vhnt, số 87
16 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ thư bạn đọc
+ hộp thư giải đáp thắc mắc văn học
+ 1 - thơ, trích Lục Bát, Âu/TP Nguyen
+ 2 - thơ, Tình đầu, khuyết danh/Diem Van Nguyen
+ 3 - truyện ngắn, Nhã Nam, Trần Vũ
chào bạn,
Ðừng trả giá đóa hoa
Như trả giá cuộc tình
Như trả giá thi sĩ
Ðóng cửa hàn lâm viện tương lai
Vì ngày mai chẳng bao giờ tới
Ném hòn ngói ra khỏi giấc mơ
Ðẩy phiêu du
Thành sự thật
(Trên chuyến tàu chẳng một ai bước xuống, Nguyễn Tiến)
Ngôn ngữ là huyền thoại. Huyền thoại là thơ. Thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Ngôn ngữ mở đường dẫn lối cho tâm tư nhân loại... không có ngôn ngữ, làm thế nào tôi mở trái tim tôi?...
Số này vhnt đăng một truyện ngắn mới nhất của nhà văn Trần Vũ, một hiện tượng văn học của hải ngoại. Truyện của anh đã gây bao sôi nổi trong giới văn nghệ từ 5 năm nay
ở hải ngoại, gần giống như một ấn bản của Nguyễn Huy Thiệp trong nước. "Nhã Nam" là một truyện ngắn thuộc loại siêu thực, như đọc một bức tranh của Salvador Dali. Truyện lồng khung cảnh VN hiện thực và những nhân vật thời sử rất lạ, mời bạn đọc thưởng thức.
VHNT số này cũng mở thêm một mục mới để giải đáp những thắc mắc căn bản về văn học Việt Nam và thế giới. Mục này mở ra với mục đích trao đổi và giúp các bạn đọc trẻ đang tìm hiểu học hỏi về văn chương và văn hóa Việt Nam nói riêng. Cũng xin kêu gọi sự đóng góp của các anh chị am tường về bộ môn giải đáp thắc mắc này. Hiện nay ban
chủ biên rất bận, lại kiêm thêm nhiều chương trình đang tiến hành nên thì giờ rất hẹp. Anh chị nào có khả năng và tài liệu tham khảo có thể giữ dùm mục này, xin hãy liên lạc với tôi. Số này anh Việt phải... thức cả đêm để trả lời thắc mắc cho bạn "Baby Face" :) Cám ơn anh Việt và cô BF đã gửi thắc mắc về vhnt.
Chúc bạn một ngày đầu tuần vui.
thân ái,
PCL/vhnt
Thư Bạn Đọc
Chào các anh chị,
từ khi gia nhập forum vhnt này, BF thấy rất vui khi đọc được những bài thơ tự biên của các anh chị. Mặc dù bận rộn với cuộc sống, anh chị vẫn còn yêu thơ văn và bỏ thời gian ra làm thơ. Không những vậy mấy anh chị còn bỏ công ra đánh máy lên forum cho mọi người cùng thưởng thức. Đó là một điều rất đáng vui.
Nhưng BF thấy mặc dù mang tiếng là vhnt nhưng forum ít có bài viết hay discussion về những bài thơ, quyển chuyện của những nhà văn thơ VN xưa cũng như nay. Có những nhà thơ VN rất nổI tiếng mà BF rất muốn biết mà trong số đó là nhà nữ sĩ Bùi Thị Xuân. Gần đây BF đọc trong một tờ báo chợ có quote một câu thơ của bà "Cọc nhổ đi rồi, lỗ để không". Nếu anh chị nào có biết tên của bài thơ này cùng với nguyên bài thì xin đăng lên cho BF coi. Một câu hỏi nữa cho các anh chị thi sĩ trong forum này là có ai biết nữ sĩ BTX này làm được bao nhiêu bài thơ mà nổi tiếng quá như vậy không? Ở VN ta ngoài bà ra còn có nữ thi sĩ nào ngang hàng với bà? Cám ơn các anh chị.
Hộp Thư Giải Ðáp Thắc Mắc / vhnt
Câu thơ mà BF ghi là của bà Hồ Xuân Hương, một thi sĩ độc đáo trong làng thi ca VN. Bà HXH nổi tiếng với những bài thơ trào phúng, "một lời hai nghĩa" hay "lời thanh nghĩa tục". Được sáng tác trong một xã hội nặng về lễ giáo, những bài thơ cuả bà có thể gọi là cách mạng cuả một nữ sĩ can đảm. Cũng có thể gọi bà là một James Joyce hay một D.H. Lawrence của VN vậy. Bài thơ Đánh Đu là tiêu biểu cho những sáng tác nổi tiếng cuả HXH. Xin nhường phần diễn giảng bài thơ này cho bạn nào muốn :)
Đánh Đu
Tám cộc khen ai khéo khéo trồng,
Người thời lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai co gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới,
Hai hàng chân ngọc ruỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
Hồ Xuân Hương
oOo
Bùi Thị Xuân là một anh thư nữ kiệt trong lịch sử VN. Thiết tưởng chúng ta ai cũng nên biết về sự nghiệp cuả bà bởi vì lịch sử VN cũng như các nước khác không có nhiều những anh hùng nữ giới. Tôi xin trích tiểu sử bà BTX từ Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân từ điển cho các bạn không có dịp đọc qua sự nghiệp bà.
Bùi Thị Xuân
Bà là vợ cuả viên dũng tướng lỗi lạc Trần Quang Diệu, quê làng Bình Phú, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định. Bà rất giỏi về binh bị và chiến thuật, từng giúp Tây Sơn lập được nhiều công lớn. Bà lại có tánh cương quyết và lòng khoan dung đối với kẻ dưới tay.
Khi nhà Tây Sơn đã thế yếu, thành Phú Xuân bị lọt vào tay cuả nhà Nguyễn, bà phò vua Cảnh Thịnh ra Nghệ An, rồi tự đốc xuất 5000 binh sĩ chống giữ luỹ Trấn Ninh. Đến tháng giêng năm Nhâm Tuất, hay tin thủy quân cuả Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ, bà liền rút quân. Lúc bấy giờ thành Qui Nhơn chiếm được cuả Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, do Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đóng giữ, cũng không thể duy trì được nữa. Quang Diệu và Văn Dũng theo đường thượng đạo ra gặp vua Cảnh Thịnh ở Nghệ An. Đi giữa đường thì hay tin Nghệ An đã bị thất thủ, Quang Diệu cùng vợ là Bùi Thị Xuân lui về huyện Thanh Chương. Được mấy hôm thì cả hai đều bị bắt. Quang Diệu thì bị xử tội lột da. Bùi Thị Xuân và con gái bị đem ra cho voi đày chết. Theo vị giáo sĩ La Bissachère được mục kích cuộc hành hình nữ tướng Bùi Thị Xuân, đã tỏ ra thán phục sự can đảm và tinh thần bất khuất cuả một vị anh thư nữ kiệt như bà, bằng những lời lẽ sau đây:
"Bùi Thị Xuân mặt không đổi sắc, tiến đến trước mặt voi như chọc tức nó. Những tên lính thét bảo bà quì xuống, nhưng bà vẫn xằm xằm tiến bước. Voi lùi lại, bọn lính phải cầm dáo thọc vào đùi voi. Bấy giờ voi mới quặp lấy bà tung lên trời..."
Bùi Thị Xuân xứng đáng là con cháu cuả Bà Trưng, Bà Triệu, nêu tấm gương anh dũng cho phụ nữ xoi chung.
Viet Hoang/vhnt
hoàng hôn chút nắng mong manh
nỗi buồn theo gió về quanh chỗ ngồi
người gần hay vẫn xa xôi
tình thì như đã đầy vơi một giòng
**
chim mang tiếng hót vào cây
tôi mang nỗi nhớ trải đầy nên thơ
người xa dù có hững hờ
riêng tôi đã trót mong chờ trong tim
**
chờ nhau trong ánh trăng tàn
chút tình mỏng mảnh như gần như xa
đêm thơm bàng bạc tiếng đàn
phải chăng khúc phượng cầu hoàng cho nhau?
(trích Lục Bát)
Âu
Xin được đăng lại một bài thơ mà tôi đã lưu trữ vì thấy hay. Nếu độc giả của VHNT biết tên tác giả của bài thơ này thì xin cho VHNT biết để ban chấp hành bỏ tên tác giả vào.
Thân
Tình Đầu
Nàng bảo rằng em yêu loài hoa trắng
Tôi ân cần hái nhẹ một cành lan
Vội cài lên trên mái tóc của nàng
Em mỉm cười, thẹn thùng, rồi lặng tiếng
Tôi cảm thấy lòng mình thêm xao xuyến
Chẳng nói gì chỉ bốn măt nhìn nhau
Hồn say sưa dệt mộng buổi ban đầu
Mặt đối mặt đắm chìm vào mộng đẹp
Khuyết Danh
Nhã Nam
Chúng tôi về Nhã Nam, quê của Th. Nhã Nam đất hẹp, nhiều cây sông nước và những rừng người. Th. đón tôi ở sân bay, gương mặt anh tầm thường như mọi người tôi không nhận ra. Th. là nhà văn, từ khi mở nhà hàng mang tên hoa Tây Bắc anh thôi viết. Trước, tôi ngỡ đã đọc hết truyện Th. Anh có lối viết mỗi câu như nhát mác phạt vào gốc chuối phọt mủ. Th. đưa chúng tôi vào hiệu sách. Tôi với chị T. loay hoay lựa. Sách của Th. tái bản toàn tập, có chuyện Mưa Nhã Nam tôi chưa hề đọc. Chị T. đẹp, rực rỡ, cười luôn. Chị về Nhã Nam trăm lần chưa chán. Chúng tôi đi uống nước. Thằng bé gạ đánh giầy. Tôi hỏi Th:
- Ðàn ông học vi tính, đàn bà làm điếm, con nít đánh giầy, bán vé số, tương lai ở đâu?
- Ở niềm tin vào hành động học vi tính, làm điếm, bán vé số.
Th. trả lời, lạnh lùng.
Chúng tôi về nhấ Vườn vải nở ngát uốn lên núi Bái Vọng những bông giấy lung lay giống tấm lụa trắng ai giăng trước mắt. Th. đăm chiêu. Chị T đi tắm. Có ai điện thoạị
Chị T trả lời điện thoại cầm tay qua tiếng nước. Tôi bảo Nhã Nam giống Côn Sơn. Cơm chiều vợ chồng Th dọn lên hai khúc cá chiên sả, canh hến, một đĩa gỏi ngó sen. Vợ Th cũng trầm trầm triệu đàn bà chúng tôi thấy lúc sáng. Th giục cầm đũa. Tôi nói đợi chị T. Vợ Th giắt con xuống bếp. Nhã Nam buổi chiều mưa căng qua rừng vải giống lụa ướt máng dài tới núi. Th bảo Ở đây ít bữa anh dẫn đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Giá trong nước hai mươi ngàn một vé. Giá ngoài về gấp ba.
- Tôi cũng người Nhã Nam sao phân biệt ?
- Nhã Nam có hạ có thượng, có chiếu trên chiếu dưới, có nhân đạo, vô học và ăn cướp.
Th hút thuốc lào. Khói khét đặc buồng. Anh vừa trí thức vừa bần cố nông, bây giờ rắp ranh tư sản nhà hàng, chỉ còn chút hương hoa Tây Bắc làm giấc mơ.
Mưa lớn chị T vẫn chưa ra. Th đi mua đế. Ðế nếp gò Mã Yên, nơi Liễu Thăng bị chém, uống vào như uống tiết tanh, nóng, đắng. Tôi với Th ngồi nhìn mưa Nhã Nam bôi những dấu chân trâu bừa trên đất. Không nơi nào như Nhã Nam ô tô với trâu di chuyển trên cùng đường cái. Thời gian Nhã Nam dài, thư thả, đủ để đếm hết móng trâu và vỏ xe
qua đường.
Chị T tắm xong, vẫn điện thoại, vừa cầm máy, vừa chải tóc. Chị thích những cuộc hẹn vu vơ, bất chợt, không mục đích, không quan trọng nhưng nhiều đam mê. Quen lâu, tôi vần chưa hiểu chị kiếm gì trong cuộc sống. Th nhìn chị T, đôi mắt đục gần như không trông thấy. Chị ở thế giới khác, không còn là đàn bà Nhã Nam. Th hiểu, cũng hiểu hương hoa Tây Bắc ngửi thấy nhưng không bao giờ nhốt được. Không khí nặng. Th giục tôi cạn ly, bầy bán trước hiên. Mùi đất pha dầu tắm ở tóc chị T chen mùi đế gò Mã Yên nồng nồng. Mưa lấp núi Bái Vọng rồi rừng vải, đến sân đất nện. Chúng tôi giống ngồi trước mặt ao. Chị T ném một viên sỏi xuống nước, vỡ những bong bóng xoế Th kéo ghế, tựa cột đà khă"c chi chít đại tự.
- Ngày xưa Nguyễn Ứng Long dạy học ở đâỵ
Th trỏ tấm phản mục kê trong góc.
- Nguyễn Trãi làm thơ chỗ chị ngồi.
Th lại trỏ chị T. Chị cười, vẫn rực rỡ.
- Chỗ tôi và anh ai ngồi ?
Tôi gắp khúc cá, nhằn xương. Th nói Mời chị, và cơm:
- Ở thời điểm nào ? Trước hay sau Hồ Qúy Ly?
- Trước ?
- Cụ Ðán.
- Sau ?
- Bọn mất dạy.
Chị T cười ngất. Tôi với Th không cười.
Trời bức. Mưa nhưng vẫn bức. Th ăn một loáng hết thố cơm. Tôi hết chuyện nói, nhìn vơ mấy chữ sơn son thiếp vàng khắc đầy vách. Th kể Nguyễn Trãi là một thiên tài. Nhà này lúc trước là một gian thuộc Băng Hồ Gia Trang của cụ Trần Nguyên Ðán, sau chia thành nhiều hộ. Từ khi mở nhà hàng đặc sản sinh lợi, Th mua lại, chữa trang cố bảo trì hồn thiêng sông núi. Anh kể Nguyễn Trãi sinh thời làm thơ xuất thần, không bút không giấy, chỉ cần nhìn lên vách: chữ hiện như đóng triện son.
- Một trăm bài thơ quốc âm, Nguyễn Trãi nhìn một trăm lần, đời sau không thể xóa.
- Thơ là trí tuệ, không cần lao động tay chân.
Tôi hưởng ứng. Chị T cười rũ.
Th ngâm; "Ðường cùng Nguyễn tịch khóc làm chi"
- Câu này không còn trên vách.
- Tôi tưởng đời sau không thể xóa?
- Không xóa, Nhưng chủ trước rỡ bán cho Ðài Loan.
Th lầm bầm.
Tối. Ra về. Th hỏi đi đâu ? Tôi nói Uống rượu. Th ch chặc lưỡi:
- Trong rượu. Ngoài về cũng rượu. Chẳng có gì khác.
- Khác gì ?
- Mình là người Nhã Nam.
Tôi chở chị T bằng xe Cub. Ðường rất trơn, xe chao lạc vào rừng vải lóa. Triệu cánh vải vươn như tay thiếu nữ chụp bắt. Tôi tránh xém ngả. Bông trắng rụng nhàu đất. Xe lao xuống chỗ trũng, nước mưa ngập gối bắn hai bên bửng. Chị T níu vai gọi:
- Có thấy mấy cô ven đường
- Ðâu?
- Lúc nãy xuyên rừng vảị
- Ðây là Nhã Nam.
Chị T cười. Tôi khiển xe, hình dung gương mặt chị, tươi lúc cười, bình thường buồn thắm. Chúng tôi hẹn cùng về Nhã Nam. Lúc ở ngoài, tôi hỏi chị về Nhã Nam trăm bận không chán? Chị trả lời Rong chơi đâu cũng vậy, về Nhã Nam vui buồn lẫn lộn. Ra khỏi rừng vải, xe Dreams phóng loạn. Tôi tránh lại xém ngả. Chị T la:
- Cẩn thận!
- Không chết đâu!
"Cuộc đời vẫn đẹp sao", "tình yêu vẫn đẹp sao", tôi hát. Chị T kêu Quỷ! Th đuổi theo sau. Tiếng máy xe Cub 70 của anh rống. Nhưng chúng tôi đã ra tới phố. Phố Thi Sách, Lê Qúy Ðôn, Nguyễn Du, Ngô Quyền, Phạm Ngũ Lãọ Quán Buffalo Blues, Q Bar, Doors Pub, Apocalypse Now, Venus Club...
Xe ghé Guns n' Roses. Bảo vệ giữ xe, đưa thẹ Th thôi đuổi. Th hiểu Nhã Nam có thượng có hạ, có trong' ngoài và có những quán bar năm mươi Nhã Nam một ly. Chúng tôi là Nhã Nam kiều.
Gần sáng có tin Tổng Giám Mục Nhã Nam mất. Ðồn đãi: trước lúc chết ông á khẩu, nhiều giáo dân thương tiếc. Tôi với chị T ra khỏi quán, giáo đường treo cờ rũ. Chúng tôi đi qua phố chết. Cửa hàng đóng kín. Không phải để tang, nhưng vì những giọt sương chưa vỡ trên tàn phượng. Nhà thờ thả lụa tím. Tượng thánh buộc băng đen. Ðường phố lạnh lẽọ Chị T nói ghé nhà Th. Tôi rủ đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Chị T
trách:
- Chỉ thích những trò hung bạo.
Chị không cười. Xe xuyên rừng vải chưa nở, cánh khép, trắng yếu ớt. Nhà Th trồng một chậu mai chiếu thủy, hương rắc tận chân núi Bái Vọng.
Th đợi chúng tôi suốt đêm. Khuôn mặt anh nhầu nát, nhưng đầy kiên nhẫn. Trông thấy chúng tôi, Th đạp máy. Hai xe Cub chạy song song. Chị T mặc jupe, ngồi một bên đong đưa giày trắng. Gió mát, cây cối im, đường đất đỏ tươi. Xe qua chùa Tư Phúc, Th chỉ:
- Khi Thái Tôn đuổi về lãnh chức quan đề cử, Nguyễn Trãi giữ chùa này.
Anh ngâm: "Anh hùng để hận mấy nghìn năm".
- Thơ Nguyễn Trãi?
Chị T hỏi. Th gật đầụ Tôi thắc mắc.
- Sao không thấy khắc trên vách?
- Không cho phép.
Th càu nhàu.
Tiếng xe Cub rù rù. Ðường lên aỉ Chi Lăng khúc khuỷu. Chúng tôi không ngớt trả số. Cảnh sắc thay đổi, mây xám, núi đen, ruộng su hào xanh bật. Mặt ruộng đầy vết xe tải.
- Bọn buôn hàng Trung Quốc mỗi ngày qua đây trăm bận. Th giải thích.
- Có Lê Sát nào chận không?
- Bận xây khách sạn cả rồi.
Anh rú ga phóng lên trước. Qua khỏi đèo đổ dốc, tuột như trôi, tiếng phanh xe hơn tiếng lợn thổ huyết. Chúng tôi trả tiền vào bãi. Hai mươi ngàn vé Nhã Nam. Sáu mươi ngàn vé Nhã Nam kiều.
Nghĩa quân Lam Sơn chật rừng. Giáo mác tủa, cả vùng như cắm chân. Gió lớn. Cờ Quyết Thắng lượn rắn. Lê Thụ vận giáp trụ, người thô, trán ngắn. Lưu Nhân Chú, Lê Linh cởi truồng, mình xâm. Lê Sát múa đại đao xoăn xoắt. Nguyễn Trãi ghìm ngựa trước "Ngõ Thề". Trãi mặc aó vải tơ tằm, xinh như một thiếu nữ. Chiêng gióng sáu hồi, quân Minh từ Quỷ Môn Quan kéo xuống. Lê Sát thúc ngựa kiệu qua vách núi Hàm Quỷ và Cai Kinh, người ngựa gân guốc vượt lũy. Chinh Lự An Viễn Hầu Liễu Thăng hoa chùy đánh. Lê Sát quày ngựa, hồi mã thương, đường đao đẹp như ánh lửa.
Lũ trẻ giành nhau thủ cấp, cả bọn lừa đâ Lê Sát lấy găm rạch lườn Liễu Thăng thích gan bỏ vào bình ngâm sẵn rượu thuốc. Chị T nhắm mắt.
Giấc trưa về, đường khô, nắng gắt, tôi với chị băn khoăn:
- Chết thật hay giả?
- Cái chết nào cũng thật, không cái chết nào giả.
Th trả lời, lầm lì. Chị T vẫn còn sợ, tôi khiển xe, chị ôm lưng, tay lạnh ướt. Hương mai chiếu thủy tiết từ núi Bái Vọng nhờ nhợ không đủ lấp mùi tanh. Vợ Th dọn sẵn cơm. Thịt rắn bằm, tiết rắn pha, da rắn chiên dòn, cháo rắn hạt sen. Chị T không dám đụng đũa.
Chiều có tin nhạc sĩ V.C. chết. Chị T buồn, chúng tôi ra quán. Phố Nguyễn Du đầu đường có hiệu cơm Bà Ðại đắt vì tổng thống Pháp đến ăn chụp hình, cuối đường quán Buffalo chơi nhạc jazz. Chị T nói ở Nhã Nam ngoài ăn uống không biết làm gì. Chúng tôi ngồi nghe nhạc. Năm trước về, tôi ấn tượng trở về quá khứ, năm nay bước vào tương lai. Quá khứ hung bạo và tương lai hung bạo. Chị T nhắc chuyện nhạc sĩ V.C. mất. Hỏi có đi đám ? Tôi lắc đầu. Mỗi thế hệ có một cái chết riêng. Chiều xuống nắng nở trên da những đứa bé đánh giàỵ " Da nước mưa" như Duras tả trong Người Tình. Chúng tôi kêu phục vụ để nhạc S. Ca sĩ H.N. gọi nắng. Tôi với chị T nghe bản nhạc nhiều lần. Ở Nhã Nam, sống giữa nắng, xúc cảm hết lời nhạc. H.N. gọi nắng da diết. Nắng chết trên sông, trên mặt lộ. Chữ chết bất tận.
Chị T về nhà N.S. Tôi bỏ chị ở đường 3 tháng 2.
Nhà Th khuya khoắt. Sương đêm phủ tím vải rừng. Ngôi nhà cụ Ðán tịch mịch. Chậu mai chiếu thủy lạnh biếc. Th biến mất. Ngõ tối. Ðèn chai thắp yếu ớt. Tấm phên rã rời mở ra vườn sau đối núi Bái Vọng. Tôi gọi Th. Tiếng la gào vào núi. Bóng thiếu nữ lướt qua sân. Áo lụa tan như trăng.
Tôi yêu Trãi trăng đêm mười bốn. Mười bốn trăng vừa, tắm sáng mặt khuya. Lưng Trãi thon, thơ hiện như về. Ðêm rừng vải gót nhạc cười nụ soan. Tôi níu gọi:
- Ðề thơ nữa đi.
- Thơ Góc Thành Nam.
Trãi cười, buồn.
Góc thành nam, lều một gian
No nước uống, thiếu cơm ăn
Trăng tắt. Ðêm rụng. Bài thơ chưa hết lời.
Lúc tôi trở ra phố, nắng ướt vai chị T. Lịch treo tường đề mười hai, nhạc sĩ V.C. chết mùng mười, tôi ở trong rừng vải suốt hai hôm. Hai hôm không gặp, chị T đi Ðà Nẵng, tắm biển Non Nước, da ngăm, tươi muối. Hai hôm trong rừng vải tôi không biết tin: Ðế quốc bang giao với Nhã Nam. Chị T dẫn tôi đi xem suối bia, khắp Nhã Nam ăn mừng.
Trưa, chúng tôi mướn xe Cá Mập đi Nghệ An. Xe tốc hành, chạy suốt, thuê bao trọn góị Th cầm láị Dọc đường hướng dẫn:
Năm Ất Tỵ Lê Lợi vây thành Nghệ, truy bắt Lý An, Phương Chính. Nghĩa đồn trại dọc sông Lam. Ðêm trong đền thờ thần Phổ Hộ làng Trào Khẩu, vương nằm mộng dữ, người lạnh, lưỡi khô, trong thấy sóng gào, gió giật, cờ gãy, thuyền đắm. Sáng tỉnh giấc, vã mồ hôi, tê chân, tái sắc. Nguyễn Trãi tâu:
- Ðiềm hà bá bắt vợ. Nhưng vương từ Lam Sơn dấy nghĩa, lấy chí nhân thay cường đạo, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, không nên mê tín.
Vương ám ảnh ác mộng, lo bản mệnh, băn khoăn:
- Xưa vua Lý nhờ vợ chồng Vũ Phục nhảy xuống sông Thiên Phù hiến xác thủy thần mà khỏi bệnh đau mắt, có gọi là mê tín?
Nguyễn Trãi câm. Trướng màn tanh.
Xe vô bãi. Du khách chật sông. Tôi với chị T mua vé thượng hạng sát đài. Vương đứng trên đài cao, lưng ba trượng, mắt qủa quyết. Nguyễn Trãi ôm tráp hầu, Trần Nguyên Hãn che lọng. Lê Lễ, Lê Ngân cầm côn bảo vệ. Nghĩa quân tiến qua đài, cờ huyết lộng. Chiêng trống rùng rùng. Gió Bắc đẩy mây, phèng khua. Vương trỏ sông Lam quát:
- Nay ta vì nghiệp bá hiến thiếp. Thề phá thành Ðông Quan phong con trai Phạm Thị Ngọc Trần làm thái tử.
Pháo nổ Lê Sát chém ngựa hứng máụ Lính lôi Ngọc Trần khỏi trướng. Ngọc Trần trẻ son, mắt liễu, môi dâu, ẵm Nguyên Long lên ba, khóc thảm. Lê Sát quật hèo, lính khóa cũi. Nguyên Long gào mẹ. Cũi dìm xuống sông Lam, Ngọc Trần dẫy, sóng tung toé. Một mớ tóc bùng nhùng nổi lên mặt nước. Gương mặt chị T tái nhợt.
Ðường về tôi với chị trăn trở, không yên. Trước lúc ngừng xe, Th hỏi: Còn nhiều trò nữa xem không? Chị T đáp: Ðủ rồi. Tôi tránh nhìn Th, hình ảnh mớ tóc bùng nhùng trôi mãi trên nước.
Ngày 13, tháng Thân, năm Hợi, tôi trở lại cụ Ðán. Cơn giận cứng mười ngón tay. Tôi chở chị T bị xe buôn củi đụng, bọn ba gác tháo chạy, chị ngã vỡ đầu, xuất huyết não, chở vào Trung Tâm Cấp Cứu Quận Nhất không ai khám, sang bệnh viện Nguyễn Tri Phương chị mê man cấm khẩu, y sĩ trực mắng bệnh nhân không hợp tác. Tôi gây, thuê xe cấp cứu sang Chợ Rẫỵ Bệnh viện lớn nhất Nhã Nam bẩn, nghèo nàn, nằm ngồi la liệt. Nh bạn chị T được tin đến viện, đưa tiền bồi dưỡng. Bác sĩ khám nói máu tụ não bắt mổ. Chị T mê man. Gia đình Nh đi mua máu, nước biển, kim chích, thuốc trụ sinh. Tôi tìm Th.
- Tất cả chỉ là tưởng tượng.
Tôi quát. Th đang ngồi đọc sách, mắt đỏ rực.
- Không ai hư cấu được sự thật.
Anh gằn, nhưng chỉ đứng yên nhìn tôi phá bàn thờ cụ Ðán. Vườn vải nát, núi thấp, mây cụt. Tôi trở lại bệnh viện, chị T vẫn hôn mê, thở ô xy, vết mổ bầm máu, giường rỉ sét. Tôi đợi ngoài hành lang, thân nhân trực bệnh ngủ cầu thang lê lết xuống sân. Các bà mẹ Nhã Nam khóc thút thít. Nhà thương giống trại hủi.
Tôi rời Nhã Nam cuối tháng Thân. Chị T vẫn nằm viện, tay phải và chân phải chưa cử động. Th tiễn, gương mặt anh tầm thường giống triệu người nhưng tôi vẫn nhận ra. Máy bay lên cao. Tôi đọc lại truyện Th. Mưa Nhã Nam tả Ðề Thám quất ngựa dưới mưa nhiệt đới, khóc nức nở đời người. Ðề Thám khóc vì bán một người đàn bà cho định mệnh khắc nghiệt. Th mở đầu câu chuyện khinh bỉ tất cả:
- Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng đi, cậu còn quá trẻ, cậu là thằng ngốc.
- Tôi sẽ chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả.
Anh kết bằng một câu vô cảm: Tôi kể chuyện này đến đây là hết.
Tôi gấp sách. Máy bay bình phi, ba mươi ngàn bộ. Trên cao, mưa Nhã Nam trong, đẹp như hột ngọc.
Trần Vũ
5.8.1995