vhnt, số 28
18 August 1995
Thân chào các bạn,
vhnt số này được gửi ra từ site mới, vhnt@saomai.org. Tính đến hôm nay vhnt đã đều đặn đến với các bạn được 1 tháng. Mọi bài vở đóng góp đã được cẩn thận gom lại bỏ vào archives để các bạn có thể tìm đọc lại bất cứ số nào. vhnt archives hiện đang để ở site saomai.org/pub/vhnt.
Như đã thông báo, anh Đôn đang thực hiện một database để lưu trữ các bài đã đăng trên diễn đàn này. Dù bận rộn với công việc, anh Đôn cũng đã bỏ thì giờ soạn một thư mục gồm đầy đủ các bài cũ của vhnt, theo thứ tự thể loại và tên tác giả.
Cám ơn anh Đôn rất nhiều đã giúp cho vhnt việc này. Nếu bạn muốn có thư mục này, xin dùng anonymous ftp vào site saomai.org, download file /pub/vhnt/thumuc.
Cám ơn các bạn đã đóng góp bài vở, giới thiệu độc giả, và giúp cho vhnt có một không khí thân mật và cởi mở, trong tinh thần nghệ thuật. Xin bạn tiếp tục ủng hộ và gửi bài về đều đặn.
thân ái,
Phạm Chi Lan
Hôm qua soạn lại đống sách báo cũ, tìm thấy bài thơ của Cao Tần, là một bút hiệu khác của nhà văn Lê Tất Điều, thấy hay hay nên giới thiệu với độc giả VHNT. Bài thơ tiêu biểu sau của Cao Tần nói lên tâm trạng của người Việt di tản những ngày tháng lưu vong thời gian đầu: bơ vơ lạc lõng và mất phương hướng, tương lai mù mịt... Không biết trải qua 20 năm rồi, tâm trạng có khá hơn chút nào không???
Chốn Tạm Dung
Nhà tôi ở toòng leng đỉnh đồi
Buổi sáng đi làm thấy đời xuống dốc
Sau lưng sương ngập cao lưng trời
Trước mặt thông sầu reo đáy vực
Bắt đầu ngày bằng một chút vui
Hát nghêu ngao trong lòng xe rỗng tuếch
Bài ca quen bỗng chợt quên lời
Chút kỷ niệm còn lại mất khơi khơi
Tiếng Việt trong ta ngày mỗi héo
Hồn Việt trong ta ngày mỗi khô
Dốc mở như đời ta trước mặt
Sương kín như đời ta hôm xưa
Giang hồ một túi bài ca cũ
Hát nhảm cho qua nốt tuổi già
Qua những bình minh còn ngái ngủ
Còn như chưa lạc mất quê ta
Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Trên đường chênh chếch nắng mênh mang
Trôi xuôi một mảnh hồn lưu lạc
Ðã chán nhân gian ở cuối đường
Chiều về lên dốc thân tơi tả
Một quả hoàng hôn đỏ kín trời
Mình mới ngoi lên ngày đã ngả
Ðêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi
Giữa đỉnh sương mù thông đáy vực
Ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn
Còng lưng gánh nốt đời lưu lạc
Nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non.
Cao Tần
5-1977
Giọt Lệ Em Tôi
Này em hỡi đợi ta về hãy khóc
Giữa cuộc đời đầy hiểm hóc chông gai
Có ta đây em hãy tựa vào vai
Em cứ khóc suốt đoạn dài ta dẫn
Em hãy khóc cho cuộc đời lận đận
Tháng năm ròng em vất vả bao đêm
Hẳn con người sống không có con tim
Cho em biết đời chơi bằng mặt trái
Ta thương em phận thân là con gái
Cánh hoa mềm bầm giập chẳng nương tay
Những nụ cười ẩn giấu lắm chua cay
Trời đất rộng đậu bến nào em nhỉ
Người em gái chân tình đầy ủy mị
Hãy đến gần cho ta tạc vần thơ
Có ta đây em sẽ hết bơ vơ
Lệ không đắng, lệ ngọt ngào sữa mẹ
Em hãy biết lòng ta là biển rộng
Ôm ấp hồn em cả bốn mùa
Che chở người trong những lúc gió mưa
Và bảo bọc những đêm dài lạnh giá
Này em hỡi đợi ta về hãy khóc
Để thấy đời vỏn vẹn có em, ta
Hoàng Mộc Linh
(Trương Nguyễn Thi Thanh)
Một Chuyến Đi Huế
Tôi vốn yêu Huế từ nhỏ, cái thành phố cổ kính nơi đã từng là cấm cung của các triều vua cuối cùng của nước ta, nơi mà tôi mơ ước một ngày nào đó sẽ viếng thăm hay sống qua, sau khi đọc một số truyện của những nhà văn nữ mà tôi một thời say mê như Nhã Ca, Tuý Hồng, v.v... Tôi còn đã từng nghĩ lẫn thẫn rằng vì mình cha Bắc mẹ Nam, sau này nếu lấy được vợ Trung, điển hình là gái Huế, thì con cái sẽ là những người toàn hảo vì mang cả 3 giòng máu đó. Nhưng giấc mộng con của tôi đã không thành tựu, bởi vì trong suốt cuộc đời học sinh sinh viên cũng như trong quân ngũ, tôi chưa bao giờ được hân hạnh quen biết một người con gái Huế nào hết. Tuy thế, lòng mến yêu cái thành phố này không vì thế mà thay đổi.
Thuở còn trong quân đội, bao lần tôi muốn đi Huế mà không được vì hễ ra đến Đà Nẵng là bị bạn bè bắt cóc, cho đến năm 75 rời xa xứ sở, tưởng là giấc mơ đã tàn rồi không ngờ tôi vẫn còn duyên với Huế sau chuyến đi về thăm quê vừa qua.
oOo
Vừa lên đến đỉnh đèo Hải Vân tôi đã thấp thoáng thấy Huế đâu đây khi nghe một cô bé mời uống nước bằng giọng Huế làm tôi thích thú vô kể. Giọng nói trong trẻo, thêm mấy chữ răng rứa mô tê làm tôi bàng hoàng. Huế đây rồi, cuối cùng rồi tôi cũng tới đây Huế ạ.
Qua khỏi đèo, chúng tôi ngừng ở Lăng Cô để chụp hình và ngắm phong cảnh. Quê hương ta đẹp quá, tiếc là tôi không biết làm thơ để ca tụng những vẻ đẹp nơi này. Chỉ độ hơn dưới một giờ là xe chúng tôi đến Huế. Việc đầu tiên là phải kiếm cho được phòng khách sạn rồi hãy đi chơi cho thỏa thích. Anh tài xế chúng tôi biết một khách sạn trong thành nội, sạch sẽ và giá phải chăng. Rủi quá phòng ở đó đã hết nhưng mấy cô tiếp tân ở đây đã không nệ hà, sau lời yêu cầu của tôi, gọi điện thoại vòng vòng và sau cùng đã tìm được một khách sạn khác cũng đẹp, sạch và giá cả tương xứng. Cảm tưởng đầu tiên là các o Huế tốt bụng và lễ phép quá.
Ngay sau đó chúng tôi đi thăm Đại Nội và chùa Thiên Mụ, chụp rất nhiều ảnh. Xế trưa ghé quán Âm Phủ ăn cơm, cũng tại quán này tôi dạy cô bé con ông chủ vài câu tiếng Anh thông thường, đổi lại cô dạy tôi cách phát âm đúng vài câu nói thường dùng của dân địa phương. Nhờ mấy câu này mà về sau tôi nói xong dân Huế hiểu ngay là tôi muốn gì, trái với trước đó tôi có cảm tưởng như mình đang đi du lịch ở một xứ lạ nào. Quán Âm Phủ dọn nhiều món rất ngon nhưng khổ một nỗi là không có món nào thuần tuý Huế hết như bún bò, cơm hến, bánh bèo chẳng hạn.
Sau đó chúng tôi đi thăm trường Quốc Học và Đồng Khánh (nay đổi lại là Hai Bà Trưng). Chụp hình xong xuôi, gặp hai cô bé trong sân trường bèn hỏi thăm chỗ nào có chè ngon, hai cô tử tế quá chạy xe dẫn chúng tôi đến quán chè Hẻm, vì ở trong hẻm, xong rồi chạy đi ngay cho dù chúng tôi nài nỉ mời mỗi cô một ly chè mà nhất định không nhận. Ôi gái Huế đẹp mà kiêu kỳ quá.
Ghé chợ Đông Ba mua mè xửng và nón bài thợ Lại có dịp chọc mấy o bán hàng vui ra phết. Buồn một cái ăn mày ở đây nhiều quá. Và một nỗi buồn nữa là Huế thiếu những tà áo dài, trọn buổi tôi chỉ thấy có ba người con gái trong chiếc áo này. Huế đẹp nhưng thiếu áo dài làm tôi có cảm giác mất mát hay thiếu thốn làm sao ấy.
Chiều đó chúng tôi thuê đò đi chơi trên sông Hương. Cảnh đẹp quá, qua cồn Hến, xuôi về Vĩ Dạ, nhìn hàng cau xa xa bất giác tôi nhớ đến bài thơ của Hàn Mạc Tử mà một bạn Huế đã gửi cho tôi trước khi về nước. Nhìn sông nước đến lúc này tôi mới hiểu tại sao người Huế rất hữu tình. Cảnh trữ tình như vậy khiến sao người vô tình cho được.
Tối hôm đó chúng tôi đi loang quanh tìm chỗ đi nghe nhạc. Như ai đó đã cảnh giác tôi là dân Huế rất cổ kính, không có những mục ăn chơi như Sài Gòn. Đúng như vậy, cả thành phố không có một phòng trà nào hết. Không sao, chúng tôi đi dọc sông Hương chơi, cũng vui vì mấy hôm đó trời oi bức lắm nên hình như ai cũng ra đường. Mọi người đi như trẩy hội, xe gắn máy và xe đạp nhiều nhất và không như ở Sài Gòn, hiếm lắm mới nghe dân ở đây bóp còi xe. Tối đó chúng tôi về ngủ sớm để mai còn lấy sức đi thăm mấy lăng vua.
Sáng sớm chúng tôi đi kiếm nơi ăn sáng để rồi đi chơi, hỏi thăm nơi bán bún bò, được chỉ vô đâu con đường trong thành nội. Đi lạc kiếm hoài không ra, bèn hỏi thăm chỗ quán bánh bèo, đến nơi thì quán chỉ có bánh bèo vào xế trưa mới bán. Thất vọng quá tôi đành hỏi một o chỉ dùm nơi nào bán cơm tấm, o hỏi lại rằng cơm tấm là cái chi chi. Ồ dân Huế có bao giờ ăn cơm tấm bì đâu. Đành phải xà vô một tiệm phở Bắc, cũng ngon ra phết vì chủ nhân chính gốc người Hà Nội.
Chương trình định là ở Huế đêm nay nữa rồi sáng mai rút về Đà Nẵng sớm, nhưng rút kinh nghiệm tối qua, chúng tôi quyết định chiều nay đi thăm lăng các vua xong sẽ lái xe về luôn, vì có ở lại cũng không có gì để chơi hết. Các lăng tẩm vua đẹp thật, nhất là vua Khải Định. May mắn cho chúng tôi là cùng lúc đó có một phái đoàn học sinh từ Bắc vô thăm nên chúng tôi lò mò đi theo, nghe cô hướng dẫn viên nói giọng Huế như chim hót và đặc biệt cô có ngâm thơ nữa chứ, nghe đã thật. Chúng tôi viếng thêm 3 lăng nữa, Tự Đức, Thiệu Trị và Đồng Khánh rồi ghé Âm Phủ ăn cơm trước khi về lại Đà Nẵng. Hên quá, trước lăng Thiệu Trị có mệ bán bánh bèo, chúng tôi liền xà xuống mỗi người ăn một dĩa, lâu lắm rồi mới thấy lại cách ăn bánh bèo bằng một thanh gỗ dẹp có hình dáng như con dao nhỏ.
Rời xa Huế, lòng tôi buồn man mác. Chỉ biết Huế trong thời gian ngắn ngủi nhưng đầy ắp kỷ niệm đẹp. Giờ xa ngút ngàn, lòng tôi thật bâng khuâng xúc đông khi viết những giòng chữ này. Huế ơi sẽ có một ngày tôi trở lại, đừng quên tôi nhé thành phố thân thương.
Phú Lê