vhnt, số 189
24 May 1996
Trong số này:
thư vhnt............................................Nguyễn Phước Nguyên (viết thay PCL)
T h ơ :
1 - Hình tượng .....................................................lephan
2 - Lý thuyết xanh ...........................................Ðàm Hà Phú
3 - Lời vu vơ ............................................Tôn Thất Hùng
4 - Chuyện một dòng sông ..................................Chung Trần
5 - Giản dị thế sao?...........................................Thu Hồng
6 - Không tên 1 ...................................................Sao Băng
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Cảm đề khi đọc Hoàng Hạc Lâu .................Nguyễn Ngọc Bảo
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Trời xanh bên kia sông ..........................Nguyễn Mộng Giác
9 - Chuyện của một ngày ....................................Phạm Chi Lan
24 tháng 5, 1996
Thơ là ngôn ngữ của tình yêu.
Nhạc là âm thanh của tình yêu.
Jacques Brel
Trong một đêm trình diễn ở một quán cafe nhỏ ở San Francisco, Rod McKuen kể lại nhạc sĩ Jacques Brel đã nói với ông như thế. Rod McKuen là một nhà thơ, một nhạc sĩ, và cũng là người đã dịch hai bài nhạc của Jacques Brel qua Anh ngữ với tựa đề Seasons In The Sun và If You Go Away.
Từ bao giờ, thơ gắn bó với tình yêu. Tình yêu là động lực thúc đẩy cho bao nhiêu bài thơ bắt nguồn.
Những bài thơ tình được nhiều người ưa thích thường là những bài thơ diễn tả một cách trọn vẹn tâm trạng của tác giả - lãng mạn, cay đắng, xót xa, hoài đợi...
Nhưng.
Những bài thơ tình hay vốn được thành hình khi tác giả đã, từ nỗi khổ đau tuyệt cùng của mình, nói về một hạnh phúc chân duy. Khi tác giả khai triển được những cảm nhận cho tình yêu trong mình thành một bức tranh nhân sinh sống động. Rất riêng tư. Nhưng là cái riêng tư ai cũng có thể cảm nhận, nếu biết nhìn nó bằng chiều sâu của lắng đọng.
Ở đó, hành lang thi niệm được mở ra. Khi viết, người thơ bước đi với thơ. Bên thơ. Trong thơ. Khi đọc, người thơ cũng có một hành lang cho con tim và tư tưởng mình lúc thưởng thức.
Và nếu bạn đã từng, đang là, hay muốn là thi-sĩ-của-tình-yêu-mình, xin chia cùng bạn một niềm riêng-nhưng-rất-chung nho nhỏ:
Trời trắng cánh tay mặc áo ngắn
những cuốn sánh nhỏ chuyền tay
được viết cho những người ngày mai
cuộc đời tối tăm đòi ánh sáng
anh nâng niu cuốn sánh nói đến cách mạng
nói đến tâm hồn trái tim tự do
nói đến anh và em
hoàn toàn cởi mở
Thanh Tâm Tuyền
(Tôi Không Còn Cô Ðộc)
Chúc bạn tìm được cho mình chút hạnh phúc khi đến với VHNT.
npn
Hình Tượng
Dùi đục hăm hở bút nghiên
Cảm quan mơ hồ hình ảnh
Trên đồi đá sỏi tâm tư
Trả nguyên thể cho đất trời
Cuồng vọng
Ở những nét chấm phá
Che dấu vô tình chai sạm
Nỗi niềm khao khát dũa mài
Trật tay chém
Dòng máu ứa khô lạnh trong chiều
Sấm sét
Một rung động
Hiện trơ trơ nỗi đau
Không có gì lạ
Phong sương
Hình tượng lặng câm đứng đó
Tiếng đá nguồn vực thẳm tan hoang
Bài thơ đến
và đi mất ...
lephan
Lý Thuyết Xanh
Hình như chiều nay mang cô đơn Trái đất
Vừa trọn vòng quay
Ðã thấy mình rất chật
Em khoác vào đi chiếc áo cuối năm
Ta xuống phố xem dòng vương mang
Anh vẫn cất đầy rương những cánh thiệp xuân
Dù lời chúc chẳng bao giờ có thật
Nghĩ mà thương bè bạn sách đèn
Bao nhiêu tuổi còm thèm mơ cổ tích
Em gõ cửa mùa anh
Trong veo giọng cười Sơn Tước
Giọng cười mang theo điều thua được
Anh xuôi tay chờ những vọng mầm xanh
Ðâu phải
Ðâu phải bông hoa nào cũng nở ngày xuân
Em hãy thử hình dung mình là Trái đất
Sẽ thấy mình rất chật
Sẽ thấy mình thèm lời chúc bao nhiêu.
Ðàm Hà Phú
Lời Vu Vơ
Thà là
xa tận
chân mây,
chim bay khuất bóng,
cỏ cây
là nhà.
Thà là
dăm giọt mưa sa
đậu trên mái tóc,
mặn mà
môi em.
Tay xin năm ngón tay mềm,
nói quanh, nói vội, nói thầm,
yêu em.
TTH
Feb 1996
chuyện một dòng sông
tôi kể em nghe chuyện một dòng sông nhỏ
rất dịu dàng con nước trôi xuôi
những chiều nhẹ nắng tôi thường đến
ngồi bên bờ đá để nghe vui
có những ngày mưa đổ rất nhiều
dòng sông cuộn sóng biết bao nhiêu
nhưng tôi vẫn đến bên gành đá
như thể viếng thăm kẻ thân yêu
từng buổi thì thầm nỗi ước mong
vui buồn từ thưở rất xa xăm
hồn nhiên như những chiều mưa nắng
tôi đến để nghe mẫu chuyện lòng
có lần tôi chợt gặp chính mình
bên cạnh dòng sông đứng lặng thinh
vô tình tìm đến hay hò hẹn?
tôi hỏi nhưng không thể trả lời
rồi vẫn từng ngày ở mọi nơi
mấy mùa thu đến lá rụng rơi
tôi đi làm khách bên trời lạ
từ giã, cười buồn bên vành môi!
vậy là tôi đã xa thật rồi
để nghe thương nhớ mãi không thôi
dòng sông ngày ấy quen thành lạ
chẳng biết vì tôi hay cuộc đời
tôi kể và tôi làm người nghe
chuyện lòng một thuở rất ngô nghê
trong tôi em là dòng sông ấy
ra đi từ độ gió đông về!!!
cd
5/22/96
Giản Dị Thế Sao??
Giản dị thế thôi sao?
Gặp gỡ nhau ngày nào
Nụ cười trong ánh mắt
Ðã đủ làm xuyến xao
Chỉ có thế thôi anh,
Ðem thơ kết mộng lành
Em xây tình trên cát
Nào biết tình mong manh
Cũng chỉ có thế thôi
Khi sóng biển lên rồi
Cuốn tình em theo cát
Em ngẩn người... mặn môi...
Em với tay... hụt hẫng...
Sóng tình chỉ vừa dâng
Em xoài ngừời đón chận
Cát luồn dưới châu thân
Giản dị thế thôi sao?
Chỉ một ngọn sóng đào
Tình em cao hơn sóng
Mất đi tự lúc nào???
Sao Thu
5/22/96
Không Tên 1
(trao về một người)
Ðâu đây reo rắt cung đàn
Cho hoa chớm nở cho đàn én bay
Sớm chiều hoa ngát hương say
Cùng chàng nghệ sĩ vươn tay khẩy đàn
Du dương tương khúc mơ màng
Lâng lâng chiều tím, tri mang chút sầu
Ðàn ơi, ân khúc về đâu
Sao nghe "xa vắng ngàn sau mãi chờ"
Ðể hoa chợt vướng tình tơ
Ðể chàng nghệ sĩ thẫn thờ vì hoa
Mộng chiều ân ái thiết tha
Tình buồn đoản khúc ngân nga mãi hoài
Mộng ơi, đừng sớm tàn phai
Cho chàng nghệ sĩ tác bài "Mơ Hoa"
Sao Băng
Perth 05/96
Cảm Ðề Khi Ðọc Hoàng Hạc Lâu
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Thôi Hiệu
Bài thơ này đã được hàng ngàn người dịch. Trong số những bài dịch thì bài của Tản Ðà hay nhất về thể lục bát và bài của Vũ Hoàng Chương xuất sảc hơn cả về thể đường luật. Bài Linh Linh trích dưới đây không phải là bản dịch của Vũ mà chỉ là bài cảm đề khi đọc Hoàng Hạc Lâu. Bản dịch của thi sĩ như sau:
Hoàng Hạc Lâu
Xưa cánh hạc bay vút bóng người
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một mầu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán?
Ðừng giục cơn sầu nữa sóng ơì!
Vũ Hoàng Chương
Vịnh lầu Hoàng hạc
Ðã bao giờ có hạc vàng đâu?
Mà có người tiên để có lầu!
Tưởng hạc vàng đi, mây trắng ở
Nhầm, Thôi Hiệu trước, Nguyễn Du sau
Hạc chưa bay khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Non nước hão huyền như khói sóng
Nồi kê chín tới gẫm càng đau .
Vũ Hoàng Chương
Bản dịch của Vũ là một kiệt tác, chữ dùng tuy rất mới nhưng bài thơ vẫn mang âm điệu man mác buồn như bài Thăng Long Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan. Các chữ "vút", "tung", "bay bay", "vạn vạn", "chơi", "đâu", và "giục" được dùng rất "đắt".
Có lẽ Vũ Hoàng Chương dịch Hoàng Hạc Lâu và viết bài cảm đề khi nằm trên gian "gác Bút" trong những ngày Sài Gòn vừa đổi chủ. Thi sĩ đã cố tình thay tên "gác Thơ" thành "gác Bút" ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 75. Chữ gác có hai nghĩa, khi dùng làm đanh từ thì có nghĩa là "căn gác" [Truyện Kiều: "khi gió gác, khi trăng sân; bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ"], khi dùng làm động từ thì mang nghĩa "không tiếp tục nữa" [Truyện Kiều: "nỗi lòng kín chẳng ai hay; gác tai để mặc gió bay mái ngoài"]. Chữ "gác" trong "gác Thơ" mang nghĩa thứ nhất còn "gác" trong "gác Bút" mang ý nghĩa thứ hai. Tuy dùng "gác Bút" để tỏ nỗi chán nản thời thế nhưng "con tằm đến thác hãy còn vương tơ", thản hoặc, thi sĩ vẫn sáng tác hay dịch một bài thơ cho đến khi được nhà nước trân trọng mời đi học tập cải tạo. Khi thấy triệu chứng thi sĩ sắp sủa dhội ngộ với Thôi Hiệu và Nguyễn Du, nhà nước vội vã phục hồi quyền... công dân cho thi sĩ, trả thi sĩ về gác Bút để vừa được tiếng là anh minh, nhân đạo, vừa đỡ phải "vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa" cho thi sĩ.
Thôi Hiệu xưa là một chàng giang hồ lãng tử, từng bị người cùng thời chê là hữu tài vô hạnh. Thôi làm Hoàng Hạc Lâu trong một buổi chiềi ngồi trong quán, trông thấy khói sóng, chợt động lòng nỗi nhớ quê hương. Vũ Hoàng Chương, dịch thơ và viết bài cảm đề có lẽ không phải để trang trải niềm nhớ quê lên trang giấy, mà để ghi lại nỗi tiếc thương một thời vàng son, không có bóng dáng những con người đỉnh cao trí tuệ. Ðiển tích "nồi kê" dùng trong bài cảm đề đã nói lên tâm trạng này.
Nguyễn Ngọc Bảo
Trời Xanh Bên Kia Sông
tặng Kinh Dương Vương
Buổi sáng hôm đó, toán tuần cảnh bắt về đồn một người đàn ông râu tóc rối bù xù, ở trần, chỉ mặc có cái quần tây dài màu xanh đậm cũ kỹ. Viên sĩ quan đồn trưởng chú ý ngay đến mái tóc quá dài, và đôi mắt đờ đẫn của người lạ. Ban đầu, viên sĩ quan tưởng đôi mắt ấy còn giữ nguyên sự sợ hãi lo lắng thường thấy trên gương mặt bất cứ khách lạ nào đến đây. Nhưng chừng năm phút sau, ông ta thấy mình lầm. Sự lạc lõng, thất thần của người đàn ông hơi khác thường. Ðó là dấu hiệu của vắng mặt, của bàng quan, của xa lạ với hoàn cảnh trước mắt. Ông tò mò, ngồi lại ngay ngắn trên ghế, hỏi người cảnh sát:
- Vụ gì đó?
- Thưa thiếu úy, lão này định cởi quần áo đứng tô hô trong công viên.
Viên sĩ quan nhíu mày, hỏi lại cho rõ:
- Cái gì? "Ðịnh cởi quần áo" hay "đã cởi rồi"? "Ðứng tô hô" hay là "chạy tô hô"?
Người cảnh sát cười:
- Dạ lão đã cởi xong cái áo, em còn để ngoài xe. Còn cái quần này thì lão đã mở nút, định tụt xuống. Thiếu úy thấy không, mấy hột nút chưa gài lại. Em thổi còi, lão mới sợ bỏ chạy.
Thiếu úy gật gù, vẻ nghiêm nghị cố ý không thể che được nụ cười mỉm nửa đùa cợt, nửa mỉa mai:
- Như vậy là "chạy truồng". Mãi hôm nay, phong trào đó mới tới Việt Nam.
Tất cả mọi người trong phòng đồng nổi lên cười ồ. Dĩ nhiên là trừ người khách lạ. Tiếng lao nhao bàn tán tưởng như không bao giờ chấm dứt:
- Nude Streaking Giao-Chỉ.
- Hôm qua báo đăng có "chạy truồng" ở Ðại Hàn. Một trung sĩ Mỹ da đen "chạy truồng" giữa phố đông.
- Thấm gì! Bên Mỹ có "chạy truồng" ngay giữa lễ phát giải thưởng điện ảnh Oscar.
- Còn chưa thú bằng "chạy truồng" trong lưu xá của nữ sinh viên.
Phải đến lúc cuộc bàn tán vô trật tự chấm dứt, và viên thiếu úy lấy lại cái uy của mình. Ông ra dấu cho mọi người im lặng, quay hỏi người khách lạ:
- Ông tên gì? Giấy tờ đâu?
Người đàn ông giật mình, đưa tay rờ lên túi quần sau như cái máy. Vẻ mặt càng ngày càng sợ sệt. Không muống đùa dai thêm nữa, người cảnh sát đưa xấp giấy tờ cho vị chỉ huy:
- Dạ em có giữ đây. Không có gì bất hợp lệ.
Viên thiếu úy chăm chú quan sát từng mảnh giấy một, vừa xem vừa đọc to:
- Giấy căn cước tên Nguyễn Văn Út, sinh năm 1934 tại Tân Dân... giấy miễn dịch vĩnh viễn... lý do vì đâu... bị thương hả. Chứng chỉ cư trú... ờ... còn giá trị... Mà sao lại còn có thêm biên nhận phạt vi cảnh đây... Hóa ra khách hàng quen đây mà. Lần trước tại sao bị phạt, trong giấy, mực nhòe đọc không rõ?
Người đàn ông tên Út lúng túng, đưa tay lên rờ nhổ mấy sợi râu trên cằm.
Anh tằn mằn nhổ hết sợi râu này đến sợi râu khác. Phải, lần trước cách đây không lâu. Chừng hai tuần là nhiều. Người ta cũng thổi còi, cũng nắm chặt lấy hai cánh tay anh kéo mạnh ra phía sau. Chỉ khác một điều: đồn cảnh sát ở ngay bên cạnh, người ta không cần dùng đến xe. Người thẩm vấn già hơn, đáng bậc cha chú của ông này. Lời lẽ nghiêm khắc hơn. Từng tiếng dằn xuống, gọn sắc như nhát dao trên thớt. Ông ta giải quyết vấn đề nhanh, ra lệnh gọn: "Cởi quần áo giữa đám đông, phạm thuần phong mỹ tục, mang tội công xúc tu sỉ. Biên giấy phạt vi cảnh". Anh Út không nhớ chính mình lục bóp trả tiền hay chính người cảnh sát thu số tiền đó trong mớ giấy tờ lộn xộn, bèo nhèo ở trên bàn trước mặt ông. Ðiều đó đâu quan trọng gì! Anh được thả ra, lòng hoang mang không hiểu thứ ma quỉ nào nhập vào anh, buộc anh làm những việc trơ trẽn kỳ quái như vậy. Anh đã đứng tuổi, gia thế không đến nỗi thấp hèn. Anh không bao giờ, nhất định không bao giờ muốn làm trò cười cho đám đông. Anh thích ăn mặc chững chạc, đi đứng khoan thai, ăn nói ôn tồn. Chiều chiều, anh thích đi dạo một mình trên bờ biển, nhìn những đợt sóng xô nhau tiếp nối như từng ngày từng tháng tiếp nối đưa anh vào tuổi già mệt mỏi. Những buổi chiều lặng lẽ ấy, dạo một mình, anh thường ngâm thơ, hay tập làm thơ. Lúc đó anh cách xa với cuộc sống rộn rịp quay cuồng. Anh tự tại, anh độc lập. Ðể bù vào những buổi chiều trầm tư ấy, có những buổi sáng anh đắm mình trong cái rộn rã, náo hoạt ở công viên, đến sạp báo cạnh rạp chiếu bóng đọc hết tin giật gân này đến tin động trời khác. Anh không còn là anh nữa, anh trở thành tiếng rao mì của chú ba Tàu già, tiếng leng keng của chị bán bong bóng, tiếng nổ quá lớn một chiếc Honda cũ, tiếng trẻ ăn xin lè nhè gần bên quán nước. Anh nhập vào cuộc, như một giọt mưa đông nhập vào cuồng lưu đục ngầu phù sa tràn khắp các cánh đồng duyên hải. Anh quen thân với đống rác góc phố, câu khẩu hiệu giăng giữa hai trụ điện, tên du đãng chuyên cướp tiền lũ trẻ đánh giầy, con chim nhỏ lơ láo trên nóc đài tưởng niệm chiến sĩ, đám cỏ úa trên công viên, người lính tuyến mộ pháo binh, anh cảnh sát áo xám cau có.
Viên thiếu úy không dằn được tức giận, giọng hỏi xằng:
- Thế nào? Lần trước tại sao bị phạt?
Người đàn ông ngơ ngẩn hỏi lại:
- Dạ?
- Vì sao có cái giấy này?
- Dạ vì... vì người ta thấy tóc tai của tôi...
Thiếu úy ngắt lời người đàn ông:
- Ðúng lắm. Ông để tóc hippy. Không hợp đâu. Hippy là tụi con nít kia. Tụi nó vô công rồi nghề, tiền bạc nhiều, bắt chước Âu Mỹ để tóc dài, mặc áo quần dị thường, cổ đeo chuôi ốc. Ông chừng ấy tuổi, hippy coi sao được...
Viên sĩ quan ngập ngừng, rồi dừng lại. Chính thiếu úy cũng biết suy luận của mình không được ổn. Người đàn ông này đã ngoài bốn mươi. Nét mặt khắc khổ, dày dạn. Ðôi mắt thiếu linh hoạt, là bằng chứng sự cam chịu hơn là óc đua đòi. Hay người này là một đạo sĩ, hoặc một cuồng sĩ? Nhưng đã lỡ phóng lao, thiếu úy phải đẩy tới cùng:
- Âu Mỹ khác, mình khác. Ðâu có thể cái gì cũng bắt chước được. Thấy người ta để tóc dài thì bắt chước để tóc dài. Thấy người ta "chạy truồng" thì cũng bắt chước "chạy truồng". Người ta làm có ý nghĩa. Người ta đòi hỏi sự thật trần truồng về vụ Watergate. Người ta đòi được biết hết nội dung bao nhiêu cuốn băng mật. Cả một phong trào đòi hỏi sự thật đang làm chấn động dư luận Mỹ. Người ta muốn một hình thức biểu lộ nào đó. Mít-ting. Cũ rồi. Biểu tình. Tổ chức rắc rối lắm. Ngồi lì. Ðã buồn lại mệt. Phải tìm cách nào cho vui nhộn. Các cô các cậu sinh viên tìm ra được hình thức mới nhất: "chạy truồng". Người ta cởi quần áo nhằm ý nghĩa sâu xa như vậy, chứ đâu phải làm khơi khơi.
Viên thiếu úy dừng lại để tận hưởng sự thán phục của mọi người trong phòng, đoạn quay về phía người đàn ông trách móc:
- Ông chừng ấy tuổi đầu, đâu phải con nít, thấy báo đăng bên Mỹ có phong trào "chạy truồng", cũng bắt chước chạy truồng!
Bây giờ thì anh dựa sát vào tường. Anh có đủ cảm giác an toàn để hiểu được một phần lời trách cứ của viên thiếu úy. Chỉ có những kẻ trẻ người non dạ mới hay bắt chước. Người ta cởi quần áo ra mà chạy, mặc kệ họ. Mình có lập trường riêng...Nhưng...không được, không thể được! Phải làm như mọi người! Trong những tình thế đặc biệt đầy dẫy suốt cuộc đời anh, anh rút được một kinh nghiệm quí giá: là đừng làm cái gì khác thường. Ðạo sống khôn ngoan nhất là chìm vào đám đông vô danh, lẫn mất giữa đồng phục. Ðời luôn luôn muốn vậy. Hồi đó anh bị Pháp bắt trong chiến dịch Atlande, và bốn tháng sau khi ký hiệp định Geneve, hai bên Pháp Việt bắt đầu trao trả tù binh. Trước khi lên xe Hồng thập tự, người ta phát cho bọn anh cùng một loại quần áo. Mỗi người mặc một cái áo vải popeline fort đen, và một cái quần dài cùng màu. Trước ngực mang một tấm bảng ghi tên họ, tình trạng vết thương hay bệnh tật, và các thứ thuốc đã chữa trị. Cầm đầu phái đoàn là một thiếu tá, anh nhớ hình như thiếu tá Hali. Ðoàn xe Hồng thập tự chở hơn hai trăm tù binh bộ đội khởi hành ở Qui Nhơn lúc 9 giờ, vì đường xấu nên đến trước cửa chùa Hang - địa điểm trao đổi tù binh - là 10 giờ. Ngươì Pháp còn đem theo hai chiếc trực thăng đậu sẵn ở đám ruộng khô phía dưới chùa chuẩn bị chở tù binh Pháp bị thương nặng về thẳng Nha Trang. Mọi người lục tục xuống xe, sợ mấy khuôn mặt hung dữ đỏ gay của bốn người lính Pháp nên nem nép lặng lẽ xếp hàng tư đứng trước tấm "tăng" lớn giăng trên đường nhựa. Nhìn qua phía bên kia, anh thấy người ta lần lượt khiêng thương binh Pháp bằng chõng tre đặt ngay ngắn trước nhà rạp cất tạm bên vệ đường. Sĩ quan hai bên bàn bạc thương lượng ngay trước cổng chùa. Giống như tất cả mọi người trong đoàn, anh phập phồng theo dõi cuộc bàn bạc, sợ các trục trặc phút chót làm ngăn trở cuộc đổi tù. Trời nắng chói chang, khí nóng bốc hơi từ mặt đường nhựa loang lổ và vách đá núi. Sống trong không khí này, một người cục súc như thiếu tá Hali có thể dễ dàng nổi cáu và đổi ý kiến. Anh nheo mắt về phía cổng chùa như nhìn tương lai của đời anh.
Nếu cuối cùng, họ gật đầu? Anh sẽ chạy qua khỏi cổng chùa, đến chỗ nhà rạp. Anh sẽ vứt bỏ bộ mặt lù đù ngu ngốc giả tạo, vừa chạy vừa cười về phía những người bạn người thân đang chờ đón anh. Anh sẽ cười hả hê, hét to cho sướng phổi. Anh sẽ nhảy cỡn như con nít giữa trưa nắng. Mẹ anh, người mẹ già chắt chiu dành dụm tất cả thứ của ngon vật lạ và lòng thương yêu cho đứa con trai út, chắc đang nôn nả chờ anh đâu đó. Sau nhà rạp? Không thể được. Ðây là khu phi quân sự. Phải xa hơn nữa, như phía bên kia sông Trường Úc hoặc trên Chợ Huyện. "Mẹ ơi! Chắc bạn bè con trong Trung Ðoàn 803 rút về hậu phương chuẩn bị tập kết có gặp mẹ, báo tin cho mẹ hay rằng con đã chết mất xác trên rừng Trường sơn. Con không chết được đâu mẹ. Út của mẹ không thể nào chết được. Con chỉ bị ngộp vì khói bốc lên từ đoàn xe bị phục kích trên đường 19. Con bị lạc đơn vị, bị Pháp bắt khiêng một tên trung tá lội rừng suối hai ngày từ cây số 15 cho đến cây số 22, sau đó được chở về Qui Nhơn để chờ trao trả tù binh ngày hôm nay. Con của mẹ khổ sở vất vả lắm. Sáu tháng trường chúng con vật vã với rừng hoang, lưng chúng con rướm máu vì khuân không biết bao nhiêu lương thực và vũ khí để chuẩn bị cho cuộc phục kích cuối cùng. Ngày này qua ngày khác, chúng con chỉ ăn toàn một thứ cơm thiu với muối, và nước suối đục là ổ vi trùng sốt rét và kiết lỵ. Tụi bạn con đã quỵ xuống, bị trung đoàn bỏ lại cho thú dữ. Có đứa tan xác vì B26 hoặc Bearcat. Út của mẹ thì không! Con của mẹ dẻo dai chịu đựng, ốm nhưng bền như cây sậy. Mẹ có đem quà cho con không mẹ?"
Có ai xô sau lưng anh. Ơ kìa, thiếu tá Hali đang tươi cười vẫy tay ra hiệu cho bọn anh tiến tới. Giờ phút mầu nhiệm đã đến. Thần kinh anh căng thẳng, tưởng sắp đứt ở lưng chừng cố gắng. Anh cảm thấy nghẹn nơi cổ họng. Giá anh được thét lên một tiếng! Anh quay nhìn hai bên, đằng trước, đằng sau. Mọi ngưòi đều lầm lũi bước, nhịp bước vô hồn. Anh nhìn qua phía bên kia. Họ đã khiêng thương binh Pháp đến gần cổng chùa. Máu nóng nhộn nhạo trong người anh, và trên từng làn da thớ thịt, anh có cảm tưởng sắp có thứ gì nổ bùng như loại thủ pháo anh thường sử dụng. Ðoàn người tiếp tục tiến, tiến gần ranh giới trước chùa. Tiến gần. Tiến gần hơn. Tĩnh vật cuối cùng anh ghi nhận là cổng chùa rêu phong, sau đó là cơn địa chấn: Ðoàn người uể oải trầm lặng bao quanh anh đột nhiên hét lớn: "Ðả đảo Bảo Ðại". Ban đầu tiếng hét còn lộn xộn, càng về sau tiếng hét càng nhịp nhàng theo cánh tay giơ cao. Anh biết mình đã qua khỏi vùng địch. Cả đoàn chạy về phía nhà rạp. Chập chờn trước mặt anh là những hình ảnh người mẹ già đang ngồi bỏm bẻm nhai trầu. Anh chạy nhanh hơn, tay phải giơ cao, miệng hô khẩu hiệu. Cán bộ trong đoàn đã rút cờ đỏ giấu trong người ra phất. Anh nhìn lá cờ bay như cái khăn trầu phất phơ của mẹ. Chung quanh anh, bạn bè bắt đầu xé rách bản tên trước ngực, lần tay cởi áo vứt xuống đường. Câu khẩu hiệu thay đổi: "Ðả đảo thực dân Pháp". Anh khựng lại một chút, chợt nhớ ra bạn anh biểu lộ sự căm thù thực dân bằng cách vứt bỏ hết y phục do thực dân may sắm. Anh nghĩ nhanh: "đúng lắm", và bắt chước mọi người. Bạn bè anh đang cởi vứt quần áo, anh cũng phải cởi vứt quần áo. Mẹ anh chắc đã mang sẵn quần áo mới cho anh. Hình ảnh bà cụ chập chờn trong nắng rực rỡ làm cho anh vụng về, chậm chạp hơn các bạn. Anh vứt được cái áo, tự khen mình bằng cách đưa thẳng nắm tay phải lên cao để hét to: "Ðả đảo Bảo Ðại". Bằng bàn tay trái, anh lần tìm gút giây lưng để cởi nốt cái quần. Chính lúc đó, lúc anh cách đoàn người đang đứng chờ đón anh đưới mái nhà rạp độ mười thước, anh mới khám phá ra trở ngại oan nghiệt: anh quên mặc quần lót. Trong số 231 tù binh được Pháp trả về hôm ấy, chỉ còn một mình anh giữ lại cái quần đen popeline fort của thực dân. Mưa buồn bắt đầu đổ rả rích từ đó, dai dẳng suốt cuộc đời anh.
Người cảnh sát ngồi gần cửa sổ nhận xét:
- Hình như người này không bình thường, thiếu úy. Mắt ông ta lạc thần. Ông ta không hiểu mình nói gì cả.
Người lính đưa ông Nguyễn Văn Út về đồn cũng bảo:
- Hay ông này là đồ đệ tên cuồng sĩ bên Tàu, nằm trần truồng trong nhà mà ca hát. Người ta cho ông ta điên, ông bảo người ta điên, hẹp trí. Ông ta lấy nhà cửa làm quần áo, lấy trời đất làm nhà cửa, mà dám bảo là điên.
Cả phòng lại cười. Viên thiếu úy rụt rè bảo:
- Chắc ông này mất trí. Nhờ vậy mới được miễn dịch vĩnh viễn. Còn nếu không...
Người cảnh sát trẻ tuổi muốn thử lần chót, đến gần ông Út nói như tát vào mặt:
- Tại sao? Tại sao lại cởi quần trước đám đông mà không biết xấu hổ? Trời đất! Sao chắp tay đứng trân vậy? Ông thả tay ra đứng ngay ngắn tôi coi!
Người đàn ông giật mình, bàn tay phải thả bàn tay trái, đứng thật thẳng, lưng không dựa vào tường nữa. Viên thiếu úy cười vui vẻ:
- Ðâu có. Ông ta hiểu mình nói gì mà. Lúc đầu, tôi hỏi, ông ta trả lời đàng hoàng. Ðây là một trường hợp...
Anh không nghe hết được câu nói của thiếu úy. Trí nhớ mong manh của anh dính cứng vào một hình ảnh vừa được người lính trẻ gợi lại: hình ảnh hai bàn tay nắm chặt lấy nhau. Bàn tay phải bóp chặt bàn tay trái để trừng trị. Và bàn tay trái cũng muốn bóp nát bàn tay phải. Cả hai đều có tội. Trước hết là bàn tay trái. Tại nó, vì nó mà anh điêu đứng, ngay từ phút đầu. Vì sao nó dám giữ chặt lấy lưng quần popeline fort đen, không chịu buông thứ y phục ô nhục đó xuống đất nhớp, để dày xéo lên trên? Bàn tay trái này là bằng chứng tinh thần nô lệ, vọng ngoại. Người ta nhìn anh xúng xính cái quần vải tốt như nhìn một kẻ lộn sòng. Các cô gái trong ban tiếp tân cũng phát nón cho anh, phát khăn cho anh. Nhưng họ giả vờ sơ ý, không bưng cho anh bát nước trà đường như đã bưng cho mọi người trong đoàn. Họ còn tụ nhau lại xì xào bàn luận thật lâu trước khi phát thêm cho anh cái áo. Cô gái có đôi mắt thật sắc sảo và cái cằm lẹm đã nói với anh:
- Anh chỉ cần cái áo. Còn cái quần, anh có rồi. Chắc anh chỉ thích loại vải sang mà thôi. Chúng tôi mặc toàn vải ta, quê mùa.
Mưa mùa đông không tạnh ngay chiều hôm ấy. Người ta triệu anh lên thẳng bộ chỉ huy trung đoàn, không cho phép anh ghé nhà nhìn lại cái khăn trầu và đôi môi mẹ nhóp nhép. Anh bị biệt cư, làm hết tờ phản tỉnh này đến tờ phản tỉnh nọ. Từ trong phòng vắng, anh đau khổ nôn nao nghe tiếng cười những đêm liên hoan gió thổi tạt từ bên kia vườn, tiếng con chuột rúc trong xó tối, tiếng lá chuối rùng mình, tiếng võng đưa kẽo kẹt của người lính canh. Anh trốn khỏi đơn vị giữa khung cảnh xô bồ biển dâu của những ngày cuối năm 1954 như một phép lạ. Cảnh tranh tối tranh sáng: một bên sắp ra đi muốn tiêu diệt tất cả mầm mống đối nghịch để chuẩn bị cho kế hoạch đấu tranh mới, một bên sắp đến muốn gieo những mầm sống ban đầu cho chế độ. Tình thế hỗn mang như cơn lốc, quật gẫy vùi dập những cành cây cứng. Tin một phó-chính ủy bị trùm kín để cưỡng ép xuống tàu được loan truyền khắp nơi, càng làm cho anh hốt hoảng. Suốt ba tháng ròng, anh thực sự thành dân du mục. Ban ngày anh trốn nấp ở xó bụi ven rừng nào đó, ban đêm bò ra đào trộm khoai mì ăn ngấu ăn nghiến. Râu tóc anh mọc dài cùng với lòng thù ghét loài người và ánh sáng mặt trời. Áo quần anh rách mục. Anh nhớ mẹ, thèm được nhìn lại ngôi nhà xưa, nhìn lại giàn bí trước sân, ngắm những con bướm vàng bay trên những luống cải bẹ. Anh thèm đứng thẳng, không sợ trước mặt, lạnh sau lưng. Cho đến ngày chiếc tàu Ba Lan chở đoàn quân cuối cùng nhổ neo khỏi biển Qui Nhơn hướng ra phíc Bắc, anh thở phào nhẹ nhõm. Thế là thoát.
Nhưng chính lúc đó, bàn tay phải lại bắt đầu hại anh. Chính nó, chính nó đã siết chặt năm ngón lại nhau thành một khối ý chí, khối bạo lực, đòi đả đảo vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Nó có tội với chế độ mới, như bàn tay trái có tội với chế độ cũ. Nhiều, rất nhiều sẵn sàng làm chứng để kết tội anh, đó là chưa kể các chiến tích của anh dọc theo quốc lộ xuyên rừng. Lần này, phải chính nó cầm viết tự thú, cầm viết cam kết ly khai, cầm tờ tuyên thệ. Anh tìm được đôi chút bình an, nhưng càng ngày càng trở nên lơ đãng, ơ hờ. Kỷ niệm lần lượt bỏ anh mà đi. Anh xa lạ với cỏ cây, mặt trăng mặt trời, trước mặt và sau lưng. Thảm kịch ấy kéo dài gần suốt hai mươi năm nay, trầm lặng như những ngọn gió âm thầm thổi qua các đỉnh núi đá cây cối cằn cỗi. Gần đây, anh tự thấy mình đổi khác, và điều ấy khiến anh lo sợ, rồi hốt hoảng. Ðột nhiên anh trầm ngâm, đột nhiên anh yêu đời. Và giữa giai đoạn chuyển tiếp, trong kẽ hở của tối và sáng, âm và dương, từ cõi âm u mù khơi dâng lên niềm tiếc nuối. Anh tiếc cho đời anh, hối hận tại sao không để mặc cho cái quần popeline fort rơi xuống, mà lại dùng bàn tay trái giữ lại. Tại sao mình không thể mặc trần truồng, cho sự thật đơn giản là sự thật, cho cuộc sống xuôi theo chiều lịch sử như giọt nước mưa thuận dòng từ suối ra sông từ sông ra biển ? Tại sao không vất hết bộ y phục ấy đi, để chìm vào đám đông, lặn trong đồng phục? Sự dĩ lỡ đó, liệu còn cứu vãn được không? Lúc này? Tại đây? Chao ôi! Giữ kín một chút "riêng tư nhỏ nhoi" mà phải gặp bap nhiêu oan nghiệt ấy hay sao? Anh thương hại mình nồng nàn, mà cũng bỡ ngỡ lo ngại cái tiếc nuối huyền bí lâu lâu xuất hiện đưa đẩy anh làm chuyện lố lăng. Sự dao động trong tâm hồn anh quá sức chịu đựng của cái thân thể ốm đói. Anh thút thít khóc, trước sự kinh ngạc của mọi người.
Người cảnh sát reo to:
- Em nói đúng. Lão điên mà.
Viên thiếu úy trưởng đồn gật đầu ra lệnh:
- Thôi. Trả áo cho ông ta. Tìm phố vắng thả ổng xuống.
Người ta thả cho người đàn ông cái áo sơ mi xanh đã rách ở lưng và cánh tay. Ông ta chụp lấy áo, đội lên đầu, rồi chạy nhanh ra khỏi đồn. Hai ống tay áo rũ liệt phất phơ như đôi tay của một loài ma.
Nguyễn Mộng Giác
Chuyện Của Một Ngày
Tôi thức dậy sớm như mọi lần, và tôi biết chắc là tôi có uống cà phê phin. Bao giờ sáng thức dậy tôi cũng pha cà phê. Tôi nhâm nhi gần hết tách cà phê, châm một điếu thuốc đầu lọc, bao giờ tôi cũng uống cà phê cùng hút thuốc vào những buổi sáng vô dụng và vô duyên. Rồi tôi ngồi nhìn mây bay ngoài hiên nhà, tôi ngồi đó và nghĩ ngợi. Những sợi khói làm đầu tôi mê man. Tôi nghĩ về nhiều chuyện, ồ toàn những chuyện lẩm cẩm. Những chuyện ảo mà tôi chỉ biết nghĩ trong đầu nhưng không kết thành lời để kể với người khác. Những chuyện đại loại: nếu mà tôi thế này thì... giả thử như, nếu mà, vân vân. Tôi thường nghĩ đến những chuyện ảo tưởng. Cho vui và giết thì giờ thôi mà.
Có lẽ sau đó chán suy nghĩ tôi có đi vào phòng tắm. Tôi ngồi trong toilet nhìn mặt mình đối diện trong gương (lúc ngồi nhìn mình trong gương tôi không thấy kỳ, giờ nghĩ thấy hơi kỳ). Tôi biết chắc tôi có vớ quyển báo đọc ngấu nghiến, loại báo về văn chương hẳn hoi. Giờ phút trong toilet, đọc báo văn chương lại thấm và thấy bài nào cũng hay. Ðọc báo chán và xong chuyện, tôi nhấn cầu. Tiếng nước chảy nghe ngộ nghĩnh như tiếng của người bị tra tấn tư tưởng nghe ùng ục. Ðầu óc tôi lại nghĩ những chuyện lẩm cẩm lúc nãy. Tôi đứng nhìn mình sát trong gương, khám phá ra có thêm một mụt nhọt bắt đầu mưng trên má phải, thảo nào thấy nhưng nhức khó chịu. Lục tìm trong mớ chai lọ lổn ngổn trên bàn, tôi tra thuốc mụn vào chỗ đầu đang tấy. Chờ thuốc khô, tôi bắt đầu bỏ makeup. Tôi tra hết mầu son này tới mầu son khác, mầu nào trông cũng chán. Sao chân mày mọc ngổn ngang loạn xạ thế này. Lại mất thêm mười lăm phút tỉa chân mày, rồi thêm năm phút kẻ chì đen trên mi và mày cho gọn kiểu Elizabeth Taylor. Nhìn mình trong gương, tôi suýt bật cười. Mầu son giống hệt miếng thịt bò Steak-anđAle trên tấm biển quảng cáo. Tôi không thích ăn thịt bò còn đỏ máu. Chùi vội màu son, tôi tra lại mầu của Cindi Crawford hiệu Revlon. Tuy chẳng đẹp như Cindi (hẳn nhiên) nhưng tôi chủ quan mầu son đúng là mầu cô ta xài trong màn quảng cáo. Mất cả thảy bốn mươi lăm phút trước gương để làm sao cho mình trông không giống mọi ngày, để tôi không nhận ra tôi. Tôi mà còn không nhận ra tôi, chắc chắn không ai nhận ra. Thì đây cũng là mục đích của màn hóa trang này.
Rời phòng tắm, sau đó tôi có làm những chuyện nho nhỏ trong nhà, với mặt mày tô điểm như đi dạ tiệc buổi tối (và tiếp xúc ban ngày). Trong khi làm việc, đầu óc tôi có nghĩ lại những chuyện lẩm cẩm cũ. Việc suy nghĩ, tôi làm rất giỏi và có thể làm trong bất cứ lúc nào. Mới có chín giờ hai mươi, tôi quyết định thay đồ đi dạo ở ngoài. Có lẽ tôi sẽ ăn trưa ở ngoài, và không biết sẽ làm gì cho hết một ngày. Có thể tôi ngồi ngoài công viên, đọc thêm vài tờ báo, ăn một bịch potato chip hiệu Frito Lays, uống lon cốc hiệu Pepsi diet. Có thể tôi ngồi nhìn thiên hạ đi qua đi lại, lắng nghe những câu chuyện mất đầu mất đuôi của người chung quanh, rồi lại suy nghĩ. Từ những câu chuyện rời rạc, những câu nói không gẫy khúc, tôi có thể ghép đầu ghép đuôi lại thành một câu chuyện có logic, có thể biên thành truyện ngắn hoặc truyện dài nếu tôi là một nhà văn có tài và biết lan man triết lý bịa đặt. Những truyện tôi biên biết đâu sẽ hay hơn những bài viết trong tờ báo văn học đọc trong toilet lúc nãy. Thường truyện chưa viết ra bao giờ cũng hay hơn những truyện đã viết hoặc những truyện của người khác viết, dù là của một nhà văn quen tên (ý nghĩ này có lẽ trùng với vài người, mặc dù họ chẳng nói ra).
Chán suy nghĩ và mơ làm nhà văn nổi tiếng, tôi rời công viên đi quanh quẩn thêm vài block. Tôi để ý không ai nhìn mặt tôi son phấn mầu mè, có lẽ tôi hóa trang giỏi nên không người quen nào nhìn ra, hoặc tôi chìm lẫn, hòa nhập vào cái đám đông ai-cũng-hóa-trang-như-ai. Ðiều này khi nãy suy nghĩ tôi không nghĩ tới. Ðến góc đường gần trạm metro có thang cuốn xuống hầm dưới đất (ở đây ban ngày người ta chui xuống hầm đất tối ngoi lên), tôi gặp một ông cụ già rụng hết hàm răng cửa. Ông ta ngồi co ro nhìn mông lung, nhìn mọi người như chẳng nhìn người nào, tay chìa ra phía trước miệng nói lảm nhảm. Tôi dừng lại lắng nghe ông ta đang nói gì, suýt chút nữa có người phía sau tông tới vì tốc độ đi như chạy của người đó (ở đây ai cũng bận rộn chạy đua với thì giờ, trừ tôi và ông lão ngồi thu lu này). Ông ta nói xin cho tôi một đồng tôi đang bệnh, tôi bị đau chân không đi lại được. Nghe ra câu nói của ông lão, tôi lục bóp tìm ít đồng bạc xu nhưng chẳng còn đồng nào, có năm mươi xu cuối cùng tôi đã mua lon cốc lúc nãy mất rồi.
Ông già đưa tay chờ đợi, tôi bối rối nói thôi tôi sẽ đến thăm ông không biết lúc nào. Ông già lại nói tôi không có nhà, khiến tôi lại đâm bối rối thêm. Thôi ngày mai tôi trở lại nhé. Ông già gật đầu thông cảm. Ít ra cũng có những người thông cảm như ông lão bị bỏ quên trong góc đường này. Những người thông cảm tôi gặp rất ít, thường người ta lạnh lùng tính toán, dứt khoát và thẳng thắn, như gửi thư đòi tiền đến tận nhà, cho biết đích xác ngày phải nộp tiền, con số rõ ràng và cương quyết, kèm theo câu "thank you for your business" (những giấy tờ loại này không thể cố tình quên như quên những lá thư của người quen hay bạn bè gửi đến được). Ông già móm mém cười chúc tôi một ngày đẹp trời và nhàn nhã. Tôi nói cám ơn, rồi ông già còn khen tôi trông tươi và đẹp lắm. Không biết ông già có biết tôi đang bỏ makeup, màu son của Cindi Crawford, và cặp chân mày tỉa gọn kiểu Liz Taylor. Hoặc ông nghĩ tôi sẽ trở lại ngày mai như đã hứa. Tôi chúc lại ông một ngày đẹp trời và may mắn. Ông già gật đầu cười, nụ cười tôi móm mém tôi gặp đầu tiên trong ngày. Chợt nhiên tôi nhớ thằng Robert nhặt đâu ra câu chuyện có nhà triệu phú cô đơn nọ sống đơn côi với con chó nhỏ, trước khi chết ông thảo di chúc nhắn rằng ai là người cười với ông nụ cười chân thật cuối cùng trước khi nhắm mắt, ông sẽ để gia sản lại cho. Viết xong, ông tức cười quá ôm bụng cười, cười quá bị choke ôm ngực lảo đảo. Chó thấy chủ ôm bụng cười thấy lạ vì cả đời ông không bao giờ cười, nó cũng thích chí cười theo. Trước khi cơn choke làm ông giật co rúm người, triệu phú còn cố ghi vào khoảng trống trang di chúc tên con chó thân yêu rồi dẫy chết. Phải chi tôi là triệu phú, tôi sẽ để gia sản lại cho nụ cười móm mém thông cảm này. Nhưng tiếc quá, năm mươi xu tôi đã xài mất rồi. Tôi đi trở lại con đường cũ, ngang qua công viên lúc nãy mơ làm nhà văn lớn với những câu chuyện tầm thường của những kẻ qua đường, đầu óc tôi lại vướng bận ý nghĩ thành triệu phú để cứu vớt tha nhân. Tha nhân đi như chạy giặc mém tông vào tôi mấy lần.
Nắng bắt đầu chói và nung nấu. Việc suy nghĩ của tôi bị gián đoạn và lạc ý. Thôi tôi đi về.
Về tới nhà, nắng theo tôi vào bên trong có hơi hoa mắt và choáng váng. Tôi treo áo khoác vào móc để lại tủ closet. Cởi giầy và tháo áo nịt ngực, tôi nằm dài trên sofa. Tôi thèm một ly soda chanh muối, nhưng ngại ra bếp pha kì kệch. Nếu có một đứa ở nhỏ để sai vặt thì đỡ khổ, làm triệu phú cũng sướng ngoài cứu vớt tha nhân. Nằm nghỉ mệt mặc đầu óc mơ màng một lúc, có tiếng chuông điện thoại reng. Từ sáng tới giờ đây là cú phôn đầu tiên, không biết ai là người ngó ngàng đến tôi. Nhấc ống nghe, tôi nói hello giọng yếu xìu, giọng đầu giây líu lo chào mở hàng nói gì đó về món hàng quảng cáo qua kiểu tiếp thị điện thoại. Tôi nói không interest, rồi lẳng lặng cúp máy. Hoá ra lại thêm một người không thông cảm trong đời sống thiếu tình cảm của tôi. Mệt và khát nhưng lười, tôi thiếp vào giấc ngủ. Ngày mai tôi sẽ có một công án cho sở, về việc kế hoạch hóa phát triển sản phẩm của hãng, biết đâu tôi sẽ được giải phát minh và sẽ trở thành triệu phú, cùng lúc với giấc mộng làm nhà văn lớn. Giữa lúc lâng lâng trong mộng tưởng, tôi không chắc mình sẽ chọn cái nào trong hai giấc mộng này, nếu có một cái thành sự thật.
Có điều tôi biết, bất cứ lúc nào ở đâu tôi cũng có thể suy nghĩ được.
Phạm Chi Lan
3/96