thuộc và nhất là nhớ về tuổi học trò thơ ngây chưa phai vết ưu tưu của cuộc đời...
Ngồi đây trong tĩnh mịch, ta miên man nhớ về nhỏ, về ta, về thuở ấu thơ của chúng mình. Trong cuộc sống hỗn tạp xô bồ và loạn ly này, liệu có cho phép ta quay về dĩ vãng?? Có những lúc mệt mỏi chán chường... ta lại muốn kỷ niệm thơ ấu đó cuốn chăn trùm ấm thân thể rã rời của ta!? Nhỏ ạ, ta thật mâu thuẫn phải không nhỏ! Ta đâu còn là "nhỏ Diệp nhí nhảnh" hồn nhiên ngày nào mà bọn mi, con Thanh con Mỹ và nhỏ vẫn thường trêu... Xã hội và những vấp ngã của ta trên đường đời và trong cuộc sống đã bào mòn dần sinh khí của ta nhỏ ạ! Ta như con tàu nhỏ giữa phong ba sóng bủa, tuyệt vọng nhưng vẫn cứ ôm chặt bánh lái để hy vọng một ngày "trời quang mây tạnh" tìm lại được niềm vui, niềm hạnh phúc an ủi của người đời ban bố cho ta.
Trong gia đình ta, chẳng hiểu sao, ta lại có một hố sâu chia cách ta và Bố Mễ Có phải chăng vì những lý luận??? Có phải chăng vì ta hay ngấm ngầm chống đối những bất công mà người xưa đã dành riêng "ưu đãi" cho phụ nữ chúng ta??? Mặc dù ta vẫn cố lấp đi cái hố oan nghiệt độ. Nhưng nộ. vẫn trường mình ngoài tầm tay với!! Có một hôm cuối tuần về thăm nhà, ta mệt nhoài sau một ngày làm việc vất vả, khi chào Bố Mẹ xong, ta lẳng lặng định trở về phòng tìm giây phút yên tĩnh. Bố ta thẩy chồng giấy tờ trước mặt ta và bảo:
"Con Diệp xem lại các hồ sơ và thảo cho bố lá thư khiếu nại xem nào!"
Lúc đó ta thật sự quá mệt mối nhỏ ạ! Trong sở, ngày hôm đó ta đã đụng độ với bạn đồng nghiệp vì ý bất đồng, đã gây cho ta tâm trạng rối bời. Ta đâu còn tâm trí nào xem văn kiện nữa! Có lẽ sự mệt mõi đó đã làm ta quên đi cả ý thức... phải nói là vô phép vì ta vẫn lẳng lặng về phòng đóng cửa!! Chỉ có thế mà Bố Mẹ ta đã lật ngược cả gian nhà lên!!! Bố quáo tháo:
"Con Diệp hỗn xược kia, có đứng lại không thì bảo??!!"
Ta thưa:
"Con mệt quá Bố ạ! Hay là mai con sẽ xem lại Bố nhé!?"
Tiếng Mẹ ta đay nghiến:
"Ối giời ông ơi! Con nó lớn rồi, chữ nghĩa đầy cả đầu, văn chương lấp cả bụng thế kia tưởng nó rước mình sang đây để phụng dưỡng sống nốt những ngày còn lại... Ai ngờ nó đem Bố nó, Mẹ nó sang... để nó khinh nó nhờn!"
Ta đã bật khóc khi nghe những câu này đó nhỏ! Tại sao Bố Mẹ ta không thể thông cảm cho ta hở nhổ?? Mỗi lần ta cố gắng trình bày những khó khăn của ta thì Bố Mẹ lại cho rằng... ta đang kể công, kêu khổ!!! Trời ơi, ta phải làm sao đây hở nhỏ????
Nhỏ hỏi ta về Tình Yêu ư?! Liệu có còn phải là tình yêu khi những giao động của tinh thần, những phiền toái của cuộc sống làm cho hai tâm hồn thu người lại... nấp kín sau bức tường im lặng, không còn một lời an ủi khuyến khích lẫn nhau! Liệu có phải là Tình Yêu khi hai người gặp nhau chỉ còn để đóng trọn vai tuồng bằng những câu đưa đẩy, bằng những nụ cười giả dối??
Suốt 6 năm trời, tay nắm tay đi bên nhau nhưng thủy chung vẫn mãi mãi là hai đường thẳng song song không điểm hẹn! Hai tư tưởng quá khác biệt và lòng tha thứ của ta cũng giới hạn! Ðã bao lần Tình Yêu ấy, con người ấy đã quỵ lụy thề thốt với ta... Ðã bao lần ta đã xiêu lòng trước những khẩn cầu được tuôn ra từ đôi môi ngày nào đã nói lời đằm thắm yêu đương. Ta cuồng điên, ta bật khóc, ta đau xót... ta tan nát... Nhưng người vẫn vô tình, vẫn dửng dưng và đùa giỡn trên tình cảm rướm máu của ta. Ta bỗng sợ hãi tất cả, sợ bóng đêm, sợ kẻ lạ và s cả người mình quen... Ta cảm thấy ta bị tước đoạt đi mọi thứ, những niềm vui, sự hãnh diện, lòng tự tin và niềm tin ở kẻ khác... Ta chợt nhớ tới hai câu thơ của Xuân Diệu:
Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết,
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt....
Tình yêu của ta như cái chòi đã mục nát... càng vá víu càng thê lương. Tình cảm và lòng nhẫn nại của ta đã bị bóng đêm và gió bão làm xiêu vẹo. Thôi thì hãy chọn giải pháp cuối cùng, tuy đau cắt ruột nhưng vẫn còn hy vọng vào thời gian sẽ nhòa nhạt đi tất cầ Vẫy tay chào Tình Yêu nhé!!!
Nước mắt ta lại chảy, miệng môi ta lại khô héo... Trong những lúc quẩn cuồng ấy... tận cùng trong tiềm thức ta nghĩ đến cái chết! Có thật cái chết có thể giải tỏa tất cả? Có thật cái chết là giải đáp cuối cùng cho bài toán sống phức tạp này??? Có phải số phận ta dính liền với cái tên mà ta đã và sẽ mãi mãi mang theo suốt cuộc đời??? Thu Diệp, chiếc lá úa tàn thoi thóp đang đợi ngọn gió Thu phớt nhẹ để rồi rơi rụng trở về với cát bụi??? Hãy cầu nguyện cho ta nhé!
Thương,
Thu Diệp
Viết vào cuối Thu 1994
Ykhanh
Những Con Rối Cuộc Ðời
Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh...
Cuối cùng thì chàng cũng đã trở lại thành phố Nữu Ước, trở lại khu Mã Nhật Tân sầm uất, với phố Wall và dòng người như trẩy hội, với trung tâm mậu dịch quốc tế ồn ào náo nhiệt, với những tòa binh-đinh chọc trời, với Twin Towers, với Empire State Building, với tượng Nữ Thần Tự Do, đảo Liberty, con đường Canal, phố Tàu, đại lộ 5, phố Ý.
Chàng đến Nữu Ước kỳ này không phải chỉ để du lịch và thăm bạn bè như mọi khi. Mục tiêu chính của chuyến đi này là đi xem đoàn Múa Rối Nước Thăng Long của Hà Nội đang trình diễn ở trung tâm văn hóa nghệ thuật Lincoln.
Từ thuở bé, Ðăng đã mê xem múa rối, đặc biệt là môn múa rối nước. Chàng còn nhớ là hồi chàng còn bé xíu đã được mẹ dẫn ra ngoài đình để xem đoàn múa rối nước từ trên thành phố về trình diễn. Chàng sinh ra và lớn lên ở một thôn làng hẻo lánh miền thượng du Bắc Việt, nằm trên tận tuyến đầu tổ quốc, cách Hà Nội khoảng 200 cây số về hướng Bắc. Một địa danh nổi tiếng cách làng chàng không xa là phố Kỳ Lừa. Ở đây quanh năm sương khói lờ mờ vây kín không gian. Theo địa lý nước ta thì ngọn Hoàng Liên Sơn có địa thế cao nhất của Việt Nam; do đó, nằm trong nhà, nhìn ra ngoài, Ðăng vẫn thường thấy mây trắng bay qua cửa sổ.
Vì địa điểm núi non hiểm trở và sơn lam chướng khí, nên bản làng này ít được trung ương lưu ý tới, do đó mỗi khi có đoàn văn công từ thành phố về trình diễn là cả làng vui nhộn hẳn lên như ngày hội lớn.
Mãi cho đến sau này, những năm cuối thập niên 60, khi tổng thống Giôn-Sơn của Hoa kỳ mở rộng chiến dịch oanh tạc Hà Nội và Hải Phòng, từng đoàn người từ mạn xuôi lên đây sơ tán, trong số đó có đội văn công và các toán nghệ thuật khác từ trung ương. Thế là dân trong làng tha hồ mà mục kích đủ các trò, nào là hát chèo, kịch nói, xiếc, ảo thuật, múa rối, vân vân... Và kể từ đó chàng được dịp theo mẹ ra ngoài đầu đình để xem múa rối nước thường xuyên hơn. Dần dần, chàng đâm ra nghiền bộ môn nghệ thuật này lúc nào mà không hay.
Chàng mê lắm những hình nộm đủ màu sắc bay lượn trên mặt nước. Chàng thấy được tuổi thơ của mình trong những pha chọi gà, đánh đáo, bắn bi được các con rối biễu diễn tài tình trên sân khấu. Chàng bị mê hoặc bởi những hình nộm múa may quay cuồng trên mặt nước; mặt nước lúc phẳng lặng, lúc dợn sóng, lúc bắn lên tung tóe. Chàng và các trẻ con khác đã ré lên khi đến màn rồng phun lửa hay yêu quỷ hiện hình.
Có lúc chàng đã táo bạo ước gì chiến tranh sẽ không bao giờ kết thúc, để đoàn múa rối phải tá túc lại đây, để chàng và dân trong làng còn mãi được xem múa rối nước.
Nhưng rồi chiến tranh chấm dứt. 30 tháng 4 năm bảy nhăm, miền Nam được giải phóng. Cuộc sống thanh bình đã trở lại trên quê hương, trên bản làng miền thượng du của Ðăng. Mẹ vẫn bảo với Ðăng rằng:
- Thật đúng là phúc đức ông bà để lại, vừa đến tuổi nghĩa vụ quân sự thì chiến tranh chấm dứt. Chỉ tội nghiệp cho anh Ðồng của con, không biết giờ này còn sống hay đã chết.
Trong làng Ðăng có biết bao nhiêu bộ đội ra đi không ngày về; lớp hy sinh, lớp mất tích. Sau ngày giải phóng miền Nam, mẹ ngày ngày mỏi mắt ngóng trông anh Ðồng trở về. Cuối cùng thì anh cũng đã trở về. Anh trở về không phải bằng xương bằng thịt, mà bằng giấy trắng mực đen; đó là tờ giấy báo tử và tấm bằng khen anh hùng liệt sĩ.
Niềm vui hòa bình vừa đến đã tan biến nhanh. Nước mắt của mẹ già chưa kịp khô lại sắp sửa tuôn trào. Năm 1979, Ðăng và các thanh niên cùng trang lứa, một lần nữa xếp ba-lô, tiếp tục hành trình Nam tiến, trên đường sang Cao Miên làm nghĩa vụ quốc tế.
Ngày Ðăng lên đường, mẹ nắm chặt tay chàng, dặn tới dặn lui:
- Nhớ viết thư về nhà đều đặn con nhé, và cẩn thận giữ lấy tấm thân. Ðừng có bày đặt làm anh hùng, đẻ không muốn mày trở về đây như thằng anh của mày.
Ðăng phải trấn an mẹ:
- Ðẻ cứ yên tâm. Ba năm coi vậy mà chóng lắm đẻ ấ Vả lại lần này bọn con đi làm nghĩa vụ quốc tế, giúp các đồng chí anh em nước láng giềng Cao Miên, đâu có phải chiến đấu với bọn ác ôn Mỹ Ngụy đâu mà đẻ phải lo.
Mẹ chàng lặng thinh không nói gì, nhưng trong thâm tâm bà rất lo. Năm xưa, khi tiễn thằng con trai lớn vào trong chiến khu D, nó cũng đã nói với bà như thế, nhưng cuối cùng cũng không thoát được cái định mạng sinh Bắc tử Nam. Còn thằng con thứ của bà, số phận rồi sẽ ra sao? không khéo lại sinh Bắc tử Miên! Bà ngậm ngùi gạt nước mắt nhìn chiếc Molotova chở đám bộ đội lùi xa dần, để lại phía sau một đám cát bụi mù mịt.
Từ trong xe, Ðăng nhìn thấy bóng mẹ khuất dần sau lũy trúc đầu làng. Chàng cảm thấy thương mẹ vô vàn. Suốt đời bà đã gánh chịu quá nhiều thiệt thòi, mất mát, trong thời buổi chiến tranh. Chiến tranh đã cướp đi những người thân trong gia đình. Bố chàng bị bọn Tây giết thuở chàng còn nằm trong bụng mẹ, còn anh Ðồng thì hy sinh trong chiến tranh chống Mỹ. Bây giờ đến phần chàng. Cuộc đời rồi sẽ về đâu? Mẹ chàng năm nay đã già yếu lắm rồi, không biết có sống nỗi đến ngày chàng trở về. Mà cũng chưa chắc là chàng có còn sống sót để mà trở về, vì đời chiến binh có mấy người ra đi hy vọng đến ngày về.
Nhưng không ngờ lần chia tay đó lại là lần cuối. Trong trận tác chiến đầu tiên ở Battambang, tiểu đoàn của Ðăng bị quân Khờ Me đỏ phục kích, đánh cho tan tác hàng ngũ, và chàng đã chạy theo một số bạn bè còn sống sót băng rừng lội suối đến Sisophon rồi lần đến biên giới Thái Miên, bị đưa vào trại tù NW9, Sikew rồi mới sang Panat Nikhom.
Ðăng và bạn đồng ngũ còn đang phân vân không biết chọn quốc gia nào để xin tị nạn. Giá mà chàng không bị sét đánh thì có lẽ chàng đã theo bạn bè, đi định cư ở Úc Ðại Lợi hoặc Gia Nã Ðại rồi. Ðúng vậy, Ðăng đã bị sét đánh. Một thứ sét không làm chết người, chỉ làm xây xẩm mặt mày, điên dại và mù quáng. Ðó là tiếng sét ái tình. Và người gieo tiếng sét đó chính là Tường Vy.
Ai cũng ngỡ mối tình tị nạn của họ cũng như bao mối tình tạm bợ khác, chợt đến chợt đi, nhưng tình yêu của họ đã không kết thúc ở đó. Tường Vy đã thuyết phục được cha mẹ của nàng đang sống bên Mỹ bảo lãnh cho Ðăng, người mà trên giấy tờ phỏng vấn với phái đoàn Hoa Kỳ nàng khai là chồng.
Cuộc tình kéo dài hơn nửa năm trong trại Panat Nikhom, Thái Lan và đúng 3 năm trên đất Mỹ rồi cũng kết thúc. Sự kết thúc của cuộc hôn nhân này vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn, nó đã không chấm dứt bằng tờ đơn ly dị hay bằng một tai nạn chết người nào hết. Một hôm Ðăng đi làm về thấy vắng bóng vợ hiền. Nàng đã ra đi, để lại một mẫu giấy ghi chú, với hàng chữ ngắn gọn:
"Anh yêu! Xin anh hãy tha lỗi cho em. Vĩnh biệt. TV"
Ðúng ra thì Ðăng phải nhận thấy được chuyện bất ổn. Dạo gần đây vợ chàng bỗng trở nên đăm chiêu và ít nói, lúc nào cũng như mang nặng một tâm tự thầm kín. Chàng hỏi thì nàng chối quanh. Bây giờ thì đã quá muộn màng. Kiếm người thất lạc thì còn có thể, nhưng kiếm người đã cố ý trốn mình thì đừng hòng. Suốt mấy năm dài, mọi nỗ lực của Ðăng hoàn toàn vô hiệu.
oOo
Tùng! Xèng!
Tiếng trống kéo Ðăng trở về hiện tại. Hiện tại là chàng đang có mặt ở Nữu Ước, đang ngồi trong công viên Damrosch, trung tâm văn hóa nghệ thuật Lincoln, xem đoàn múa rối nước Thăng Long trình diễn. Tiếng đàn tranh réo rắt vang lên giữa xứ người nghe buồn não ruột. Chàng dõi mắt nom lên trên sân khấu, thấy một hàng dài những vỏ sò đang bồng bềnh trôi trên mặt nước. Vỏ ốc nở bung ra, như những quả trứng trong sự tích Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Những quả trứng đẻ ra những người con Lạc Việt; 50 con xuống biển và 50 con lên núi. Ðăng thấy thấp thoáng đâu đây ngọn núi Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, nghe gió Cao Bằng, Lạng Sơn rít lên từng cơn rét cắt da cắt thịt . Chàng nghe giọng đẻ hát ru chàng ngủ thuở còn ấu thơ:
Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bỏ công bố mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mãi vui quên hết lời em dặn dò
Gánh vàng đem đổ sông Ngô
Ðêm nằm mơ tưởng đi mò sông Tương
Vào chùa thắp một nén hương
Miệng khấn tay vái bốn phương chùa này
Chùa này có một ông thầy
Có hòn đá tảng có cây ngô đồng...
Tiếng kèn tiếng trống một lần nữa vang lên dục dã liên hồi, kéo Ðăng ra khỏi giấc mơ ban ngày. Trên sân khấu các nghệ sĩ đang bước ra chào khán giả. Các tay kèn tay trống và ca sĩ từ bên kia cánh gà cũng bước qua, cúi đầu chào mọi người, trước khi màn hẫ
Bỗng dưng Ðăng giật thót người lên. Cô ca sĩ đang cúi đầu chào kia nom quen quâ Chàng chồm người về phía trước để nom cho rõ.
Ðúng rồi! Là nàng, là cô em Hà Nội, là người vợ bị mất tích của Ðăng chứ không phải ai xa lạ vào đây nữa. Ðăng dụi mắt rồi tự véo đùi đau điếng và biết rằng đây không phải là giấc mơ.
- Tường Vy!
Ðăng buột miệng la lớn, làm mấy khán giả người Mỹ ngạc nhiên quay lại nhìn chàng soi mói. Chàng chạy đến nơi thì màn đã buông kín. Ðăng toan vén màn chạy vào trong thì bị viên an ninh da đen chặn lại. Chàng cố giải thích là chỉ muốn nói chuyện với một nghệ sĩ trong phái đoàn. Tên Mỹ đen lạnh lùng lắc đầu. Ðăng vói vào trong hét lớn:
- Tường Vy ơi! Có phải em đó không? Anh đây, Ðăng đây. Nếu là em thì hãy lên tiếng cho anh rõ.
Bên trong vẫn yên lặng như t Một lát sau, có một chàng thanh niên trẻ vén màn bước ra ngoài. Gã nhìn Ðăng lắm lét một hồi rồi mới hỏi:
- Ông là gì của chị Tường Vy?
- Tôi là chồng của nàng.
Ánh mắt của gã thanh niên từ ngờ vực chuyển sang giận dữ:
- Chớ có nói điêu. Người ta con gái chính chuyên chửa chồng.
Gã biến nhanh vào trong. Ðăng chạy theo bất kể tên an ninh Mỹ đen. Nhưng đoàn nghệ sĩ múa rối kia đã đi mất dạng. Ðăng vớt vát với gã thanh niên:
- Nhờ anh nói lại với Vy là có anh Ðăng người Cao Lạng muốn gặp nàng. Tôi đang ngụ ở khách sạn Warwick nằm trên đường 54.
Gã thanh niên không nói năng, vùng vằng bỏ đi.
Ðăng vừa về đến phòng thì nhận được mẫu nhắn tin trong máy điện thoại. Chàng nghe rõ giọng Hà Nội của vợ, sau gần 10 năm xa cách vẫn không thay đổi:
- Hôm nay là ngày cuối bọn em trình diễn ở Mỹ, ngày mai về nước rồi. Em có chuyện cần giải thích cho anh quán triệt. Hẹn gặp anh ở trên đỉnh của ngọn Empire State Building vào lúc 8 giờ tối nay, chúng mình sẽ nói chuyện nhiều hơn.
Tối hôm đó, Ðăng có mặt trên tầng thứ 77 của ngọn binh-đinh chọc trời Empire State như Tường Vy đã hẹn. Chàng đến đó trước nửa giờ đồng hồ.
Chưa bao giờ mà Ðăng cảm thấy thời giờ trôi qua quá chậm như bây giờ. Tám giờ kém. Ðăng nhìn xuống phía dưới đường tìm bóng dáng vợ hiền, mặc dù chàng biết rõ là từ trên cao này nhìn xuống nom chả thấy gì. Ðúng tám giờ. Ðăng cảm thấy hồi hộp, tim đập nhanh hơn bình thường. Chàng tự hỏi Tường Vy sẽ nói gì với chàng tối nay. Rồi 8 giờ hơn. Ðăng tự trấn an, có lẽ tại vì tắc nghẽn lưu thông.
Tám giờ rưỡi, rồi chín giờ. Mười giờ. Mười giờ rưỡi. Ðăng từ từ nhận thức ra sự thật phũ phàng. Sự thật là Tường Vy có thể sẽ không gặp chàng tối nay.
Ðăng là người du khách cuối cùng rời Empire State Building tối hôm đó. Chàng bước trở về khách sạn với một tâm trạng tan nát, rối bời.
Sáng hôm sau, Ðăng rời Nữu Ước. Trong chuyến bay trở về miền Tây, nơi chàng đang làm việc, Ðăng cố quên đi, cố nghĩ rằng tất cả chỉ là một giấc chiêm bao. Cô chiêu đãi viên hàng không đi đến chỗ Ðăng đang ngồi, chìa ra một chồng báo chí mời chàng đọc. Ðăng chọn tờ nhật báo New York Times.
Chàng lật đến trang tin tức địa phương. Ngay trên tít đầu trang, một hàng chữ to và đậm: "Auto Accident Claims Death of a Vietnamese Water Puppeteer", và hàng chữ li ti bên dưới thuật lại rằng: "Tối hôm qua một tai nạn xe cộ xảy ra trên đại lộ 5. Chiếc xe tắc xi chạy vượt đèn đỏ cán chết một cô gái đang băng qua Empire State Building. Ðược biết nạn nhân là một nghệ sĩ trong đoàn múa rối nước Thăng Long của Hà Nội, tên là Tường Vy."
Đăng cảm thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng. Chàng chụp lấy bịch ny-lông nôn thốc vào trong đó. Những hành khách chung quanh lấy làm lạ. Họ tự hỏi cớ sao máy bay chưa cất cánh mà anh chàng này đã bị say sóng?
Bùi Thanh Liêm
Tháng 8, 1996
Nó
Nó ném cái vali vào sau xe rồi lái xe bỏ đi không quay lạị Cái căn nhà mà trước đây gần hai năm nó cho là một thiên đàng ở hạ giới của nó. Nó năm nay đã ngoài 34 tuổi, có việc làm có cơ sở thương mại. Sự nghiệp thành công vì tài giao thiệp của nó nhưng không làm cho nó khôn ngoan gì cả trong vấn đề tình trường.
Năm nó 26 tuổi, nó bỏ việc làm của một thằng kỹ sư điện tử vì thất tình. Buồn đời nó đi về nơi ba má nó cư ngụ và dồn hết tâm trí vào việc kiếm tiền. Lúc đó nó nghĩ là chỉ có tiền nó sẽ có tất cả. Có thể ngay đến việc bạn gái nó bỏ nó để lấy thằng bác sĩ cũng sẽ quay lại năn nỉ nó. Thế là nó hùm vốn với chị nó mở một văn phòng làm consultant cho các cơ sở gần đó. Cả hai chị em nó cùng có một kiến thức như nhau nên sau vài năm cơ sở của nó mỗi ngày một phát triển. Lúc này nó mới bắt đầu nghĩ đến tìm bạn gái. Thế là bao nhiêu kẻ giới thiệu, nó quen biết được Hằng. Hằng thua nó có đến mười tuổi và lúc đó còn học trung học. Tối nào nó cũng gọi phone nói chuyện với Hằng từ 8 giờ tối cho đến 12 giờ đêm. Hằng nhỏ bé, xinh đẹp nên làm cho nó cảm thấy nó trẻ thêm.
Sau hơn một năm quen biết với Hằng nó bắt đầu lơ là công việc để cho chị nó lo mọi chuyện từ việc mướn người cho đến giấy tờ sổ sách. Cũng vì vậy mà hai chị em nó đôi lúc sanh ra cãi cọ với nhau. Nó thì chỉ muốn làm cho xong rồi vứt bừa bãi. Chị nó sau hơn 10 giờ làm việc lại trở nên bực bội vì phải thu xếp công việc cho nó. Rồi cho đến một hôm nó và Hằng xẩy ra cãi nhau. Nó lái xe bỏ đi tìm thằng bạn uống bia giải sầu. Hằng vốn bản tánh nóng nảy vã lại được nó quá chiều chuộng nên gọi phone đến công ty tìm nó. Tìm không gặp nó, Hằng đã không ngớt lời xỉ vã nó trong cái máy cassette. Giả tỷ lúc đó lý trí nó đánh thức nó cho nó biết rõ bộ mặt thật của Hằng thì có lẽ nó sẽ không có thê thảm như hiện gi Ðằng sau cái dáng vẻ yếu ớt Hằng có một cá tính dữ dằn như lửa. Hằng giận lên thì đập phá mói thứ lại còn có lần lấy xe đụng nó gẫy chân. Nhưng lần nào cũng vậy, cãi nhau vài hôm nó lại nhớ Hằng nên tìm đến Hằng năn nỉ xin lỗi. Từ đó Hằng lại làm tới. Mỗi lần có chuyện gì cãi cọ là Hằng gọi phone đến chửi nó ở công ty. Vô tình chị nó có mặt ở đó, Hằng thản nhiên chửi nó là "đồ mấy dạy". Bản tánh của một người chị bênh vực cho em nên chị nó nổi cơn chửi lại Hằng là qúa dữ dằn. Hằng cảm thấy nhục nhã vì cho rằng chị nó chỉ làm công cho nó nên lớn tiếng chửi lại. Ðã vậy Hằng còn gọi phone lại nhà ba má nó lớn tiếng chửi là ba má không biết dậy nó. Sau vụ đó, nó không biết phải làm sao. Bỏ Hằng thì con tim nó đau khổ, giữ Hằng thì nó nghe má nó chị nó than phiền. Ba nó đã có một lần nói rằng
- Con có đi chơi gái thì chơi. Chứ đừng có để nó gọi phone mà mắng vốn cha mẹ mày. Ở xứ Mỹ này tụi bay tự do cả. Cha mẹ đâu có quyền hành gì đâu. Chỉ mong là con còn thương bố mày già thì cho tao yên phận sống hết cái tuổi già này.
Lúc đầu nó vì thương ba nó nên quyết định chia tay Hằng. Hôm đó Hằng khóc lóc năn nỉ nó mọi chuyện. Hằng hứa sẽ thay đổi tính tình sẽ không có làm chuyện bậy bạ. Thấy Hằng khóc nó đâm ra đau xót nên quyết định không bỏ Hằng. Cũng vì vậy mà tình cảm của nó giữa gia đình bắt đầu sứt mẻ. Chị nó ngày ngày làm xong việc cũng chẳng hỏi han gì đến nó. Nhưng nó biết mỗi khi nó đi chơi với Hằng không làm xong việc là chị nó sẽ thức khuya phụ nó làm cho xong.
Nếu mọi chuyện cứ như vậy mà xẩy ra thì có lẽ cuộc đời nó cũng coi như hoàn hảo. Hằng chỉ trở nên ngoan hiền đúng có hai tháng thì Hằng lại trở về như cũ. Nó và Hằng lại cãi nhau kịck liệt và như thường lệ nó bỏ đi tìm thằng bạn nói chuyện giải sầu. Hôm đó Hằng đã lái xe tận nhà ba má nó kiếm nó. Ba má nó không cho Hằng vào nhà. Thế là Hằng đã đứng ở trước nhà chửi vào:
- Ông bà dậy con như vậy sao? Chơi gái cho sướng rồi bỏ cơ à? Con này không phải thứ hiền đâu. Coi chừng tôi giết nó đó.
Má nó nổi giận mở cửa nói ra:
- Cô với con tôi chẳng phải vợ chồng gì. Nó không có ở nhà. Cô đi về đi kẻo tôi gọi cảnh sát.
Hằng chỉ tay chửi vào:
- Cái gì mà không phải vợ chồng. Chúng tôi chủ nhật nào cũng qùy gối ở nhà thờ. Tuy là chưa giấy tờ nhưng trước mắt Thiên Chúa chúng tôi đã là vợ chồng. Bà định chia rẽ chúng tôi đó à?
Má nó lắc đầu không nói gì chỉ đóng cửa lại. Hằng giận dữ lái xe tông vào cái cây trước nhà ba má nó. Bà Mỹ hàng xóm thấy Hằng làm vậy nên vội vàng gọi cảnh sát. Cũng may nó về kịp khi cảnh sát đến. Nó phải kéo Hằng vào xe và giải thích chuyện nó và Hằng cho cảnh sát. Bà Joan lắc đầu nói:
- Your girl friend comes from HELL. I feel so sorry for you.
Nó im lặng không nói gì. Hằng ngồi trong xe khóc lóc:
- Anh Tâm anh đừng bỏ em nhé. Tại em không đúng. Em hứa sẽ sửa đổi.
Nó nhìn Hằng không biết nói gì. Nếu Hằng không có nổi cơn thì Hằng quả thật là một con búp bê xinh đẹp. Hằng là con út trong gia đình. Má Hằng là gái bán bar cho mấy quán bia ôm ở Mỹ Tho. Bà ngủ với biết bao người nên khi có thai Hằng bà đâu có biết ai mới là cha thật sự của Hằng. Năm 75 bà ôm Hằng đi theo người lính Mỹ bỏ VN. Qua đến đây bà cũng một thời làm bé cho mấy ông lúc đi gia đình còn kẹt ở VN. Nó đã gặp má của Hằng. Nó cho là Hằng giống như má Hằng. Dữ tợn, chửi rủa chẳng tha cho ai cầ Những người hàng xóm ở chung quanh chẳng ai ưa hai mẹ con Hằng cả. Lúc đầu nó cho là nó sẽ dùng tình cảm của nó để thay đổi Hằng. Nhưng đến bây giờ thì chính nó cũng chẳng làm gì được cả. Hằng đã biết bao nhiêu lần hứa sẽ thay đổi nhưng cũng chỉ vài tháng thì Hằng vẫn là Hằng.
Sau vụ Hằng đến nhà ba má nó chửi bới. Ba má nó đã trở nên tuyệt vọng với nó. Chị nó có lần khuyên can nó thì nó lại lớn tiếng chửi rủa chị nó cho là chị nó muốn phá hoại hạnh phúc của nó. Hôm đó hai chị em cãi nhau kịck liệt và nó không cầm nỗi cơn giận đã đấm cho chị nó hai trái đấm. Chị nó đã bỏ đi và từ đó tình cảm hai chị em nó coi như là người dưng nước lả. Hai chị em nó có chuyện trò thì chỉ là những câu chuyện lơ là chứ không có thân tình nữa.
Cách đây hai năm, Hằng học xong mãnh bằng Ðại Học và muốn nó lấy Hằng. Nó về nhà nói với ba má nô Ba má nó cương quyết phản đối:
- Cái đứa con gái đến tận nhà chửi tao đến nỗi hàng xóm phải gọi cảnh sát mà mày đòi tao hỏi cưới cho mày cơ à? Mày coi ba má mày là hạng người nào. Ba má đã tôn trọng quyền tự do của con rồi thì con cũng phải cho ba má một chút tự trong chứ.
Lúc đầu nó năn nỉ:
- Hằng hứa sẽ đến quì gối xin lỗi ba má.
Ba nó lắc đầu:
- Ðây là lần thứ mấy rồi. Lần đầu tao còn tin tưởng nhưng hết lần này rồi đến lần khác. Mày có lấy thì mày cứ lấy vì đó là quyền tự do của mày. Ba chỉ mong là mày suy nghĩ lại kỹ càng. Hạng con gái đó mày lấy về có sống hạnh phúc cả đời không ?
Năn nĩ không được nó lại mang cái trò hăm dọa:
- Con sẽ lấy Hằng và sẽ làm đám cưới. Ba má có đi thì đi.
Ba nó ứa nước mắt lắc đầu nói:
-Mày lớn rồi thì làm sao thì làm. Nhưng đừng làm cái trò in thiệp cưới để tên tao chủ hôn. Tao sẽ đăng báo từ mày thì mày sẽ không còn mặt mũi gì đâu. Tao già rồi gần xuống lỗ rồi chẳng còn bao nhiêu năm nữa mà sợ thiên hạ chê cười.
Nó sợ hãi. Bao nhiêu năm nay nó cũng có một chút tiếng tăm địa vị trong cộng đồng Việt Nam. Ba nó mà đăng báo từ nó thì nó còn gì mặt mũi. Thế là nó lấy Hằng qua vài thủ tục giấy tờ và làm đám cưới ở một cái thành phố nhỏ xa chỗ ba má nó cả 400 miles.
Hai tháng đầu cuộc sống nó và Hằng thật hạnh phúc. Nó giao hết mọi việc làm cho chị nó cai quản. Sau hai tháng, nó lại trở về cuộc sống bận rộn. Vài lần nó định chở Hằng về thăm ba má nó nhưng nó lại sợ Hằng nổi cơn bất chợt thì nó chẳng biết làm gì. Dịp đó, chị nó lại có thai nên cho nó biết là chị nó không muốn làm nhiều. Lúc đó nó mới lớ ngớ mọi chuyện. Từ vụ tiền bạc cho đến giấy contract chị nó một tay chăm sóc cả bao nhiêu năm nay. Bây giờ nó phải nhúng vào vấn đề này nó chẳng biết gì cả. Cũng vì vậy nó phải làm thêm giờ và Hằng bắt đầu dở chứng. Hằng chỉ muốn nó làm một ngày vài tiếng và đưa đón Hằng như ngày xưa còn cặp kè. Nó chán chường đủ thứ. Nếu nó chiều ý Hằng thì nó phải bán công ty của nó mà suốt ngày ở bên Hằng. Hằng càng ngày càng nổi cơn bất ngờ. Có khi Hằng chửi rủa nó như một đứa con nít. Khi nó giận Hằng không còn như xưa năn nỉ nó tha lỗi nữa. Tình yêu ngày xưa dần dần làm cho nó trở thành sợ hãi. Ðôi khi nó không muốn về nhà để đối diện với khuôn mặt xinh đẹp và nghe cái giọng chanh chua của Hằng. Nó không biết trốn chạy đâu. Từ khi nó lấy Hằng sự liên hệ giữa nó và ba má nó không còn nữa. Lúc đầu nó còn về thăm mỗi tuần nhưng Hằng không cho và còn bảo là:
- Ông bà không có chấp nhận em thì em không muốn anh về đó nữa. Họ gìa họ cần mình chứ mình còn trẻ mình cần gì họ.
Hằng viện mọi cớ để không cho nó về nhà thăm ba má nó mặc dù từ nhà nó chỉ cách nhà ba má nó có 15 phút lái xe thôi.
Hai năm trôi qua, nó trở nên chán chường. Nó mới hiểu cái gì là tình yêu mù quáng không suy nghĩ. Nó cảm thấy nó thật có lỗi với ba má no, anh chị em nó. Sau hai năm chung sống với Hằng nó tự trách nó đã qúa ngu dại. Ngày xưa Hằng đã cho nó biết chân tướng thế mà nó lại không biết gì cả. Cho đến tuần rồi, sau một lần cãi nhau vì bất đồng ý kiến. Như mọi lần Hằng đập phá chén bát hay lấy dao rượt chém nó. Ðã có lần nó phải vào nhà thương vì bị Hằng đâm phải. Nhưng lần này Hằng cũng như vậy, Hằng đã cầm dao đâm vào bụng nó. Nó đã lăn lộn trên vũng máu năn nĩ Hằng gọi xe cứu thương nhưng Hằng vẫn thản nhiên ngồi nhìn nó:
- Cho mày chết. Tao đã nói rồi. Mày mà cãi lời tao thì tao giết mày. Mày ngu như ba má mày vậy đó.
Nó phải bò ra cái phone trên bàn bấm vội 9-1-1 rồi chờ xe cứu thương tới. Nằm trên băng xe nó thấy rõ mọi việc diễn tiến ra từ khi quen biết với Hằng cho đến lúc lấy Hằng và chung sống với Hằng. Nó nhớ ba nó ngày xưa cả đời chẳng khóc thế mà khi nghe nó đòi lấy Hằng ông đã khóc vì thằng con bất hiếu như nó. Nó chợt hối hận về những việc nó làm. Nó quyết định một con dường thay đổi cuộc đời của nó.
Bây giờ nó lái xe rời khỏi căn nhà của nó và Hằng chung sống gần hai năm nay với một tâm hồn rất thảnh thơi. Nó bằng lòng ly dị Hằng cho dù có ra đi với hai bàn tay trắng. Hằng đã thản nhiên nhận lời sau khi nguyền rũ nó:
- Mày là thằng tồi. Cái đồ đàn ông tồi.
Cái câu mà nó đã nghe được má của Hằng chửi hàng xóm ngay hôm đầu tiên nó quen Hằng. Lúc đó nó lại chẳng cho là gì cả nhưng bây giờ nó mới cảm thấy thấm thía nặng nề. Nó quyết định trở về quì gối tạ lỗi với ba má nó. Nó chẳng mong gì cả ngoại trừ lòng thương xót của ba má nó thôi. Nó nhấn mạnh bàn đạp gas rồi trực chỉ lái đi không ngó lại cái địa ngục mà nó đã ngu dại thờ phượng cả hai năm nay.
Nguyễn T. Đoan-Thuần
Hè 1996