vhnt, số 52
12 September 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ post 1 - thơ dịch, Tôi vẫn Ðợi, Tuệ Sỹ - Ian Bui dịch
+ post 2 - thơ dịch, Tuệ Sỹ, Stephen Denney forwarded post
+ post 3 - thơ, Hoài Thu, Nguyễn Dình Thái
+ post 4 - thơ, Thơ cho Mẹ, Nguyen Van Diem
+ post 5 - thơ, Hoàng Hôn, K Vuong
+ post 6 - phiếm luận, Là Thi Sĩ, Quach Dat Cuong
+ post 7 - truyện, Chuyện Một Loài Chim Sẻ, Nguyễn Dình Thái
nhà thơ Tuệ Sỹ là một thiền sư rất nổi tiếng của văn học Việt Nam. thơ ông nhẹ như những làn khói trắng, bay vào không gian bát ngát của an nhiên, của thơ mộng lặng lẽ. tiếng thơ của Tuệ Sỹ không chỉ có thơ mộng lặng lẽ, mà còn là tiếng kêu thống thiết đòi nhân quyền cho Tự Do dân tộc.
thơ hay, theo quan niệm chân chính của thơ, không còn nằm trong giới hạn ngôn ngữ. hồn thơ không còn bị gò bó trong khuôn khổ của không gian, thời gian, văn hóa, và ngôn ngữ.
ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
treo gót hài trên mái tóc vào thu
ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá...
(Tuệ Sỹ)
thân ái,
PCL/vhnt
Tôi Vẫn Ðợi
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại với bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai như bóng chớp mây chiều
Tuệ Sỹ
oOo
still i wait
still i wai - as nights blue with yearning
by a forest whose tears of colors so pale
while hatred with darkness embracing
on my lips a star's faint suffering smile
still i wait - windless nights so stark
brooding eyes shine past millennia down
darkened roads of history in a stretch
rivers of pain overbleeding their bounds
still, i wait - tides of sounds forever unkept
unremembered they crossing peace of death's ocean
they remaining at hands of ruthless tyrants
like a reed, bent under the sun's cruel weight
now reduced and caged inside a past
fingers thin struck on thick cold walls
close these eyes i can't yet dream on
- morning dews, an evening's rain flash
ianb
9'95
STONE WALLS
My stone walls are adorned with valueless décor.
No sunset would penetrate this cage.
A lonely man stares at a flickering lamp;
All history's words cannot describe these heart-felt emotions.
EARLY BATHING
Rising early to bathe
I stand relaxed
With immortal disposition
No water could purify further.
NARROW-CELL
Here in my narrow cell I am free.
Strolling leisurely,
I talk, laugh with myself,
cast a longing eye toward the eternal Sun.
GOODBYE TO PRISON
I live emptily in this world:
Within borderless realms I study Zen.
Nothing, no one
Nothing to do but watch the flowers strewn amid the heavens.
SITTING AT NIGHT
Prison-time is wearisome,
one wastes the night away alone with a single light.
My heart yearns for the temple far off in the mountains.
The road leading home is uncertain.
AUTOBIOGRAPHY
Thirty years ago I took my vows.
Now, on the western window, my chin rests trembling.
Flowers do not worry with the lateness of spring;
The drunken bamboo wavers with its dreamy soul.
My weary eyebrows drop over the broken desk;
A clump of dark hair blows tired in the wind.
If I descend the cliff one day,
I may enjoin this void with the setting sun.
A CUP OF CLEAR WATER
The lonely hermit does not yearn for tea,
A pure heart, clear water is sufficient to entertain
Emptiness and beauty.
Though there are few people in these windy and dusty outskirts,
I can share my dreams with the purple clouds at dusk.
SELF SATIRE
A monk lays unwell among the mountains,
Woken from nightmares, shaken from noisy dreams
Alone and unsure beside the green pine before his abode
Of what history will report of his fate.
LAZY IMMORTAL
The Immortal comes to harness the Golden Pill;
Without flowers or wine, it can never appear;
Why not push the furnace aside for sleep?
If this physical body cannot be preserved,
A new life will arise from within.
SELF-QUESTIONING
Why are you imprisoned?
You point to the sparrow beside you in the cell.
Shackled, chained, heart yearning for the glamour of
city life, the skin turns pale.
THOUGHTS OF THE SAGE
The sage avoids the world in his rocks and caves;
I run away from life in the bottom of my cell.
No escape for even smoke or ether here,
Though water flows unceasingly amid the rocky cliffs.
HERMIT'S THOUGHTS
No surprise in learning modest hermits hide amid the highest peaks;
Nothing strange finding great hermits in boisterous markets.
but stuck away from the world, in a bottomless pit
With nothing and no one to mind -- now that's thought provoking.
LONGING
I'll return to my homeplace in ten years or so
For Mount Truong has few brilliant sunsets,
few burning paths or dusty lanes
And love fades away in my eyes.
JOURNEY'S END (The End of the Road)
Oh, not to be swayed by worldly cares,
by the love of dark forests;
The path of shame
With no light in the tunnel.
I am willing to work
But the world cares not for weaklings.
I dream of heaven faraway,
The skies low and cloud\-thickened.
Along the riverside I stand by the grass
Only a slender shoulder to continue life's struggle,
With gray hairs blurring the sea view
And the clouds reluctant to disperse.
The clouds do not return North.
One gropes its way shamefully through sunset
paths to Mount Truong,
Yearning for the distant sky.
Stephen R Denney
Thơ Cho Mẹ
Bố em người lãng mạn
Mẹ mơ mộng đam mê
Nghe đâu hai người gặp
Vào một độ thu về
Mẹ gặp bố trên đê
Ðang thất thểu tìm về
Hà Đông quê hương cũ
Bố gặp mẹ liền... mê
Mẹ khen bố nhún nhường
Bố khen mẹ đảm đương
Cùng đam mê nghệ thuật
Hai người gặp nhau... thương
Mẹ ước một vườn hoa
Không lộng lẫy kiêu sa
Nhưng phải đầy nghệ thuật
Cho vui cửa vui nhà
Bố mẹ sinh ra em
Tính giống mẹ dịu hiền
Nhưng mang giòng mau bố
Nên làm thơ huyên thuyên
Thôi bé phải ôn bài
Kẻo đi học ngày mai
Cô thầy mang ra khảo
Bé không học thuộc bài
Diễm Chi
(09/12/95)
Hoàng Hôn
Hoàng hôn nắng ngã phai màu
Chiều buông sợi nhớ đan vào tim ai
Bờ vai xõa suối tóc dài
Sợi thương, sợi nhớ, sợi bay hững hờ
Hoàng hôn tại B.L.S
Sep '95
DKV
Là Thi Sĩ
Hôm nọ thằng bạn tôi gọi điện thoại lại tán dóc với tôi. Hắn nói với tôi là hắn đọc thấy mấy bài thơ của tôi post trên SCV và gán cho tôi cái nhản " Thi Sĩ ". Tôi mới giật mình hỏi lại hắn:
- Ê bộ mầy ghét tao lắm sao mà định chơi tao bằng cách trù cho tao thành thi sĩ ?
Bạn tôi mới trả lời rằng:
- Ðâu có mậy, tao thương mầy không hết thì còn đâu để mà ghét mầy. Ừ mà sao mầy lại nói là trù mầy vậy? Tao thật không hiểu cái ý đen tối của mầy rồi đó. Cái đồ ba trợn, có gì thì nói ra mẹ nó đi, còn bày đặt úp úp mở mở như con gái mới lớn vừa có người yêu vậy!!!
Tôi đợi cho hắn dũa tôi xong, tôi mới cười giả lả với hắn và nói:
- Ê, cái hồi tụi mình còn ở VN, tụi mình khoái đọc thơ của Xuân Ðiệu, Huy Cận và Hồ Dzếnh v.v... Mầy còn nhớ câu thơ của thi sỉ Xuân Ðiệu không ? Nếu tao nhớ không lầm thì ổng đã nói là:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Thằng bạn vàng của tôi nghe xong, vội vàng cướp lời của tôi và nói:
- Ê, cái chuyện đó của ông Xuân Ðiệu, đâu có mắc mớ gì đến mầy đâu, mà mầy đòi đem ổng ra để biện luận cho cái việc mầy nói tao trù mầy?
Tôi mới nói tiếp:
- Thì mầy thủng thẳng chút được không? Cho tao kể từ từ rồi mầy sẽ thấy cái ý của tao! Tao chưa kịp nói xong câu tao đã bị mầy cho nguyên cái xe ủi lô vô miệng rôì thì còn miệng đâu nửa để mà nói tiếp cho mầy nghe!!!
Chắc thấm ý, nên bạn tôi im lặng và chờ nghe tôi nói tiếp. Tôi thấy mình đang ở thế thượng phong, nên liền thừa nước đục thả câu, bằng cách cố tình chọc tức bạn tôi chơi. Tôi mới hỏi hắn:
- Ê tao nói đúng quá, nên bây giờ mầy bị tắt tiếng rồi phải không?
Hắn chửi thề:
- Ð.m. thôi kể thì kể cha nó cho rồi đi, tao thiệt mệt với mầy quá !!!
Tôi và hắn thân lắm, nên không nở để hắn giận tôi mới kể tiếp:
- Lý do tao mang hai câu thơ của thi sĩ Xuân Ðiệu, là vì nó dính dáng đến chuyện thi sĩ. Ở VN thì cuộc sống nó chậm rải nên mình còn ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây được. Còn bên đây đời sống của con người như cái máy, nó chạy thiếu đều còn lẹ hơn cái đồng hồ Ô Mê Ly (omega) của mầy nữa, thì thử hỏi mầy chứ thời giờ đâu nữa mà theo gió theo trăng theo mây theo nước!!!
Bên kia đầu giây bạn tôi cất tiếng cười ha hả và hỏi tôi:
- À! Thì ra mầy sợ tao dán cho mầy chữ thi sĩ, thì mầy sẽ bị thất nghiệp để có thời giờ mà vơ vẩn tùm lum đó phải không?
Tôi trả lời hắn:
- Nói vậy mà không phải vậy, nó còn tệ hơn vậy nữa. Mầy để tao phân tích cho mầy nghe. Theo tao thấy nếu làm thi sĩ bên nầy, thì dễ trở thành bang chủ cái bang lẹ lắm đó!!! Nên câu thơ của thi sĩ Xuân Ðiệu phải đổi thành là:
Là thi sĩ nghĩa là ngủ với chó
Ði xin ăn và thơ thẩn chìa tay "
Bạn tôi vừa nghe tôi đọc xong hai câu thơ trên, hắn ta cười dòn tan bên kia đầu giây, và hỏi ngược lại tôi tại sao tôi lại sửa hai câu trên ra như vậy .
Tôi mới nói tiếp với bạn tôi rằng:
- Không phải sao mậy? Mầy có bao giờ nghe tụi Mỹ nó nói "sleep in the dog house" chưa? Ðó là những cái lúc mà thằng chồng đã làm một điều gì sai trái đó, rồi bị con vợ nó cho ra ngoài sân ngủ trong nhà chó hi hi... Bởi vậy cái câu là thi sĩ nghĩa là ngủ với chó, coi vậy chứ đúng lắm đó mầy. Ðể tao giải thích tiếp cho mầy nghe nè. Nếu như tao là thi sĩ, thì tối ngày tao chỉ lo mơ mộng và không còn tâm trí để lo tới công việc làm, thì đương nhiên tao sẽ được thằng xếp trong hãng tặng cho tờ giấy màu hồng để nghỉ phép dài lâu. Rồi sau đó là về nhà nghe con vợ nó ca ba chục bản "con cá sống vì nước ". Tối đến nó vẫn còn giận và nói nhỏ nhẹ với mình rằng: "Anh hư quá thôi ra ngủ đở ngoài nhà chó tối nay đi, cho đến khi nào em thấy anh khá hơn, lúc ấy em gọi anh vào ngủ trong nhà.". Ðó mầy thấy không, đễ sợ lắm chứ không có giỡn chơi đâu nhen!!!
Bạn tôi hắn (độc thân) nói:
- Ai kêu mầy sợ vợ mầy chi? Lúc vợ mầy ca mầy, thì mầy lấy băng keo dán miệng nó lại.
Tôi mới nghe nó nói đến đó là tôi đã hãi hùng la lên:
- Ê, ê mầy đừng có xúi dại tao nghe! Nó gọi 911 là tàn đời trai của tao đó mầy! Thôi để tao phân tích tiếp theo câu thứ nhì cho mầy nghe luôn, để sau nầy mầy lỡ dại có vợ tiếp, thì cũng biết đường mà mò để không bao giờ trở thành thi sĩ.
- Ừ thì mầy kể tiếp đi, nhưng sao tao vẫn thấy hình như mầy theo chủ nghĩa thờ bà" và nể vợ mầy nhiều quá đó!
- Không phải vậy đâu, tại tao thấy tao lớn hơn vợ tao nên tao có bổn phận lớn phải nhường nhịn nhỏ đó mà! Mầy có muốn nghe tao kể tiếp nữa hay không, mà sao cứ kê tủ đứng và lạng xe đạp vô miệng tao hoài vậy?
Hắn cười và sau đó im lặng để nghe tôi kể tiếp:
- Sau khi ngủ chung với chó rồi mà vẫn còn chứng nào tật nấy, vì cái máu thi sĩ còn quá nặng trong người, thì cuộc đời chỉ có khốn nạn thêm mà thôi! Mà mầy có biết tại sao không? Vì con vợ nó thấy mình tối ngày chỉ lo thơ với thẩn, không lo làm ăn để kiếm tiền nuôi vợ nuôi con. Nó chỉ còn có một biện pháp duy nhất là rủ mình ra toà chung với nó và sau đó, xin ông toà dán ngay một lá bùa ly dị vô cái mặt thơ với thẩn của mình. Thế là mình trở thành homeless và có quyền ca: "Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì ai, bởi vì ai ". Đó! Sao mầy thấy sợ chưa?
Bạn tôi vội nói:
- Ừ thì mầy kể tiếp nữa đi.
- Ừ thì để tao kể tiếp cho mầy nghe. Sau khi thành homeless rồi, mình sẽ đâu có địa chỉ hoặc điện thoại cố định nữa, thử hỏi mầy vậy thì làm sao mà đút đơn xin việc làm được. Thôi thì phải đành đi ăn xin chứ sao bây giờ!!! Ðó mầy thấy tao nói có đúng không? À! mà còn nữa, khi mình đi ăn xin, lúc thiên hạ cho tiền hoặc cho đồ ăn, đương nhiên mình phải chìa tay ra để nhận chứ đúng không? Cho nên tao mới nói câu thứ nhì là "Ði ăn xin và thơ thẩn chìa tay " là vậy đó. Mầy nghĩ coi có đúng không? Ðang làm nhiều tiền bỗng bây giờ phải ngửa tay ra để cho thiên hạ bố thí, thì còn mặt mũi nào nửa mà ở đó không thơ với thẩn!!! Vậy là tao giải thích thật rõ ràng rồi đó. Ê , mầy còn thắc mắc gì nửa không ?
- Thôi đủ rồi, tao nghe mầy giải thích thêm một hồi nữa, chắc tao bịnh luôn quá! Cái tật nói càng và lý cùn của mầy từ nhỏ đến giờ cũng chưa chịu bỏ! À, Mầy biết không! Cái gì mà mới lúc đầu mình làm xong rồi cứ lập đi lập lại hoài, thì nó sẽ thành cái thói quen. Mà khi nó thành cái thói quen rồi mà không lo chửa trị, thì nó sẽ thành cái tật đó. Rồi sau khi có tật rồi, mà không lo chữa trị mầy biết nó sẽ thành cái gì không?
Tôi suy nghĩ một hồi và hỏi lại bạn tôi:
- Tao chịu thua rồi đó, vậy nó là cái gì mầy nói tao nghe đi.
Tôi nghe tiếng cười ha hả của bạn tôi bên kia đầu giây và hắn la lên trong điện thoại:
- Thì nó thành tàn tật đó, vậy mà mâỳ cũng không biết! Tao thầy mầy vẫn không thay đổi cái tật nói lý của mầy, nên có ý lo sợ cho mầy đó, vậy mà mầy vẫn không thấu hiểu, thôi mầy lúc nầy chậm tiêu quá rồi!!!
Tôi cười và nói với hắn:
- Già rồi thì phải chậm chứ mầy! Nhưng muốn biết ai chậm tiêu hơn ai, thì tối nay mầy có ngon nhớ kéo thêm mấy thằng nữa đến nhà tao binh sập xám mười đồng một chi OK?
- Ừ, thì tối nay tao tới, nhưng mà binh tới sáng à nha. Thôi tao cúp để còn gọi tới mấy thằng khác cho tối nay đủ tay chứ, tao bye nghen...
Quách Cường
Calif. 03/10/95
CHUYỆN MỘT LOÀI CHIM SẺ
Em không thích học tiếng Việt đâu, tiếng Việt khó quá, tiếng Mỹ dễ hơn. Bạn Mỹ của bé "fun" hơn mấy người Việt tới nhà bé nhiều...
- Mai ơi, có thơ ngoại nè con, con ra đọc thơ ngoại đi con.
- Thôi, Mom, con forgot Vietnamese rồi, con không đọc đâu.
Bé thấy mặt bà lão nhăn nheo, tội nghiệp quâ Bé nhớ đến ngoại, ngoại cũng già giống bà lão trong tranh này. Ngày bé còn nhỏ tí teo, ngoại thường kể chuyện cổ tích cho bé nghe, bây giờ bé không còn nhớ những chuyện của ngoại kể nữa, bé chỉ mang máng hình dung một bàn tay dịu dàng của ngoại xoa trên tóc bé. Bé nhớ hình ảnh bà tiên trong ký ức, với chiếc đũa thần đi ban bố phép lạ cho cá trẻ con ngoan. Bé nhớ chú Cuội, cô Hằng, con Tấm, con Cám... Bé thương ngoại quá! Ngày xưa, bé biết đánh vần tiếng Việt rồi, từ ngày qua Mỹ, bé không còn học tiếng Việt nữa nên bé quên rồi. Bé nhớ ngoại nghê, lâu rồi bé không còn ca cho ngoại nghe nữa, bé muốn viết thơ cho ngoại nhưng tiếng Việt khó quá, bé không viết được đâu.
Hôm nay chú Dũng đến nhà bé chơi, chú Dũng là bạn của ba bé. Chú Dũng vui ghê, chú biết kể nhiều chuyện cổ tích nữa. Bé nghe ba nói chú Dũng là Phật-tử, bé không biết Phật-tử là gì, chú Dũng bảo chú sẽ cho bé đi chùa. Bé muốn đi lắm, bé nhớ ngày xưa ngoại thường dắt bé đi chùa lễ Phật, bé nhớ các thầy thương bé thật nhiều, có mấy ông thiệt lớn mà còn ra nhảy múa, ca hát với mấy người nhỏ chút xiú bằng bé nữa. Chắc chú Dũng cũng giống mấy ông người lớn đó.
Bé muốn đi chùa với chú Dũng, nhưng bé không đi được, bé phải đi church, mấy friends của bé ở church vui lắm, với lại bé thích nói English, bé không thích nói Việtnamese đâu, Vietnamese khó lắm, và Vietnamese buồn lắm.
Bữa nay chú Dũng lại kể chuyện cho bé một chuyện cổ tích. Tuần trước chú hứa sẽ kể chuyện một loài chim se sẽ...
"Ngày xưa, trên một ngọn tuyết sơn, giữa cảnh rừng núi xinh tươi hoa nở bốn mùa, nơi bóng cây ngọc lan kia là tổ ấm của chim se sẻ. Mẹ Sẻ có bốn con, Sẻ là út. Những buổi sáng mùa xuân trời trong xanh va nắng vàng ấm áp, mẹ của Sẻ hằng ngày bay tìm khắp nơi để mang mồi về nuôi anh em Sẻ. Thấm thoát thời gian trôi qua, anh em Sẻ đã dần dần vương lớn, Sẻ đã biết bay và vònh lượn khắp nơi để hưởng những ngày xuân ấm áp còn lại.
Thế rồi mùa xuân trôi qua, mùa hạ cũng vội đi mất. Một sáng mùa thu nọ, Sẻ cảm thấy buồn vô hạn, lòng Sẻ đà bắt đầu chán ngán cảnh rừng núi cô liêu. Rồi bỗng từ phương xa nào, một đàn chim lạ bay đến, chúng ca hót líu lo vui nhộn, chúng nhảy chuyền từ cành này qua cành kia, rồi chúng bay mất. Nhưng buổi sáng hôm sau, chúng lại bay về, chúng lại ca, lại hát những khúc nhạc du dương, êm ái. Sẻ mải mê những cánh chim kia mất! Sẻ đã nghe những con Sáo sinh tươi kia ca hát, Sẻ đã ngắm những cánh chim đầy màu sắc kia khiêu vũ, Sẻ mê Sáo quá, và Sẻ cứ ngỡ mình là Sáo. Thế rồi buổi sáng mùa đông năm ấy, Sẻ đã bỏ rừng núi hoang vu bay theo loài chim lạ. Sẻ cố gắn học khiêu vũ như Sáo, Sẻ đã tập hát những khúc nhạc của Sáo, và Sẻ cũng đã nói được tiếng Sáo. Giờ đây thì Sẻ không còn nhớ đến ngôn ngữ của loài chim se sẻ nữa rồi. Sẻ đã chung sống với bầy Sáo, Sẻ đã được hưởng những hạnh phúc tuyệt vời của thế gian. Nhưng rồi mùa thu năm sau lại đến, những cơn gió lạnh thổi về, tâm hồn của Sẻ như se thắt lại, Sẻ lạnh lẽo cô đơn quá! Sẻ đã cố gắng sống như Sáo, Sẻ làm được những việc của Sáo. Nhưng Sẻ vẫn là Sẻ, Sẻ chưa thành Sáo được.
Trời thu năm nay sao buồn ảm đạm, những đám mây hờ hững buôn trôi theo luồn gió buồn rã-rượi. Vài cánh chim nâu sầu thảm vỗ cánh mệt mỏi như đang tìm kiếm một người thương yêu đã mất. Chúng lò dò đáp xuống những ngọn cây trơ lá, chúng như không còn đủ sức để ca hót nữa. Chúng kêu lên những tiếng kêu như đau thương nhung nhớ. Sẻ không hiểu được bầy chim nâu nói gì, nhưng trong tiềm thức của Sẻ, Sẻ cảm thấy một sự thân thương quen thuộc lắm. Bầy chim nâu đã bay đi vì Sẻ không hiểu được ngôn ngữ của chúng. Sáng hôm sau chúng trở lại và cũng những lời ai oán như những hôm trước. Sẻ thương chúng quá, nhưng Sẻ không nói chuyện với chúng được. Sẻ thương chim mẹ, Sẻ nhớ mẹ của Sẻ lắm, nhưng Sẻ không nói được tiếng của Sẻ nữa rồi.
Bầy chim nâu lại bỏ Sẻ bay đi. Chúng bay xa, xa và thật xa trong những tiếng kêu đau thương còn phưởng phất trên những cành cây trơ trụi, lạnh lẽo, thê lương và lòng Sẻ cũng thê lương, lạnh lẽo vô cùng."
Bé đã khóc, khóc thật nhiều khi nghe chú Dũng kể chuyện chim Sẻ. Chuyện chú Dũng kể nghe buồn quá, nhưng sao bé nghe thương Sẻ vô cùng. Bé nghe thương ngoại của bé nữa. Bây giờ ở bên đó, Ngoại đâu có còn ai để kể chuyện, để vuốt tóc, để nghe bé nũng nịu đòi bồng ẵm và ca hát cho Ngoại nghe. Bé buồn quá, Bé không biết tiếng Việt để đọc thư Ngoại, để nghe Ngoại nói Ngoại thương và nhớ bé lắm.
Ngoại khóc thật nhiều vì nhớ bê Bé cũng không viết được chữ Việt để viết thư cho Ngoại và nói bé còn nhớ Ngoại lắm. Bé cũng thương Ngoại.
- Chú Dũng ơi, chú dạy cháu học tiếng Việt nhé.
- Ờ, thứ bảy tuần sau chú sẽ đến dạy cháu tiếng Việt. Ngày mai cháu muốn đi chùa với chú không? Cháu sẽ nói chuyện tiếng Việt với bạn của cháu, cháu được tập hát bài ca Việt-Nam nữa - "Chúng ta là chim bốn phương bay về đây..."
- À, chú Dũng ơi, cháu thương chú quá, chú Dũng vui ghê.
Oanh Cồ NGUYỄN ÐÊ TÊ