vhnt, số 173
12 April 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ Trẻ Sài Gòn ....................................Dũng Nguyễn p/t
Không đề .......................................Lê Thị Minh (Saigon)
Hoang tưởng .......................... Nguyễn Thanh Xuân (Qui Nhơn)
Gọi chiều ...............................Trần Hữu Nghiêm (Cà Mau)
2 - Lời si ........................................................Cỏ Nhớ
3 - Chiều quê ..................................................Ðức Lưu
4 - Kéo thời gian ................................................Sao Băng
5 - Xuân và Em ............................................Trần Thái Vân
B i ê n L u ận ( Âm N h ạc ) :
6 - Thái Thanh, tiếng hát lên trời .........................Thụy Khuê
Ð i ể m S á c h :
7 - Những con ngựa gây náo động Hollywood ...............Hồng Lĩnh
8 - Nguyễn Ðình Toàn và "Ðồng Cỏ" ..............................TK21
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Luyến ái ..............................................Bùi Thanh Liêm
10- Sơn Tinh, Thủy Tinh của thế kỷ 21 .....................Thanh Triều
"khả năng của văn học"
Có phải văn học có sức mạnh và quyền năng của nó đối với xã hội? Chủ đề nghe thật lớn, nhưng nếu ta cho rằng cái đọc dẫn đến cái biết, dẫn đến cái khôn, dẫn đến việc ảnh hưởng nhân cách, nhân phẩm, đạo đức, nhân sinh quan... của con người, thì quả văn học có một vai trò rất lớn trong đời sống, ngoài việc mua vui cũng được một vài trống canh những lúc nhàn rỗi thư thả. Văn học, nói một cách nghiêm túc, phản ảnh thực trạng xã hội, gắn bó liên quan đến đời sống con người. Trong thực trạng xã hội tinh thần tha hóa, những tác phẩm như của Nguyễn Huy Thiệp, Gorki, Vũ Trọng Phụng đã làm cho người đọc nhận ra sự suy thoái đời sống tinh thần, đạo lý xuống dốc, một thực trạng xã hội nhiều rối ren, phức tạp. Văn học bao giờ cũng phản ảnh nhiều mặt của xã hội, trong đó có cái tốt và xấu, văn học cũng kích động đến cái nhìn của người đọc về một vấn đề, chẳng hạn như chính kiến, sự chia rẽ của giới lãnh đạo, cộng đồng, đạo đức, luân lý, và những trào lưu thời đại...
Có thể trong văn chương, ta không bắt gặp cái đẹp hay lý tưởng vẫn đi tìm, mà chỉ nhìn thấy những sự thật phũ phàng, những điều có thể làm nhăn mặt những người làm văn hóa. Nhưng từ những cái nhăn mặt sẽ làm ta nghĩ đến hoàn cảnh đời sống chung quanh, mà nghĩ đến một sự đổi khác. Khả năng của văn học có làm thay đổi được thực trạng xã hội hay nhân sinh quan, đạo đức con người? Câu trả lời có lẽ còn tùy thuộc vào giá trị của văn học, của tác phẩm văn chương có ảnh hưởng đến con người hay không?
Chắc chắn rằng có, trong lịch sử đã chứng minh, và hy vọng rằng thời đại của mình, sẽ nở ra những tác phẩm vĩ đại, bằng bất cứ ngôn ngữ nào, làm thăng hoa đời sống tinh thần mệt mỏi của chúng ta.
oOo
Số này vhnt giới thiệu những sáng tác của các bạn văn trong và ngoài nước, bài biên luận của Thụy Khuê về Thái Thanh và nhạc Phạm Duy, tin tức sinh hoạt văn hóa, điểm sách, và 2 sáng tác "phản ảnh xã hội" của Thanh Triều và Bùi Thanh Liêm. Mời bạn đọc thưởng thức.
Chúc bạn một cuối tuần an vui .
thân ái,
PCL/vhnt
Không Đề
Cỏ hoang dại...
Cỏ hoang dại...
Tháng giêng non
Như mắt người non
Ðồi thiếu nữ phía chân trời xa ngái
Em ngồi xem
Tình như bóng nước
Loang tròn...
Lê Thị Minh (TP.HCM)
Hoang Tưởng
Những con dế nhũi lời ca vào đất
Từ mùa xuân hoang tưởng đã lâu rồi
Từng nốt nhạc chấm phá lòng bụi bẩn
Bản tình ca réo rắt khúc xa xôi
Dấu chân nào ruỗng mục giữa mùa xuân
Ta cất giữ nụ cười em đáy cốc
Hớp cạn hơi tìm môi thở lâng lâng
Hoang tưởng quá, nắng mùa xuân vàng rực
Giấc mơ xưa trú ngụ chốn vô thường
Ta lóc cóc bước chân về vô vọng
Hát tình ca như hát chuyện hoang đường
Nguyễn Thanh Xuân
(Bút nhóm Biển xanh-Qui Nhơn)
oOo
Gọi Chiều
Người yêu không biết đâu, từ ấy
Tay vẫy hư không chỉ một mình
Lãng đãng mây tìm chi phía biển
Bạn bè xa còn mỏi mòn trông.
Thân đã mỏi nhừ, khô kiết xác
Còn thương thuyền lẻ giữa giòng trôi
Chiều ơi tôi gọi chiều không đáp
Xin vọng giùm cho một tiếng người
Trần Hữu Nghiễm (Cà Mau)
Lời Si
em giăng chi mấy sợi tình
bủa vây tôi với trăm nghìn giây oan
đàn kêu tích tịch tình tang
sầu tôi trở giấc kêu than lên trời
Cao Xanh chắc động lòng tôi
em như chim bỏ trùng khơi biệt mù
tình hờ mấy sợi em thu
thả dùm tôi mới lưới tù xưa giăng .
Trăng nầy nữa đã mấy trăng
tôi về đời ngó khô cằn vết thương
thà mong manh tựa hơi sương
trong tình em cứ vô thường giăng ngang
đàn kêu, kêu tích tình tang
ai đem so hết giây oan về đời .
Cỏ Nhớ
Chiều Quê
Chiều lặng lẽ, từng buổi chiều rất nhẹ
Ru hồn người da diết nỗi đê mê,
Ai một phút, không nghĩ về đất mẹ,
Vào đây em, tìm lại chút hương quê!
Tập thơ Nhớ Quê - Ðức Lưu
Này em hỡi, có về thăm quê cũ,
Nhớ nhé hàng dừa bóng rũ ven đê
Gió vi vu man mác mỗi chiều về
Bầy thôn nữ buông tay chèo ẻo lả
Chiều xuống chậm, vừng hồng trông đẹp quá
Tiếng tiêu đưa nghe êm ả khoan thai,
Từng đám cò con hối hả sải dài
Ðôi cánh trắng lướt mình qua sóng lúa.
Lũ trâu đen soài mình trên cỏ úa
Ngẫm nghĩ nhai bên đám trẻ ngây thơ
Còn thao thao nhắm mắt đọc i, tờ
Ngân cùng nhịp những giọng hò đưa lại
Trên dốc hẹp, ngó xuống đồi thoai thoải
Thoáng xa xa kìa những vạt vải nâu
Kẻ lom khom, tay khoát nước tát gầu.
Người lúi cúi, nhặt mau từng nhánh lúa
Ðằng cuối bãi, nơi những bờ ruộng thửa
Lũ quạ đen tua túa nhặt thóc rơi,
Vừa mổ nhau, vừa oang oác gọi mời
Theo tiếng gió chơi vơi trên sóng lụa
Nơi giữa bãi, thằng người còn đứng đó
Vẫy đều tay theo hơi gió rì rào
Vừa dọa thầm đàn sẻ nhỏ xôn xao,
Vừa gục gặc thì thào cùng gió nổi.
Chiều xuống thấp, vừng hồng trông le lói
Cuối chân mây tiếng ơi ới gọi về,
Lũ trâu buồn lững thững bước ven đê
Như luyến tiếc một buổi chiều qua lẹ,
Từng bó lúa nằm thu mình lặng lẽ
Trên những cỗ xe kẽo kẹt về làng.
Những chiếc áo đen, hàng nối tiếp hàng
Tay quảy gánh, tay vắt ngang vành nón.
Phía xa xa từng cánh diều thấp thỏm,
Gục gặc đầu đáp xuống bãi mạ non.
Túa trong sân, kìa những chú vàng con
Ðuôi ngoe nguẩy, miệng sủa dòn khắp xóm.
Ở cuối sân từng chú gà ăn lóm
Ðống lúa vàng, chừng ướm nắng, hong khô
Mà những mẹ quê chưa trút vào bồ
Vì mê mãi mớm cơm bầy cháu nhỏ.
Ôi quê nhỏ, buổi chiều quê tôi đó
Nắng ươm hồng, mây đỏ rực phương Tây
Chiều hỡi chiều, hãy dừng nán lại đây
Ðể tôi khẽ khu hồn vào tiếng gió.
Ôi quê nhỏ, buổi chiều quê tôi đó
Này hỡi em, mai ấy có quay về,
Nhớ hàng dừ rũ bóng dọc ven đê,
Bầy thôn nữ buông tay chèo ẻo lả
Chiều xuống chậm,
Buổi chiều quê đẹp quá!!!
Ðức Lưu
Kéo Thời Gian
Gió lạnh ơi, sao mà sớm thế!
Thu đã về, lá vàng úa tả tơi;
Ðông sắp sang, tuyết trắng phủ khắp nơi,
Phủ cả lên hồn tôi băng giá
Gió lạnh ơi! Thôi đừng thổi nữa!
Ðể tim này còn hơi ấm mùa xuân:
Hoa đang tươi, chim ca múa trên cành,
Và ong bướm rấp ranh gấm ghê
Chầm chậm gió ơi, về vội mà chi?
Ðể hoa còn khoe sắc, thêm hương,
Tô điểm cuộc đời, đùa với gió sương,
Và chiêm ngưỡng ánh hồng tươi rực sáng.
Gió đông ơi, chầm chậm mà về!
Ðường ngắn dần, ngại gì không đến nơi?
Thanh thản đã để tôi còn nhắn
Lũ hồng nhung, cẩm chướng, lai ơn,
Mấy giò lan lặng lẽ ngoài sương
Lời từ giã trước khi mùa đông đến.
Sao Băng
Xuân Và Em
Về đây em khi muà xuân vừa tới
Cùng họa thơ, viết nhạc giữa trời mơ
Ngàn hoa tươi và lộc non, chồi mới
Nắng chan hoà ngàn lối dệt vàng tơ
Về đây em tình xuân còn đương thắm
Gió hiền từ, như Bụt, thổi hồi sinh
Trên trời cao ánh cầu vồng lấp lánh
Én tung bay đôi cặp tựa nhân tình
Về đây em cho đời vui mai mãi
Cho Ngưu-lang, Chức-nữ nổi hờn ghen
Anh sẽ hái cho em ngàn hoa dại
Sẽ cùng em ngồi nhóm lửa, lên đèn
Về đây em cho tình thơ thêm ấm
Cho cuộc đời thêm một bóng giai nhân
Cho hoa đào vội vàng khoe sắc thắm
Cho yêu đương vồn vã đến một lần
Về đây em, hỡi người em yêu dấu
Ðời gian nan, thay đổi, dể xa nhau
Anh cảm ơn Thượng đế phép nhiệm mầu
Ðưa Vũ Trụ cùng em vào xuân mới.
trần thái vân
Thái Thanh, Tiếng Hát Lên Trời
Trong những phút giây thiếu vắng trống trải nhất hay những nhớ nhung cuồng nhiệt nhất của cuộc đời, mọi hiện diện hữu hình đều vô nghĩa, ta chờ đợi một đổi trao, khao khát một niềm giao cảm thì sự hiện diện vô hình đem lại một nguồn sáng, một tri âm, một đồng tình gần gũi: sự hiện diện của tiếng hát.
Nếu thơ là một ngôn ngữ riêng trong ngôn ngữ chung, theo Valéry, hay thi ca là tiếng nói của nội tâm không giống một thứ tiếng nói nào của con người, theo Croce, thì âm nhạc hẳn là tiếng nói của những trạng thái tâm hồn và nhạc công hay ca sĩ là nguồn chuyển tiếp, truyền đạt những rung động từ hồn nhạc sĩ đến tâm người nghe.
Thị giác giúp chúng ta đọc một bài văn, nghiền ngẫm một bài thơ, nhưng chúng ta không thể thưởng thức một bản nhạc bằng thị quan của riêng mình mà phải nhờ đến người trình diễn, đến ca công, ca kỹ. Ngàn xưa nếu người kỹ nữ bến Tầm Dương chẳng gieo "tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây" chắc gì ngàn sau còn dấu vết Tỳ Bà Hành?
Sự biểu đạt tác phẩm nghệ thuật hay sự truyền thông cảm xúc từ nhạc bản đến thính giả, nơi một vài nghệ sĩ kỳ tài, không chỉ ngưng ở mực độ trình diễn mà còn đi xa hơn nữa, cao hơn nữa, tới một tầm mức nào đó, ca nhân đã sáng tạo, đã đi vào lãnh vực nghệ thuật: nghệ thuật vô hình của sự truyền cảm, nghệ thuật huyền diệu sai khiến con người tìm nhau trong bom lửa, tìm nhau trong mưa bão, nghệ thuật dị kỳ tái tạo bối cảnh quê hương đã nghìn trùng xa cách, nghệ thuật mời gọi những tâm hồn đơn lạc xích lại gần nhau dìu nhau đưa nhau vào ngàn thu, nghệ thuật không tưởng đừng cho không gian đụng thời gian khi ca nương cất tiếng hát, tiếng hát của bầu trời, giao hưởng niềm đau và hạnh phúc: Thái Thanh.
Người ta nói nhiều đến sự nhạy cảm của người đàn bà, đến một thứ giác quan nào đó ngoại tầm nam giới. Những người đàn bà phi thường như Thanh Quan, Piaf, Thái Thanh... đã tận dụng đến cùng cảm quan bén nhạy của người phụ nữ để sai khiến, xao động, chuyển hóa ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc... những yếu tố thuần phạm vi ngoại giới thành nội cảm, cấu tạo nên một vũ trụ thứ hai, đắm đuối, cuồng say, trong lòng người:
Trời trong em, đồi choáng váng
Rồi run lên cùng gió bốn miền
Tiếng hát Thái Thanh đến với chúng ta bằng rung động trực giác rồi tan loãng trong suy tư, xoáy vào những hố sâu, những đỉnh cao, vào tiềm lực của sự sống. Trong nghệ thuật hội họa, Van Gogh dùng sắc độ chói rạng để diễn tả những cuồng nhiệt, những trận bão trong tâm hồn; trong nghệ thuật trình diễn, Thái Thanh vận dụng tiết tấu của âm thanh tạo nên sự giao thoa mãnh liệt giữa con người, tình yêu và vũ trụ:
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tìm trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng Dương ơi! có xót xa cũng hoài mà thôi!
Vẽ lên hình ảnh người nữ ca sĩ dưới ánh đèn sân khấu, Hoàng Trúc Ly đã có câu thơ thật hay:
Vì em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh
Câu này, trái với vài truyền thuyết, không nhắm vào một danh ca nào nhất định, chỉ gợi lên không khí các phòng trà ca nhạc Sài Gòn khoảng 1960. Nhưng tiếng hát lên trời là một hình ảnh có lẽ hợp với giọng ca Thái Thanh nhất, giữa những tiếng hát thời qua và thời nay. Thái Thanh là một danh hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát xanh thắm màu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Ðổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu, tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng tưởng Thế Lữ.
Ngày nay, những khi tìm lại giọng ca huyền ảo của Thái Thanh trong tiện nghi, ấm cúng, chúng ta ít ai còn nhớ đến định mệnh gian truân của một tiếng hát, những bước gập ghềnh khúc khuỷu, chênh vênh, trôi nổi, theo vận nước lênh đênh. Tiếng nhạc Phạm Duy gắn bó với tiếng hát Thái Thanh thành tiếng của định mệnh, chứng nhân của nửa thế kỷ tang thương, chia lìa trên đất nước. Tiếng Thái Thanh là tiếng nước tôi, là tiếng nước ta, là tiếng chúng ta, là tiếng tình yêu, là tiếng hy vọng, là tiếng chia ly, oan khổ...
Tiếng hát Thái Thanh vang vọng những đớn đau riêng của phận đàn bà, mà người xưa đã nhiều lần nhắc đến bằng nhiều công thức: hồng nhan đa truân, tài mệnh tương đố, tạo vật đố hồng nhan. Giọng hát Thái Thanh dịu dàng đằm thắm vẫn có chất gì đắm đuối và khốc liệt. Thái Thanh tình tự những khát vọng và những đau thương của hàng chục triệu người phụ nữ Việt Nam, một thế hệ đàn bà bị dập vùi trong cuộc chiến kéo dài hằng nửa thế kỷ, kèm theo những giằng co tranh chấp, những băng hoại của một xã hội bất an. Nạn nhân âm thầm, vô danh là những người tình, những người vợ, những người mẹ đã có dịp nức nở giữa tiếng hát Thái Thanh: từ o nghèo thở dài một đêm thanh vắng đến nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, đến lúc anh trở về bại tướng cụt chân, đến nhiều, rất nhiều bà mẹ Việt Nam, từ Gio Linh đến Ðồng Tháp suốt đời cuốc đất trồng khoai... Tiếng hát Thái Thanh là tiếng vọng khuya khoắt của cơn bão lịch sữ.
Và Thái Thanh đã sống lăn lóc giữa cơn lốc đó. Từ tuổi mười lăm, mười bảy, cô Băng Thanh - tên thật Thái Thanh - đã mang ba-lô theo kháng chiến chống Pháp: Hà Nội, khu III, khu IV, chợ Sim, chợ Ðại, chợ Neo, Trung Ðoàn 9. Về thành, cô đã góp công, tích cực và hiệu lực vào việc củng cố, phát triển nền tân nhạc mới phôi thai với ban hợp ca Thăng Long, sau đó là kiếp ca nhi chạy phòng trà những nơi gọi là "Sài Thành hoa lệ", những đêm màu hồng, chiều màu tím.
Trong mười năm chờ đi (chữ của Ðặng Ðình Hưng), cô không hát, chim gìn giữ tiếng, tiếng chim Thanh như lời Phạm Duy trong một tổ khúc. Sang Hoa Kỳ, Thái Thanh hát lại, vẫn đắm say, vừa kiêu sa vừa gần gũi, đơn giản và điêu luyện.
Xã hội Việt Nam ngày nay tuy đã vượt xa thành kiến lạc hậu "xướng ca vô loài" vẫn chưa có khả năng đánh giá đúng mức giá trị của ca sĩ. Nói rằng hát hay, cũng phải ba bảy đường hay. Thái Thanh, ngoài giọng hát điêu luyện phong phú, mở rộng trên nhiều cung bậc, còn có năng khiếu văn chương để làm nổi bật lời ca trong nhạc khúc và tạo ra một khí hậu, một tâm cảnh chung quanh bài hát. Nghe Thái Thanh hát là thưởng thức một khúc nhạc, một bài thơ, trong một thế giới nghệ thuật trọn vẹn. Giọng hát xoắn sâu, xoáy mạnh vào tâm tư người nghe, khi lâng lâng, khi tẻ buốt, nhưng lúc nào tâm tư cũng vươn lên, hay lắng xuống. Giọng hát Thái Thanh tha thướt và tha thiết buộc người nghe phải sống cao hơn, sâu hơn, sống nhiều hơn. Tiếng hát Thái Thanh có lúc gợi cảm, khơi tình, nhưng vẫn là những hổn hển như lời của nước mây trong thơ Hàn Mặc Tử.
Hữu thể làm bằng sỏi đá và sắt thép, thân xác và nước mắt phút chốc tan biến, trở nên vô hình, vô thể, biến thành tiếng hát khi trầm mặc, khi vút cao; Thái Thanh, phù thủy của âm thanh là một thứ Ðào Nương trong truyền thuyết có ma lực hú về những âm tình u khuất.
Trong những cassette giới thiệu nhạc của mình, Phạm Duy một đôi lần có lưu ý Thái Thanh khi hát, thỉnh thoảng hát sai. Dĩ nhiên một tác giả có quyền đòi hỏi người khác phải trung thành với văn bản của mình; riêng trong nghề ca xướng, nghệ nhân vẫn có thông lệ đổi vài chữ cho hợp với hoàn cảnh, nhất là ở Việt Nam, nền văn nghệ trình diễn vốn dựa trên truyền thống truyền khẩu lâu đời.
Ví dụ như bài Cho Nhau, Phạm Duy viết:
Cho nhau ngòi bút cùn trơ...
Cho nhau, cho những câu thơ tàn mùa
Cho nốt đêm mơ về già
Thái Thanh hát:
Cho nhau ngòi bút còn lưa
...
Cho nối đêm mơ về già
Lưa là một chữ cổ, có nghĩa còn sót lại, nhưng mang một âm thanh u hoài, luyến lưu, tiếc nuối. Ca dao Bình Trị Thiên có câu:
Trăm năm dù lỗi hẹn hò
Cây đa bến Cộ con đò vắng đưa
Cây đa bến Cộ còn lưa
Con đò đã thác năm xưa tê rồi.
Chính Phạm Duy cũng có lần sử dụng chữ lưa trong bài Mộng Du: Ta theo đường mộng còn lưa... Dĩ nhiên ngòi bút cùn trơ có nghĩa chính xác hơn, nhưng không thi vị bằng ngòi bút còn lưa.
Cho nốt đêm mơ về già, như Phạm Duy đã viết, nghĩa là cho phứt đi, cho đi cho xong. Chữ nối của Thái Thanh, thay vào chữ nốt, tình tứ và thủy chung hơn: những giấc mơ về già chỉ là tiếp nối những giấc mơ tuổi xuân mà anh không tặng được em vì gặp em quá muộn; cho nhau chỉ còn trái đắng cuối mùa, nhựa sống trong thân cây chỉ còn dâng được cho em dư vị chua chát và cay đắng.
Phạm Duy viết:
Cho nhau thù oán hờn ghen...
Cho nhau cho cõi âm ty một miền
Thái Thanh hát:
Cho nhau cho nỗi âm ty một miền
Chữ nỗi vô tình buông ra mà hay hơn chữ cõi, vì cõi chỉ là một miền, một không gian, một ý niệm hiện hữu, có vẻ bao la nhưng thực ra hữu hạn. Chữ nỗi vô hình, nhỏ bé nhưng vô hạn, đi sâu vào tâm linh con người: với tuổi già nỗi chết nằm trong cuộc sống. Cho em nỗi chết là cho tất cả những niềm hoang mang, khắc khoải, đau thương còn lại, nghĩa là chút tình yêu còn lưa trong từng nhịp đập yếu ớt của trái tim đã cạn dần cạn mòn hết những mùa xuân.
Nói như thế, không có nghĩa là khuyến khích ca nhân đổi lời tác giả. Chính Thái Thanh nhiều khi hát sai, ví dụ như rong Về Miền Trung: Tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi mà đổi ra làm Thương thân... khóc đầu là hỏng, nhưng người nghe dễ nhận ra và điều chỉnh. Nhiều chỗ sai, người nghe không để ý.
Ví dụ câu này có thể xem như là một trong những câu hay nhất của Phạm Duy và tân nhạc Việt Nam:
Về miền Trung còn chờ mong núi về đồng xanh
Một chiều nao đốt lửa rực đô thành
Thái Thanh hát một chiều mai đốt lửa... là đánh vỡ một viên ngọc quý. Chữ nao mơ hồ, phiếm định, chỉ là giấc mơ ánh sáng, màu sắc của nghệ sĩ - mà Nguyễn Tuân gọi là cơn hỏa mộng - nó chỉ là hình ảnh nghệ thuật, chứ Phạm Duy không mong có ngày đốt thành phố Huế. Có lẽ ông còn giữ trong ký ức câu thơ của Chính Hữu trong Ngày Về mà ông rất thích:
Bỏ kinh thành rừng rực cháy sau lưng
Thơ không thể dịch được, nghĩa là không thể chuyển thơ từ ngôn ngữ nước này sang ngôn ngữ nước khác mà không làm mất hồn thơ, làm mất chất thơ, nhưng có thể chuyển thơ sang hình thức nghệ thuật khác như chuyển thơ sang nhạc hay phổ nhạc những bài thơ hoặc ngược lại, đặt lời thơ cho bản nhạc.
Chúng ta có nhiều nghệ sĩ sáng tác những nhạc khúc tuyệt vời với ngôn ngữ thi ca, nhưng chúng ta có ít ca sĩ thấm được hồn thơ trong nhạc bản. Ðạt tới tuyệt đỉnh trong ngành trình diễn, Thái Thanh nắm vững cả bốn vùng nghệ thuật: nghệ thuật truyền cảm, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật thi ca và nghệ thuật phát âm tiếng Việt, giữ địa vị độc tôn trong tân nhạc Việt Nam gần nửa thế kỷ: Thái Thanh chẳng cần làm thơ cũng đã là thi sĩ.
Giữa những phôi pha của cuộc đời, tàn phai của năm tháng, giọng hát Thái Thanh vang vọng trong bầu trời thơ diễm tuyệt, ở đó đau thương và hạnh phúc quyện lẫn với nhau, người ta cho nhau cả bốn trùng dương và mặc tàn phai, mặc tháng năm, tiếng hát vẫn bay bổng ở chốn trần gian hoặc ở vô hình.
Thụy Khuê
Paris, tháng 11-1990
Chú thích:
Những lời ca trích trong bài này của nhạc sĩ Phạm Duy.
(1) nói đến tâm trạng chiến sĩ Trung Ðoàn Thủ Ðô khi rời Hà Nội đầu năm 1947.
NHỮNG CON NGỰA GÂY NÁO ÐỘNG HOLLYWOOD
Đó là những con ngựa trong tiểu thuyết The Horse Whisperer (Kẻ thầm thì với ngựa) của Nicholas Evans, một nhà văn người Anh. Cuốn truyện kể về mối tình cháy bỏng giữa một chàng cao bồi ở bang Montana có biệt tài trò chuyện đuợc với ngựa và một nữ chủ biên tạp chí ở New York, có gốc gác Ăng lê, đã gây chấn động trong giới xuất bản Mỹ cũng như trong làng điện ảnh kinh đô Hollywood khi nó bắt đầu được đăng hồi cuối năm ngoái. Diễn viên lừng danh cũng là đạo diễn Robert Redford và hãng Disney đã ngã giá 3 triệu USD để mua bản quyền làm phim The horse whisperer, còn Dell Publishing đã bỏ ra tới 3.15 triệu USD để giành quyền xuất bản nó ở khu vực Bắc Mỹ, và tác giả có tác quyền thêm 2 triệu USD nữa để sách được in ra ở nước ngoàị Như vậy có thể coi The horse whisperer là tác phẩm cao giá nhất ngay từ khi Evans chưa viết xong nó!
Nay, sau khi được xuất bản, The Horse Whisperer đã nhanh chóng leo lên danh sách best-seller ở Mỹ, bên cạnh truyện của Michael Crichton và Sidney Sheldon. Từ một cây bút chưa có tiếng tăm gì , Nicholas Evans đột ngột trở thành tác giả được trả tác quyền xuất bản còn hơn cả những ông vua tiểu thuyết cỡ Michael Crichton và John Grisham, và còn được Hollywood trả nhiều tiền hơn bất kỳ tiểu thuyết gia nào trong lịch sử gắn bó giữa tiểu thuyết và điện ảnh ở Mỹ. Ðiều lạ lùng là Evans đã viết từ xứ Anh câu chuyện khiến cả nước Mỹ say mê.
Evans, 45 tuổi, lớn lên từ vùng nông thôn Worcestershire, có thú vui cưỡi ngựa, xem phim cao bồi trên truyền hình và đọc tiểu thuyết của Jack London. Ông làm báo và viết kịch bản. Ý tưởng viết cuốn The horse whisperer đã đến với Evans trong một chuyến đi về miền nam nước Anh, khi ông gặp một người thợ rèn, người đã kể cho Evans về một anh chàng lãng tử ở địa phương có khả năng thuần hoá những con ngựa hoang bằng những tiếp xúc huyền bí giữa anh ta với chúng, và anh ta được gọi là "kẻ thầm thì với ngựa." Câu chuyện được nghe kể đã khiến Evans "run lên". Và rồi Evans đã bỏ ra sáu tuần lễ đến phía tây nước Mỹ, rong ruổi đường dài trên một chiếc xe hơi thuê, thường xuyên nghe nhạc của Aaron Copland và Neil Young, phỏng vấn những người chữa bệnh cho súc vật bằng phương pháp tâm linh và chứng kiến những cuộc trừ tà cho ngựa.
Trở về Luân Ðôn, Evans bắt đầu sáng tác. Khi đã xong một nửa, ông gửi nó cho một người bạn làm nghề xuất bản để lấy ý kiến. Lúc đó Evans đang sống trong cảnh nợ nần, cầm cố đã quá hạn. Tập bản thảo còn dở dang dày 215 trang ấy được đăng vào tháng 10-1994, lập tức đã thành công không tưởng nổị Ba nhà sản xuất ở Hollywood đã cùng đề nghị giá 3 triệu USD để được chuyển thể thành phim. Evans đã đồng ý bán bản quyền cho Robert Redford sau một cuộc điện đàm vì theo ông Redford đã tỏ ra biết rõ những điều mà tác giả muốn gửi gắm vào tác phẩm.
Bàn về thành công của cuốn The Horse Whisperer, có người cho rằng nó chẳng khác gì thành công của cuốn tiểu thuyết The Bridges of Madison County ( Những cây cầu ở quận Madison) của Robert Kames Waller mà cuốn phim cùng tên (do Clint Eastwood đạo diễn và đóng vai chính) cũng rất ăn khách. Chính Evans cũng nói thế :"Cả hai cuốn sách đều nói về những người yêu nhau ở tuổi trung niên- như vậy là nói về hàng triệu người khác. Có điều, sách của tôi dài hơn của Waller. Nhiều trang hơn, nhiều tiền hơn."
Với hơn 8 triệu USD kiếm được, Evans đã mua một ngôi nhà mới ở Luân Ðôn và tạm thời từ bỏ sự nghiệp viết kịch bản của mình (The Horse Whisperer sẽ do Eric Roth, người viết kịch bản Forrest Gump, chuyển thể kịch bản điện ảnh). Năm tới, Evans sẽ bắt tay viết cuốn tiểu thuyết thứ hai.
Hồng Lĩnh
Nguyễn Đình Toàn Và ĐỒNG CỎ
Như thường lệ, khi đến dự buổi ra mắt cuốn Ðồng Cỏ của Nguyễn Ðình Toàn tổ chức vào chiều thứ Bảy, 9 tháng Ba 1996 tại phòng Sinh Hoạt của nhật báo Người Việt (Westminster, California), mọi người có ý tìm xem tác giả ở đâu. Nhưng tác giả Ðồng Cỏ không có mặt tại đó, ông đang ở tại Việt Nam. Cuốn Ðồng Cỏ do nhà xuất bản Ðồng Dao ở Úc ấn hành, và đây là lần đầu tiên ra mắt tại Nam Cali.
Nhiều văn hữu và bạn hữu của tác giả đã phát biểu trong buổi ra mắt này. Nguyễn Xuân Hoàng đã nói rằng:
"... Gần như không một buổi sáng nào chúng tôi không gặp nhau ở quán Cái Chùa (La Pagode) này trước khi đến sở. Nguyễn Ðình Toàn làm ở đài phát thanh, Ðặng Phùng Quân dạy ở Văn Khoa, Huỳnh Phan Anh bên Nguyễn Trãi, Nguyễn Nhật Duật ở Quận Tám, tôi ở tạp chí Văn.
... Ðiểm đặc biệt mà người đọc có thể tìm thấy trong tiểu thuyết Nguyễn Ðình Toàn, đó là hầu hết nhân vật chính của ông đều là phụ nữ. Cuốn Ðồng Cỏ, tác phẩm sau cùng của ông viết vào những ngày chót của cuộc chiến tranh Việt Nam là một ví dụ."
Nữ ca sĩ Quỳnh Giao phân tích tác phẩm:
"Cuốn tiểu thuyết viết về một người con gái đôi mươi, làm việc trong một đài phát thanh của một xứ triền miên chiến tranh, và như một cánh chim run rẩy trước không gian bạt ngàn sẽ bay tới, cô ta chuẩn bị đi du học tại một quốc gia văn minh thanh bình. Phụng, nhân vật trong truyện, sẽ rời gia đình thân yêu, rời đài phát thanh và các bạn, rời Việt Nam binh lửa và đói rách như một đồng cỏ khô, để được bay bổng ra một cõi ngoài tươi thắm hơn. Nỗi bâng khuâng của người con gái, sự tần ngần xót xa của con người đa cảm trước một đổi thay lớn của đời mình với biết bao ràng buộc thắm thiết với đồng cỏ để lại phía sau, đã được hòa nhập trong một mối tình đầu đời với một đồng nghiệp trong đài, một nhân vật mang nhiều vóc dáng của chính tác giả. Cuốn truyện viết về những ngày cuối đó của Phụng."
Từ Washington D.C. Bùi Bảo Trúc gửi về bài "Nguyễn Ðình Toàn ở La Pagode" mà Lê Ðình Ðiểu "đọc hộ" tại buổi ra mắt sách. Trích một đoạn:
"Nhưng cái tiếng nói ấy, khi bay bổng trên những làn sóng phát thanh của đài Sài Gòn trong chương trình nhạc chủ đề mà ông phụ trách vào một tối trong tuần thì không có gì có thể lấn lướt được nó. Cái lối nói rỉ rả, như rót vào tai, đầy cầu khẩn, đầy thiết tha, đầy tình cảm như len qua những khe cửa, đến tận những cái đầu giường, vào ngồi cạnh chiếc ghế bắc trên ban công nhìn ra bầu trời khuya của những đêm Việt Nam...
Nguyễn Ðình Toàn đã đến với nguyên một thế hệ ở Việt Nam bằng cả chữ viết lẫn lời nói. Từ Dọc Ðường, Chị Em Hải đến Áo Mơ Phai ở trong nước, rồi bây giờ, Ðồng Cỏ ở Úc, ở Hoa Kỳ, Nguyễn Ðình Toàn là một sự thủy chung, một người bạn thân tình bằng thứ văn xuôi căng ứa chất thơ của ông. Với thính giả của những năm 60, 70, ông là một tiếng nói vỗ về, những lời tỏ tình, những biểu lộ ông nói giúp, gửi đến những buổi tối phập phồng đầy lo âu của không khí chiến tranh lúc nào cũng ăm ắp chung quanh."
Và đây là Lê Ðại Lãng, từ Úc:
"... Ngay từ những bước đầu tiên đi vào Ðồng Cỏ, bỗng nghẹn ngào vì chạm một (và những) cuộc ra đi.
Ra đi! Cái ý nghĩa của sự ra đi, và những bước chân sắp sửa rời đất nước của nhân vật Phụng ám ảnh và tiên báo nhiều số phần, nhiều số phần trong những ngày cuối khi cả nước sắp thay tên. Phụng có ý nghĩ như thế này: 'Tôi muốn sống cái cảm giác lẻ loi của một kẻ bơ vơ nơi đất lạ quê người, một ngày nào đó, xách va ly từ trên phi cơ bước xuống cái phi trường rộng lớn, tấp nập hay vắng vẻ nào, như một kẻ bị đày biệt tích, sống một lượt sự lẻ loi như một tình cảm lãng mạn và nỗi lẻ loi sợ hãi mang theo từ quê hương.' (tr.2).
Nguyễn Ðình Toàn viết những dòng này vào năm 1974. Chưa ai nghĩ đến những chuyến ra đi cuồn cuộn. Ta còn xa lạ với 'lưu đày,' ta còn xa lạ với 'nỗi lẻ loi sợ hãi mang theo từ quê hương."
Nguyễn Ðình Toàn sinh năm 1936 tại Hà Nội. Ông di cư vào Nam năm 1964 và bắt đầu viết văn từ đó. Ông đã in khoảng 30 tác phẩm, gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, và thơ. Ngoài viết văn, ông còn làm chương trình phát thanh. Ông được ái mộ nồng nhiệt qua các chương trình "Nhạc Chủ Ðề" trên đài phát thanh Saigon, với phong cách giới thiệu nhạc một cách chải chuốt, thấm sâu vào lòng người nghe.
Tiểu thuyết "Ðồng Cỏ" được viết và đăng hàng ngày trên nhật báo Chính Luận trong hai năm 1973 và 1974, chưa in thành sách lần nào. Do một độc giả cắt giữ được bản in trên báo và gửi cho cơ sở Ðồng Dao, cuốn "Ðồng Cỏ" lần đầu tiên ra mắt bạn đọc hải ngoại.
Trong buổi ra mắt sách, con trai nhà văn Nguyễn Ðình Toàn, là anh Nguyễn Ðình Tri hiện ngụ tại Long Beach, đã thay mặt "bố Toàn" cảm ơn nhà xuất bản và các văn nghệ sĩ ở hải ngoại giúp cho tác phẩm "Ðồng Cỏ" có mặt trong dòng văn học Việt Nam hôm nay.
Các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và ca nhạc sĩ, như Nguyễn Xuân Hoàng, Thảo Trường, Quỳnh Giao, Hà Linh Bảo, Trọng Nghĩa, Mộng Lan và Phan Lạc Tiếp đã lên diễn đàn nói về nhà văn và tác phẩm, hoặc trình bày các bài hát, bài thơ của Nguyễn Ðình Toàn.
Trích TK21 số 84 /April 1996
Luyến Ái
- Cái gì cũng từ từ giải quyết, việc gì mà phải cuống lên như thế? Cái con này!
Tiếng mẹ tôi ôn tồn vọng lên từ trên phòng khách. Giọng của Thanh Tú, em gái tôi tiếp tục rít lên:
- Không cuống lên sao được. Mẹ coi đấy, ảnh càng ngày càng bệnh hoạn. Con chịu hết nỗi rồi!
Có tiếng mở cửa, sau đó là giọng của bố tôi:
- Có chuyện gì mà ồn ào vậy?
Mẹ tôi đáp lời:
- Hai anh em nó lại có chuyện xích mích.
Thanh Tú ngắt lời bà:
- Bố xem đấy, đến nước này thì con hết chịu được rồi. Ảnh bệnh quá bố ạ!
- Thằng anh mày bệnh từ lâu rồi, hôm nay mày mới biết à?
- Nhưng con không thể chấp nhận được. Ảnh đã vượt quá giới hạn, một khi dám giật bồ của con.
- Hả? Tú, con nói gì, bố có nghe lầm chăng? Thằng Giang giật bồ của con?
- Không, bố không nghe lầm. Ðúng vậy! Ảnh đã quyến rũ, dụ dỗ anh Ðông, bồ con.
Tôi không nghe bố nói gì, chỉ thoáng nghe tiếng thở dài của hai bậc sinh thành.
Ở nhà bếp, tôi cũng đang yên lặng, thở dài. Nghe những lời bình phẩm về mình từ những người thân, mà tôi không khỏi ngậm ngùi. Những lời trình bày của em gái tôi chỉ đúng một phần mà thôi. Ðúng là tôi đã có quan hệ với Ðông, nhưng tôi đã không "quyến rũ, dụ dỗ" chàng như Thanh Tú vừa nói. Sự thật thì Ðông đã tự động đến với tôi với tất cả nhiệt tình. Tuy nhiên, dù sao thì tôi cũng biết việc mình làm là sai, là mang lại hậu quả như hôm nay, nhưng biết làm sao hơn; con tim đôi khi có lý lẽ của riêng nó.
Tôi làm sao quên được nét vui mừng có thể thấy rõ trên khóe mắt của Thanh Tú, hôm nó dẫn Ðông về giới thiệu với gia đình. Lần đầu tiên gặp chàng, tôi như bị sét đánh ngang đầu. Tôi đã phải cố nén xúc động, nhưng sau này chàng cho tôi biết là tôi đã không qua mắt được chàng. Sau bữa cơm chiều hôm đó, cặp tình nhân dẫn nhau ra ngoài vườn để âu yếm. Từ trong phòng ngủ nhìn ra, thấy cái cảnh chàng và em gái tôi ôm nhau, đong đưa trên chiếc võng, bỗng dưng tôi cảm thấy nghèn nghẹn trong tim. Nỗi niềm ghen tuông bất chợt trào dâng.
Ðây không phải là lần đầu tiên trái tim tôi biết rung cảm với một người cùng phái. Kể ra thì không biết đã có bao nhiêu người con trai, trong đó đa số là người bản xứ, đã đi qua đời tôi. Những mối quan hệ này tôi đã phải lén lút, dấu diếm mọi người trong gia đình. Ðã có mấy lần tôi suýt "come out of the closet", khi bố mẹ tôi cứ đốc thúc tôi chuyện lấy vợ để có cháu cho ông bà bồng ở tuổi xế bóng, nhưng tôi không thể làm được, tôi sợ bố mẹ tôi không thể chịu nỗi cái tin sét đánh này, cái tin rằng con trai của bố mẹ là một phần tử bị người ghê tởm, gán cho những cái tên không được đẹp đẽ, như "pede", "bóng lại cái", vân vân.
Nhưng rồi cuối cùng cái tin sét đánh này cũng đến tai bố mẹ tôi, và người đưa tin chính là Thanh Tú, em gái tôi. Hôm đó tôi đi làm về sớm, còn đang loay hoay dọn dẹp dưới bếp thì nghe có tiếng chân dồn dập từ ngoài đường. Thanh Tú ùa vào trong nhà như cơn lốc:
- Bố mẹ ơi, ra đây con nói cho nghe cái tin động trời này.
Bố mẹ tôi đang làm vườn. Sau đó cơn lốc ào ra ngoài vườn. Từ trong nhà bếp nhìn ra, qua khung cửa kiếng, tôi không nghe rõ họ đang nói gì, chỉ thấy em gái tôi đang khua tay, múa chân. Tôi thấy bố mẹ tôi mắt trợn tròn, ra vẻ không tin. Tôi nghe tiếng được tiếng mất, giọng của Thanh Tú:
- Không phải một đứa, mà cả đám bạn của con nhìn thấy rõ anh ấy ôm hôn một thằng Mỹ trắng trên ghế đá công viên.
Dĩ nhiên là tôi không tránh được màn cật vấn hôm đó. Tôi đã nói lên tất cả sự thật, tự đáy lòng. Bố mẹ tôi như người từ trên cung trăng rơi xuống, nhưng tôi biết làm sao hơn, chẳng lẽ nói dối với bậc sinh thành ra mình? Bố tôi sau đó bắt tôi phải đi khám bác sĩ tâm thần. Tôi đã phải chìu ông, nhưng rồi hết ông bác sĩ này đến bà bác sĩ nọ, tất cả đều nói là tôi rất bình thường, không bệnh hoạn gì hết. Ngày tháng nặng nề trôi, cho đến nay thì mọi người trong gia đình đã quen dần với đời sống mới của tôi, mặc dù không ai có thể chấp nhận cuộc sống này.
Trở về chuyện chàng thanh niên đẹp trai, tên Ðông, bạn trai của em gái tôi. Từ sau bữa cơm làm quen gia đình, Ðông đến thăm Thanh Tú thường xuyên hơn, nhưng không hiểu tại sao chàng lại nhằm vào những lúc em tôi vắng nhà.
Và mối tình của hai đứa tôi bắt đầu chớm nở từ đấy. Tôi biết rõ quan hệ tình cảm của tôi và chàng sẽ không bao giờ được chấp nhận trong gia đình này. Thoạt đầu, tôi còn kiềm chế được, nhưng rồi tôi càng cố đè nén cảm xúc bao nhiêu thì tình yêu lại càng dâng lên mảnh liệt. Tức nước vỡ bờ. Vào một đêm mưa gió bão bùng, Ðông đến viếng thăm, khi cả nhà đi vắng, chỉ có mỗi mình tôi ở nhà, và những gì phải đến, đã đến. Chúng tôi đã trao đổi ái ân, một cách trọn vẹn.
Từ sau đêm mưa định mệnh đó, Ðông và tôi càng lún sâu trong vũng lầy ân ái mang nhiều trái ngang này. Ở lứa tuổi thanh niên sung sức như tôi và chàng thì những đòi hỏi sinh dục rất cao, do đó tôi và Ðông cần phải có nhau nhiều hơn. Chúng tôi đã tận dụng bất cứ thời gian rảnh có được để thỏa mãn những đòi hỏi sinh lý. Và cũng vì vậy mà Ðông càng này càng lơ là Thanh Tú, để cuối cùng sự thật đã phải phơi bày trước ánh sáng, ngày hôm nay.
Bên ngoài phòng khách, yên tĩnh đã trở lại. Ðoán chừng mọi người đã đi khỏi, tôi rón rén bước lên nhà trên. Tôi vào phòng thu xếp hành lý. Tôi đã nghĩ kỹ rồi, không còn cách nào khác hơn là dọn ra khỏi đây. Suốt thời gian từ sau cái hôm chân tướng của tôi bị lộ, cả nhà này ai cũng nhìn tôi như một con thú vật. Bây giờ. Chuyện tôi và Ðông mọi người đã biết, liệu tôi có thể sống đươc không, trong cái không khí nghẹt thở này? Tôi quyết định rồi, tôi sẽ đi thật xa nơi chốn này, tôi đã chọn nơi định cư mới cho mình, ở một tiểu bang miền Ðông xa xôi, nơi không có bạn bè, họ hàng thân thuộc. Tôi ra đi không phải để xây dựng tương lai, mà là để chôn vùi quá khứ. Tại sao tôi phải làm như vậy? Tại sao tôi phải trốn tránh cuộc đời? Tôi đã làm nên tội tình gì. Ông trời ơi! Sao ông quá bất công? Phải chi tôi đừng hiện hữu trên cõi đời này. Những người thân yêu của tôi ơi! Xin vĩnh biệt tất cả.
Bây giờ đang là mùa xuân. Nơi tôi đang sống mùa xuân được khởi sắc thấy rõ, với hoa anh đào rực rỡ và muông thú tưng bừng chào đón xuân đã về. Tôi đang viết những giòng nhật ký trên đây như để đánh dấu lại một mốc thời gian. Hôm nay, 5 năm sau, tôi ngồi đây ôn lại dĩ vãng mà không khỏi ngậm ngùi. Thời gian, vật đổi sao dời. Thời gian, mang lại nhiều biến động, trong cuộc đời của một thằng con trai thuộc loại "cha mẹ sinh con trời sanh tính" như tôi. Bố mẹ tôi đã mất, một thời gian ngắn sau khi tôi bỏ nhà ra đi. Ðông, người yêu của tôi và Thanh Tú, em gái tôi cũng vừa mới qua đời hồi năm ngoái, cả hai đều mang chứng bệnh nan y của thế kỷ: bệnh AIDS.
Những người thân đã về bên kia thế giới, giờ đây chỉ còn mình tôi, ngồi đây đếm từng ngày tháng lặng lẽ trôi đi. Tôi vẫn sống, vẫn thở như mọi người, nhưng tôi không biết sự sống này sẽ kéo dài cho đến bao lâu, vì bác sĩ cho tôi biết là trong máu của tôi đã bị nhiễm siêu vi trùng HIV.
Ngoài kia, mùa đông băng giá đã tàn phai, thấp thoáng đâu đây hình bóng nàng xuân đang thẹn thùng ẩn hiện, trong không khí rộn rã của buổi giao mùa. Bên ngoài cánh cổng bệnh viện, cuộc đời vẫn đẹp thay. Trong khi đó, phía sau cánh cổng này, là những bờ tường trắng xóa. Tất cả được nhuộm bởi một màu tang tóc, thê lương. Buồn ơi! Xin chào mi.
Bùi Thanh Liêm
Tháng Tư, 1996
Sơn Tinh - Thủy Tinh Của Thế Kỹ 20
San Jose là một thành phố rất nổi tiếng về ngành điện tử. Một thành phố không biết nghĩ ngơi, hãng điện tử làm việc 24 tiếng, có khi cả ngày cuối tuần. San Jose là một thành phố rất nhộn n hịp, xe cộ chen chút nhau trên xa lộ trong những giờ cao điểm. Một thành phố với một lối sống bon chen, ăn chơi và đua đòi. San Jose cũng là nơi lập nghiệp của người Việt. Những tiệm ăn, tiệm café rải rác khắp nơi. Nhưng đối với giới trẻ, những quán cà phê vẫn là nơi để giết thời gian và đàm luận.
Diễm Kiều là sinh viên năm thứ hai ở San Jose State. Nàng rất đẹp.Với mái tóc dài óng ả và một gương mặt dể thương đã tạo nên một vẽ đẹp lộng lẫy, mê hồn. Với vẽ đẹp đó và lối trang diện theo thời trang đã là mục tiêu thu hút đám nam sinh viên trong trường.
Quân là một người bạn thân của Kiều. Quân có một phong cách rất giản dị. Lối ăn mặc bình dân, mái tóc rất gọn và tự nhiên, không có láng mượt như những anh chàng khác. Mùa học này là mùa học cuối cùng của Quân tại San Jose State. Với bằng cấp trong tay, Quân có thể sống một cuộc sống thoải mái. Quân và Kiều là hai người bạn nhưng bao nhiêu người bạn khác. Cả hai giúp đở lẫn trong việc học. Tình cảm của họ không đi ra ngoài lề của quyển sách và trang giấy kia.
Trong một buổi tiệc sinh nhật của nhỏ bạn, Kiều quen Lãng. Lãng là một thanh niên lịch thiệp và đẹp trai. Với chiếc 300zx láng bóng và điện thoại cầm tay, Lãng được phái nữ "chăm sóc" rất kỷ. Anh chàng ăn nói có duyên và đặc biệt có một nụ cười dể làm mềm lòng người khác phái. Suốt đêm đó, Lãng đeo sát Kiều và chiều chuộng nàng hết mức. Sau đêm hôm đó, Kiều đã ngã vào vòng tay của Lãng một cách nhẹ nhàng.
Lãng đưa Kiều đi chơi với đám bạn thâu đêm. Tiền, rượu, thuốc xài xả láng. Nhiều khi Kiều hỏi về đám bạn và nguồn gốc của số tiền đó thì Lãng chỉ trả lời cho qua chuyện. Nhưng Kiều có biết đâu Lãng kiếm tiền từ những vụ làm ăn phi pháp và đám bạn kia chẳng ai khác hơn là đám đàn em đắc lực của Lãng. Cả hai quấn quít không rời nửa bước. Những cuộc truy hoan suốt đêm đã làm cho nhan sắc của Kiều suy tàn. Một đêm nàng thức giấc không thấy Lãng nằm bên cạnh nên ra khỏi phòng tìm. Nhưng chẳng ay cho Lãng, Kiều phát giác Lãng đang dùng bạch phiến ở phòng khách. Sau buổi tối hôm đó, Kiều bỏ những cuộc chơi và tránh gặp mặt Lãng. Không gặp được Kiều, Lãng tìm đến trường của nàng. Sao khi được biết Kiều muốn đoạn tuyệt mối quan hệ đó thì Lãng nổi nóng toan đánh nàng. May cho Kiều, Quân nhảy vào can thiệp thì Lãng bỏ đi. Từ hôm đó trở đi, Lãng luôn theo dõi Kiều, nhưng nàng không biết. Lãng như một con thú đang săn mồi, chỉ chờ cơ hội để ra tay.
Một buổi sáng, Kiều gọi Quân đến đưa nàng đi học vì xe của Kiều bị hư. Khoảng 15 phút sau, Quân đến và cả hai đến trường. Theo sau là chiếc 300zx nhưng cả hai đều không biết. Khi họ ra đến xa lộ, Lãng không kềm chế được mình, rút súng rãi đạn vào xe của Quân. Quân không điều khiển được nên chiếc xe đâm đầu vào xe phía trước và lăng mấy vòng, mui xe xẹp lép. Còn Lãng thì tìm cách thoát, nhưng chẳng may cho Lãng, một chiếc xe cảnh sát đuổi theo sau. Sau nửa giờ bị rượt, Lãng chạy vào ngõ hẻm, xuống xe rút súng chống lại cảnh sát. Trong cuộc đọ súng đó, Lãng bị bắn gục.
Quân bị một viên đạn vào đầu, chết tại chỗ. Còn Kiều thì bị thương ở cổ. Sau khi được kéo ra khỏi chiếc xe và Kiều trút hơi thở cuối cùng trên đường đến bệnh viện vì bị mất quá nhiều máu.
Thanh Triều