vhnt, số 88
17 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - thơ, Hương Thu, Cỏ Nhớ/Lộc Quy Nguyen
+ 2 - thơ (song ngữ) , Có Lẽ Là Em, Lieu Nga Doan/Viet Hoang
+ 3 - truyện dịch, Chuyến Bay Hải Âu, PCL
+ 4 - tùy bút, Nỗi Lòng Dịch Sĩ, Anson Binh
+ 5 - tùy bút, Thương nhớ 12: tháng mười gió bấc phùn (part 1), Vũ Bằng/PCL
chào bạn,
My darling,
be a wife, be a friend, write good letters,
do not mope, do not torment me
Anton Chekov, 1860-1904, văn hào Nga
Em yêu, hãy là vợ anh, hãy là bạn anh, hãy viết những bức thư tình thật hay, đừng buồn rầu sầu muộn, và đừng làm khổ anh ..." Anton Chekov viết những lời này cho người vợ mà ông rất yêu quí, một người vợ và một người bạn của ông, thật là hạnh phúc cho một nhà văn. Có mấy ai may mắn có bạn làm vợ hay chồng, hay có vợ hoặc chồng là một người bạn?
Lại hãy nghe Oscar Wilde (1854-1900) nói về tình bạn:
Friendship is far more tragic than love. It lasts longer.
vhnt mấy hôm nay vắng bài, tôi lại ốm nên vắng một ngày không gửi đến bạn, xin lỗi bạn đọc. Xin bạn tiếp hơi cho vhnt, để chúng ta cùng thưởng thức thơ văn của nhau, cùng chia sẻ những phút thoải mái sau giờ làm việc.
Anh Việt vừa làm một thống kê nho nhỏ về tình hình vhnt, xin chia sẻ với bạn cho vui. Anh cũng than là sao không có ai gửi feedback hay comment gì về vhnt homepage mà hai anh Viet và Diem bỏ công thực hiện cả mấy tháng nay.
- tổng số members: 143
- từ các công ty (com): 60
- từ các -dại học: 36
- các nước ngoài Mỹ: 26
- linh tinh (org,net,mil,gov): 18
- công chức (gov,mil,us): 10
- từ Gia Na -Dại: 13
- từ Úc: 5
- các nước khác: 8 (Đức, Nhật, Tân Tây Lan, Phần Lan, Tân Gia Ba, Ý, Áo, Thụy Điển)
Không biết có bao nhiêu hội viên nam/nữ?
Anh Stephen Jones, SaoMai system administrator, cũng cho một thống kê nhỏ về số người/lần dùng anonymous ftp vào vhnt archives như sau:
Since August 16th, here's the approximate access stats: /pub/vhnt - 1969 times
Thật là một con số ngoài dự liệu. Không biết có bao nhiêu người download vhnt lưu trữ mà không phải là hội viên?
Chúc bạn một ngày vui, và nhớ gửi bài về cho vhnt.
thân ái,
PCL/vhnt
Hương Thu
Hôm qua đi nhặt lá vàng
chiều phong sương nhuốm bàng hoàng hương thu
chừng như ký ức mù mù
chừng như se sắt nỗi buồn mang mang
ngậm ngùi hoa nở tình tang
nghẹn ngào hoa vỡ tình tang tính tình
hiểu đời duyên nợ ba sinh
dỗi đời tôi khóc bóng hình hư hao
đường chiều qua phố xanh xao
lỡ tay đánh mất thu vào thiên thu.
Cỏ Nhớ
It Might Be You
Time, I've been passing time watching trains go by,
All of my life.
Lying on the sand watching sea birds fly,
Wishing there would be someone waiting home for me.
Something's telling me it might be you.
It's telling me it might be you
All of my life
Looking back as lovers go walking past
All of my life
Wondering how they met and will make it last
If I found the place, would I recognize the face?
Something's telling me it might be you
So many quiet words to tell, so many dreams to wake
And we saw much love to make.
I think we're gonna need some time
Maybe all we need is time
And it's telling me it might be you
All of my life
I've been saving love songs of lullabies
And there's so much more, no one ever heard before.
Something's telling me it might be you
Yeah it's telling me it must be you
And I'm feeling it will just be you
All of my life
It's you, it's you. I've been waiting for all of my life.
Maybe it's you, it's you
I've been waiting for all of my life.
Có Lẽ Là Em
Thời gian ơi đã qua bao lâu rồi?
Lặng lờ nhìn các chuyến tàu qua
Mải miết suốt cuộc đời!
Này bãi cát ta nằm nhìn cánh chim nổi trôi
Ước ao sao có ai đợi ta ở nhà
Phải rồi, em đợi tôi
Em đợi chờ tôi suốt cuộc đời!
Nhìn lại tôi, bao người yêu qua đi trong đời!
Tại sao lại đến với nhau
Còn gì chăng mai sau?
Nơi nào hò hẹn
Còn nhận được mặt nhau sao!
Phải chăng là em?
Mà đúng em rồi!
Chưa nói mà biết bao lời đã trao
Cơn mơ nào vỗ giấc chiêm bao
Tình yêu nào đến quá xôn xao!
Anh biết rồi chúng mình sẽ cần nhau
Hãy đợi thời gian đi em!
Thời gian đang tình tự với anh
Và cuộc đời anh
Anh đang chắt chiu những bản tình ca ru em
Vô vàn bản tình ca chưa bao giờ xuất hiện
Có em trong đó
Vâng, có em như anh cảm nhận
Đã hiện hữu trong đời anh tất cả
Là em, vâng chính là em
Anh mòn mỏi đợi chờ suốt cả cuộc đời
Và em, vĩnh viễn là em
Chính là sự sống của anh
cho Roberta, Canada
Liễu Nga Đoan
Đường Bay Hải Âu
Buổi sáng, mặt trời chói lòa đổ những dải vàng lấp lánh trên những gợn sóng, trên một mặt biển êm dịu.
Cách bờ khoảng một dặm, một chiếc tầu đánh cá đứng yên bình thản trên mặt nước, và bất chợt ý tưởng "Bầy-đói-ăn-sáng" vụt xuất hiện khi cả một đàn hàng ngàn hải âu tinh quái ríu rít bu đến tranh giành những mẩu thức ăn trên tầu. Một ngày của bon chen và bận rộn lại bắt đầu.
Ở ngoài xa cách biệt hẳn con tầu và bãi biển, hải âu Jonathan Livingston đang bận rộn tập luyện một đường bay trong bầu không gian mở rộng. Lơ lửng trên mặt nước cả hơn trăm bộ, Jonathan xoè thấp chân, ngửa mỏ cao và cố gắng lượn một vòng bay thật khó khăn khổ sở. Vòng lượn với vận tốc thật chậm là kết quả của bao công trình tập luyện, đường bay chậm như thể mặt biển phía dưới đứng yên tại chỗ và gió thổi những lời rì rào bên tai. Nó khép mắt tập trung tinh thần, nín thở, và cố hết sức đẩy vòng lượn... thêm...một... phân... nữa, lông cánh nó tơi tả, hơi sức bỗng khựng lại, và nó rơi vụt xuống.
Hải âu không bao giờ bay chập chừng và rơi vụt xuống như thế. Rơi xuống từ trên cao trong một đà bay là cả một sự nhục nhã và xấu hổ cho giống hải âu.
Nhưng hải âu Jonathan không cảm thấy xấu hổ, nó giang rộng đôi cánh liệng lại đường bay khổ sở ấy - thật chậm, thật chậm - và lại rơi xuống một lần nữạ Nó không phải một con chim tầm thường.
Mọi giống chim biển không cần thiết phải học những đường bay phức tạp, mà chỉ cần biết một cách bay đơn giản và thực tế nhất - bay đi kiếm ăn và về đậu lại trên bãi. Đối với hải âu, bay không phải là điều hệ trọng cần thiết, điều hệ trọng cần thiết là việc đi kiếm thức ăn. Nhưng ngược lại với con hải âu này, việc kiếm mồi không là quan trọng, việc quan trọng đối với nó là những cuộc bay. Hải âu Jonathan Livingston say mê bay hơn bất cứ một điều gì khác.
Vì suy nghĩ không bình thường này mà cả bầy không ưa thích nó lắm, ngay cả cha mẹ nó cũng lo lắng khi thấy nó cả ngày ở xa ngoài khơi bay lượn một mình, với những kiểu
bay là đà thật thấp trên mặt nước.
Ngay cả chính nó cũng không hiểu tại sao, khi bay cách mặt nước chỉ bằng nửa đường cánh xoải, lại có thể dễ dàng không tốn hơi sức và có thể ở lâu trên không gian như thế được. Nó bay nghiêng rồi liệng đáp xuống mặt nước thật dễ dàng không hề làm mặt nước bắn tung toé bởi chân màng vịt, nó nhẹ nhàng đặt mình xuống nước một cách thật gọn gàng.
Lúc nghiêng người đáp xuống bãi, Jonathan bước chậm rãi về phía bầy, trông bộ cha mẹ nó có vẻ lo lắng lắm. "Jonathan, sao vậy hở con? Sao con không giống những chim khác trong bầy ?" Mẹ nó hỏi. "Sao con không mặc kệ lũ bồ nông hay diều hâu bay kiểu là đà sát trên nặt nước như thế. Sao con không ăn gì cả vậy, trông con chỉ còn lông và xương."
"Còn lông và xương cũng không sao mẹ ạ. Con chỉ muốn tìm hiểu khám phá những gì có thể làm được hoặc không làm được trong không gian. Con chỉ muốn biết vậy thôi."
"Nghe đây, Jonathan," Cha nó nói một cách gắt gỏng bực bội: "Mùa đông sắp đến rồi và thuyền bè cũng chẳng còn bao nhiêu, cá trên mặt nước sẽ lặn sâu xuống dưới đáy. Nếu có học thì nên học về thực phẩm và cách thức kiếm ăn, học bay thì cũng tốt thôi nhưng bụng đói cũng không thể nào bay được, hiểu không? Đừng quên lý do chim bay chỉ là để đi kiếm mồi ăn."
Jonathan gật đầu nghe lời. Những hôm sau, nó cũng nhập vào sinh hoạt như những con hải âu khác, cũng kêu rít tranh giành với bầy ngoài bến hay trên những tầu đánh cá, lặn hụp dưới mặt nước để nhặt nhạnh từng mẩu cá nát hay một vụn bánh mì. Nhưng nó cảm thấy thất bại chẳng làm nên trò trống gì.
Thật chả có một chủ đích nào, nó nghĩ trong đầu, rồi buông nhả một mảnh cá vụn mà một con hải âu già đang rượt đuổi phía sau. Mình có thể dùng thì giờ này để tập bay trên trời, có quá nhiều cái để mà học hỏi.
Và không lâu sau đó hải âu Jonathan lại một mình ở tận ngoài xa bay lượn trên không trung, bụng đói meo nhưng lòng thật vui thỏa thích.
Tốc độ là mục tiêu cho việc luyện bay này. Chỉ trong vòng một tuần lễ hải âu Jonathan đã khám phá về vận tốc bay hơn bất kỳ một con hải âu nào khác.
Từ trên cao khoảng một ngàn bộ, nó vẫy đôi cánh thật mạnh với cả sức lực, cố gắng làm một đường liệng thẳng xuống mặt nước với vận tốc thật nhanh, và hiểu tại sao hải âu không bao giờ dám liệng những đường bay như thế. Chỉ trong vòng có sáu giây nó đã tăng tốc độ lên đến bảy mươi dặm một giờ, vận tốc quá nhanh khiến đôi cánh nó chuyển động liên tục như một chiếc cánh quạt không ngừng.
Cũng đôi lần nó mất thăng bằng không chủ động được trong những đường bay vận tốc quá nhanh, mặc dù đã cẩn thận phòng ng Nó ngã vục xuống nước .
(còn tiếp)
Phạm Chi Lan
dịch từ Jonathan Livingston Seagull của Richard Bach
Nỗi Lòng Dịch Sĩ
Khi tôi còn học ở trường Petrus Ký, vị thầy Pháp văn khả kính thường khuyên: "Dịch là phản. Khi dịch thì không phải chỉ dịch chữ, mà phải dịch ý, dịch nghĩa. Người biết dịch
là người có đầu óc sáng tạo...". Lời khuyên ấy vẫn cứ lởn vởn trong đầu óc của tôi cho đến bây giờ. Nhất là mỗi khi phải làm dịch thuật, mà mình lại không có học qua một khóa chuyên môn nào cả.
Vốn liếng Anh văn của tôi là những góp nhặt theo năm tháng. Ngày xưa khi còn ở VN có theo học vài khóa bổ túc Anh ngữ. Ðến khi sang Thái Lan làm Cao học, được họ cho học một khóa cấp tốc ba tháng (người Anh có một từ rất hay, gọi là "crash course"), sáng học tiếng Anh, trưa đi học chuyên môn, nghe thầy giảng bài bằng tiếng Anh, nghe chữ được, chữ không, chiều về nhà gạo bài, tối lại tìm đường đi chơi. Tiếng Anh học được, chỉ đủ dùng trong lĩnh vực chuyên ngành, còn các từ ngữ thông dụng khác thì lại kém, cũng vì cái tật ham vui. Ði chơi với bạn bè Thái Lan thì thấy mình cần học thêm tiếng Thái để tán dóc ngoài phố, hơn là tiếng Anh!
Khi sang Úc tôi mới thấy mình cần phải trau dồi thêm Anh ngữ. Nhưng bấy giờ lại phải chuyên tâm làm luận án Tiến sĩ, nên không có cơ hội và thì giờ để tham gia các khóa học chính thức về ngôn ngữ của đất nước nầy.
Vì vậy tôi thường nói đùa với bạn bè rằng tôi chỉ là một Dịch Sĩ, nghĩa là một người dịch thuật không chuyên môn nhưng với tinh thần sáng tạo của một nghệ sĩ! Người ta có bằng cấp chuyên môn nên được gọi là Dịch Gia (chuyên gia phiên dịch), Dịch Viên (thông dịch viên), còn mình tự xưng là Dịch Sĩ, để tự an ủi.
Tôi còn nhớ vào khoảng cuối năm 1977 có một nhóm anh em VN sang tạm trú ở một trung tâm di dân tại Perth, và ban quản lý có nhờ tôi đến giúp thông dịch y tế. Tôi giới thiệu mấy bà y tá với các anh em: "Ðây là các Dì Phước... đến giúp đỡ mình.". Mọi người trố mắt nhìn tôi mà tôi không hiểu tại sao. Bởi vì lúc đó, chữ "Sister" đối với tôi là đồng nghĩa với chữ "Soeur" của Pháp, mà từ nhỏ tôi đã biết rằng Bà Xơ là Dì Phước Công Giáo. Sau đó mới vỡ lẽ ra chữ "Sister" ở đây cũng dùng để gọi các bà y tá!
Sau nầy vì hâm mộ đạo Phật nên tôi có thử dịch một vài đoạn kinh sách. Dịch thuật chuyện thông thường đã khó, dịch thuật trong Phật Giáo lại khó gấp bội. Văn chương,
kinh điển Phật Giáo dùng rất nhiều chữ Hán và chữ Phạn. Nhưng nhờ đó, tôi biết thêm được nhiều chữ nghĩa hơn. Chẳng hạn chữ "Phật" thật ra là chữ gọi tắt của "Phật Ðà", phiên âm từ chữ Buddha, mà người bình dân VN có nơi gọi là "ông Bụt" ("hiền như bụt ..."). Người Thái gọi là "Phút" hay "Phút-thá". Người Hoa, và trong văn cổ VN, có một từ chính xác hơn, đó là "Giác Giả", người đã giác ngộ (The Enlightened). Cũng như cụm từ "hằng hà sa số" - để chỉ một số lượng rất nhiều, không đếm nổi - có nghĩa nguyên thủy là nhiều như số hạt cát của sông Hằng (Gange River) bên Ấn độ.
Khi tiếp xúc với các em VN mới sang đoàn tụ gia đình, tôi lại biết thêm nhiều từ mới, đang thông dụng trong nước. Chẳng hạn như "hết ý" và "nhiệt tình". Thoạt đầu nghe có vẻ lạ tai, nghĩ rằng đó là những chữ dùng để chê bai. Ngày xưa mình thường nói: "Thằng đó hết xài, hết ý kiến!" có nghĩa là chê, ngờ đâu "hết ý" bây giờ lại là khen ngợi, cho rằng "không còn đủ ý để ca tụng", tiếng Anh có thể tạm dịch là "beyond description" - một quyển tự điển xuất bản ở Hà Nội dịch là "super- excellent" ! Có lẽ chữ tương đương người Nam thường dùng là "hết xẩy". Còn "nhiệt tình" làm tôi lo ngại hơn cả, vì không hiểu nó có liên quan gì đến "tính tình cuồng nhiệt" hay không? Về sau mới biết "nhiệt tình" là "tận tình, tận tâm" (sympathetic, enthusiastic, very helpful).
Khi tôi cùng với một đoàn chuyên gia Úc đi công tác ở VN, các bạn Úc rất thích ăn trái sa-bô-chê - người Bắc gọi là trái hồng xiêm. Họ hỏi tôi trái nầy tiếng Anh gọi là gì. Lúc đó tôi bí, bèn dùng tinh thần "dịch sĩ" mà trả lời: "Người Việt chúng tôi gọi là sa-bô-chê, phiên âm từ tiếng Pháp. Riêng tôi có tật nói ngọng, nên gọi là sao-cô-chê, có nghĩa là why-do-you-refuse". Cả đoàn cười ngất và từ đó, trái "whydoyourefuse" trở thành món ăn tráng miệng hằng ngày của chúng tôi. Khi trở về Perth, tra tự điển mới biết đó là "sapodilla".
Lúc ấy cũng là mùa vú sữa (star apple) và người Úc cũng thích ăn trái nầy lắm. Tôi nổi máu dịch sĩ mà dịch đại ra cho họ. Nhưng không dám viết ra ở đây vì sợ mấy bà, mấy cô mắng cho là đồ... dịch vật!
Ở trong xã hội nào cũng vậy, đôi khi cũng có những từ ngữ "thời thượng" mà mọi người thích dùng trong một giai đoạn nào đó. Gần đây người Úc thích dùng từ "agenda". Ðầu tiên nó có nghĩa là nghị trình, chương trình đặt ra cho các buổi họp. Bây giờ ai ai cũng dùng nó cho nhiều trường hợp theo nghĩa: ý đồ, ý định, thâm ý, hàm ý, dụng ý, v.v...
Ở VN có từ "xử lý". Ngày xưa ở miền Nam chỉ có chữ "xử lý thường vụ" (acting position). Nhưng ngày nay, "xử lý" được dùng trong nhiều trường hợp: xử trí, đối phó, giải quyết, đề nghị, suy nghĩ, phân giải, biến chế, v.v... Tùy trường hợp mà mình phải dịch khác nhau (to deal with, to face, to solve, to think, to analyse, to treat, to process, ...). Tuy nhiên trong thuật ngữ khoa học, từ "xử lý" thường chỉ được dùng trong nghĩa tương đương với "to process, to treat" (microprocessor: bộ vi xử lý, wastewater treatment: xử lý nước thải).
Khi tôi mới bắt đầu tìm hiểu về các hoạt động khoa học kỹ thuật ở VN, tôi rất bỡ ngỡ khi nghe các thuật ngũ như "lỗ đen, lôgic mờ, phần mềm, phần cứng, ...". Thế nhưng, khi tiếp xúc và nghe các em học sinh, các chuyên gia, giáo sư đại học trong Nam ngoài Bắc đều dùng những từ nầy thì mình không còn thấy lạ tai nữa. Bởi vì đây là những từ chuyên môn, đặt ra để chỉ định một đối tượng chuyên môn, và được nhiều người trong cùng một lĩnh vực chuyên môn đó thông hiểu và sử dụng, mình không nên áp đặt thêm
một từ khác. Ngày xưa cụ Hoàng Xuân Hãn có đề nghị một số danh từ khoa học, nhưng qua một thời gian áp dụng, có từ vẫn được dùng, nhưng cũng có từ đã được thay thế bằng những từ phổ thông được nhiều người sử dụng hơn.
Ðến đây tôi xin tạm kết thúc bài phiếm luận ngắn nầy bằng một câu chuyện về chữ "đồ". Trong một cuộc tửu đàm - vâng, bây giờ chỉ có uống rượu nói chuyện, chứ không còn mạn đàm, trà đàm nữa - một anh bạn có đố tôi về chữ "đồ". Tôi trả lời "đồ" là sự vật (đồ dùng, đồ vật), là vẽ (họa đồ, bản đồ), là sao chép (đồ đi đồ lại), là viết (thầy đồ). Tuy nhiên, anh ấy cho biết còn một chữ "đồ" nữa trong các bài thơ của Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương... và trong bài thơ dân gian sau đây, nói về bãi biển du lịch Ðồ Sơn ở ngoài Bắc:
Không đi, không biết Ðồ Sơn
Ði rồi mới biết không hơn đồ nhà.
Ðồ nhà tuy cũ, tuy già,
Nhưng là đồ thật, không là đồ sơn!
Thôi thì tôi xin nhường các bạn Dịch Sĩ thử ra tay dịch bài thơ nầy. Tuy nhiên phải cho khéo, nếu không sẽ lại bị mấy bà, mấy cô mắng cho là "Mấy thằng mắc dịch ...!".
Bình Anson
Perth, Western Australia
October 1995
TB: Bạn đọc nào có thích trau dồi thêm về đối dịch thuật ngữ Anh-Việt, xin mời tham gia diễn đàn Vacets-Dict. Chúng tôi hiện có hơn 100 thành viên gốc Việt đang sinh sống trên 15 quốc gia tham gia đóng góp rất sôi nỗi, vui vẻ, hài hòà và tương kính. Xin gửi thư điện tử đến tôi để biết thêm chi tiết.
THÁNG MƯỜI GIÓ BẤC MƯA PHÙN
(phần I)
Không khóc như người tỳ bà nữ bến Tầm Dương? Mà chỉ rót rượu uống một mình rồi nằm khoèo trên chiếu lạnh, mộng về Hà Nội, đi với vợ trên con đường hò hẹn thơm thơm mùa hoa sấu?
Không. Nói như thế là dối mình, dối người. Tỉnh mộng rồi, người chồng ấy nằm khóc một mình.
Khóc thì yếu thật, nhưng anh ta khóc, khóc âm thầm-rồi khóc nức nở, khóc thảm thiết như chưa khóc thế bao giờ.
Là vì chính ngày tàn thu ấy, anh ta vừa được một người bạn viễn phương tìm đến báo cho biết rằng người vợ mà anh ta khắc khoải nhớ thương qua ngày ấy sang tháng khác đã lìa trần và lúc gần mất chỉ nhắc nhở đến anh vì băn khoăn không biết ở miền Nam no đói ra thế nào và sống chết ra sao. Nhớ đến những lời bạn thuật lại cho nghe, người chồng buồn đứt ruột: bao nhiêu kỷ niệm đã có khi lắng xuống bây giờ lại như nước bị khuấy lên.
Trong bóng đêm lạnh, có tiếng mưa rơi trên giàn hoa thiên lý, anh khóc vợ, khóc chính mình, khóc không cho ai biết.
Và bao nhiêu những việc đã qua dần dần hiện ra mờ mờ nhân ảnh trước đôi mắt lệ nhòa: cái đêm hẹn ước đầu tiên,gặp mưa rào trên con đường vắng tanh vắng ngắt đi vào Bách Thú; những lời trách móc phản đối của gia đình; bao nhiêu là hy sinh của người đàn bà quyết tâm theo một người chồng mang tiếng là hư hỏng bị cả họ hàng khinh khi; nhừng ngày đầu chung sống thắp một ngọn đèn dầu ở trong màn viết một bài
truyện lấy năm đồng bạc; những lời ong tiếng ve của ruột thịt bạn bè khi thấy vợ đem bán hết cả tư trang, rồi tiếp đó là nhừng ngày thắt lưng buộc bụng, một nắng hai sương, xây dựng cơ đồ để mong mở mày mở mặt với người; những ngày tao loạn vợ chồng con cái lang thang đi sát vào nhau trên sông Máng để cho gió khỏi thổi bay đi; nhừng ngày hồi cư thức khuya dậy sớm, vợ chồng heo hút có nhau, chồng có khi cáu bẳn, chơi bời hư hỏng, nhưng vợ thì cứ chịu đựng, cứ thui thủi ở nhà dạy con và lo lắng miếng ăn giấc ngủ cho chồng từng ly từng tí.
Thôi, thế là hết. Bây giờ thì còn ước mơ gì nữa, bây giờ thì còn chờ đợi gì nữa, bây giờ thì còn cầu xin gì nữa? Vợ chồng lấy nhau từ lúc hàn vi, đến lúc chết tưởng là được vuốt mắt cho nhau, ai ngờ đâu lại vô duyên đến thế! Ðã buồn như vậy, lại còn rầu vì nỗi cùng lúc hay tin vợ mất thì lại được biết là con nhớ bố mấy năm nay thăm dò mà không làm sao nhờ được én nhạn trao tin, cháu nhớ ông chỉ cầu nguyện nhận được một chữ của ông gửi về để cho nguôi ngoai thương nhớ nhưng chiến tranh tàn ác đã cắt hết cả đường dây liên lạc. Thương nhớ não lòng não ruột, nhưng biết làm sao hở Khoái, hở Lăng? Mà cháu Khanh, có phải ở Trung Quốc trở về, cháu đã có gia đình rồi phải không?
Nhớ lúc ra đi, dứa cháu ấy mới có bảy tám tuổi, theo bà ra bến nước tiễn đưa ông, nào đã biết chi là buồn. Mười tám, mười chín năm rồị.. Bây giờ, ở miền Nam, người ly hương nhớ đến vợ, nhớ đến con, đến cháu làm thế nào mà quên được những buổi tối tah'ng mười ở Bắc có gió bấc thổi lành lạnh, có mưa rơi rầu rầu, ai đi đâu, ai làm gì cũng cố phiên phiến để về cho sớm quây quần với nhau chung quanh cái bàn ăn, dưới một ngọn đèn hồng ấm áp?
Lúc ấy, trời bắt đầu rét, gió bấc bắt đầu thổi, người ta chưa quen với khí hậu nên cứ chiều đến, lúc lên đèn ăn cơm thì gia đình sum họp đầy đủ, người lớn trẻ con, mỗi người có vài ba câu chuyện mói vời nhau, hưởng cái thú vui ích kỷ là sống đầm ấm trong khi ở bên ngoài có những nngười hối hả bước mau dưới trời mưa để về nhấ Khói từ nồi cơm và các thức ăn tỏa ra trong gian phòng nhỏ ở cầu thang đi xuống làm cho lòng người ấm thêm lên và cơm ăn cũng ngon hơn lên một chút.
Ðây là mùa gạo ba giăng, cơm thổi lên ăn quên chết. Là vì riêng cái gạo nhựa mới ăn vào đã dẻo quá rồi, thơm quá rồi, người vợ lại cẩn thận chuyên đong của người quen thành ra không pha phách gì hết, ăn mới thực hoàn toàn thích khẩu.
"Cũng thì là một thứ thóc, cho vào cối xay, nhưng mỗi người hàng xáo sàng trấu cho tách rời khỏi gạo, khéo vụng khác nhau. Phải làm sao cho gạo không lẫn trấụ Mà thế cũng chưa đủ: gạo sàng rồi phải giã trắng thì ăn mới ngon miệng chớ có trấu lẫn vào, hư cả chén cơm đi".
"Vẽ chuyện! Gạo giã ngon, thì có lẫn một vài hạt trấu vào vẫn cứ ngon như thường".
"Không được. Ăn một chén cơm ngon lúc hết mà có một vài hạt trấu lẫn vào, coi như bỏ. Vì thế những người hàng xáo thông thạo, lúc sàng gạo rất cẩn thận mà đến lúc giã gạo cũng không cẩu thả: họ đếm từng chầy, và đôi khi hồ gạo bằng một vài cái mạ non. Xong rồi, phải giần cho thật kỹ để cám và tấm tách rời riêng khỏi gạo".
"Trấu dùng để đun bếp hay trải chuồng lợn, cám thì cho lợn ăn, còn tấm sở dĩ để riêng ra là vì ăn hơi sạn sạn. Cái nghề hàng xáo cũng như nghề con gáo may áo cưới cho người ta, anh ạ. Gạo ngon thì đem bán hay để dành cho chồng cho con, còn chính các bà cô hàng xáo thì ăn cơm tấm".
"Tại cơm tấm ăn ngon và lạ miệng".
"Không phải. Nhưng bởi vì cơm tấm no lâu, đi chợ xa đỡ phải ăn quấ Mà bỏ đi cho lợn ăn thì phí".
Ðói no một vợ một chồng,
Một niêu cơm tấm dầu lòng ăn chơi.
Cách đây ba chục năm,ở miền Nam có sáu xu vào tiệm ăn, phổ ky đưa một đĩa xì dầu, một cái hột gà và một thìa mỡ nước không tính tiền ngoài đồ ăn ra, mà cơm thì nóng sốt, trắng tinh- vì kỹ nghệ xay thóc mở mang, không có nghề hàng sáo ở Trung và Bắc - tôi gần như không thấy ai ăn cơm tấm; nhưng bây giờ vì ơn nhờ kiệm ước, cơm tấm được coi là một thứ quà sáng vào hạng sang, thiên hạ ăn nha nhẩn, trông thấy người ta ăn mà mình đã thấy ngon rồi.
Nhưng ngon cách mấy đi nữa thì cũng không có cách gì so sánh được với gạo ba giăng tháng mười. Cơm chín tới, cả nhà quây quần lại rồi bắc ra ăn với cá mương đầm Vạc vào hồi này đương béo kể đã là ngon, nhưng ngon thật là ngon thì phải kể đến cá mòi vì tháng mười chính là mùa của cá giống này - béo bùi nhất định là hơn đứt cá thu, mà ngọt thịt thơm hương dám cuộc là cá trắm, cá mương khônh thể nào sánh kịp. Thực ra, cá mòi không lạ gì lắm với miền Nam là đất có tới chín mươi ba thứ cá, tôm, cua, còng, ngon như cá chẻm, cá chìa vôi, cá lăng, lạ như cá duồng, cá tra lóp, cá sặc buồm, có tiếng như cá phát lát, vá chạnh lá tre, cá vồ chó, cá vồ cờ... Cứ vào khoảng tháng năm, tháng sáu ở đây, các chợ có mà thiếu giống cá mòi, các bà các cô mua rả rích đem về hoặc chiên lên dầm nước mắm, hoặc nấu ngọt hay kho lạt ăn bằng thích.
Nhiều người bảo: "Thích gì! Cá mòi đóng hộp quanh năm có bán, ăn vào thơm mà xương lại nhừ, không tanh, tội vạ gì mà mua về làm cho cực!".
Những người nói như thế là lầm. Cá đóng hộp kêu là sardines là cá trích,cá lầm, còn sardines của Mỹ là cá chuồn chuồn có râu ở mép và một cái vây dài ở lưng trông như cá
cánh. Cá mòi (hareng), cũng thuộc vào loài cá biển, nhưng khác thế: nó dẹp, nhiều xương dăm, mình tròn, thường lớn bằng ba ngón tay là cùng. Ðặc trưng của nó là lắm mỡ; vào tháng năm tháng sáu, cá này béo gia dụng, mua một ký đem về lấy dao khứa ở hai bên lườn ra mà chiên lên có khi tới một chén mỡ vàng như mỡ gà mái đẻ.
Ở Phan Thiết, ở cự nam Trung bộ, cá mòi là căn bản của một sản phẩm đặc biệt quí giá: mắm mòi - một sản phẩm từng làm đầu đề cho nhiều câu hát, câu hò tình tứ:
Cô kia bới tóc cánh tiên,
Ghe bầu đi cưới một thiên cá mòị
Không tin dở thử lên coi,
Rau răm ở dưới, mắm mòi ở trên.
Con trai Bình Thuận nghe thấy cô gái Phú Yên đẹp quá, mê cứ tít đi, dẫn cưới cả một thiên cá mòi, thế thì đủ biết mắm mòi ngon đến chừng nào, cá mòi quí là nhường bao.
Ở Bắc Việt, cá mòi không có nhiều như ở Nam và Trung. Cả năm, chỉ tháng mười, tháng một mới thấy giống cá này xuất hiện, mà đặc biệt là nó chỉ rộ lên mươi ngày lại thôi rồi lại có, có vài ba bận rồi thôi hẳn, y như thể chim ngói và rươi vậy.
Tôi còn nhớ mỗi khi trời bắt đầu rét mà có cá mòi, thì người ta gánh đi bán rao ầm ĩ cả hàng phố lên, y như thể có một thứ hàng gì lạ lắm. "Ai mua cá mòi ra mua". Và cũng như rươi, cốm và chim ngói, quay đi quay lại chỉ một buổi sáng là những bà nội trợ sành ăn đổ ra mua hết nhẵn. Ở bên ngoài có gío rét mưa phùn, đóng cửa sổ lại mà uống một vài cốc rượu hâm cho nóng thì vừa lúc vợ ở dưới bếp đưa đĩa cá mòi lên cho chồng đưa cay: không, dù anh là người không ưa món cá, sợ tanh, anh cũng phải nhận cá mòi ở Bắc khía cạnh, rồi xát nghệ, nướng trên than tầu, chấm nước mắm gừng, nhắm rượu ngon gia dụng!
Vũ Bằng