vhnt, số 195
13 June 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Ðôi mắt bên trời .................................Trần Hoài Thư
2 - Sau lưng ..........................................................lephan
3 - Hoa mười giờ ................................................Cỏ Nhớ
4 - Vu vơ ..................................................Trần Thái Vân
5 - Thật lòng .............................................Từ Ðông Nghị
6 - Chân dung cuộc tình ...........................................Y Khanh
7 - Trú tâm / Rượu bắt / Xoay chuyển ............Trương Xuân Dũng
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Huế và Nguyễn Du ............................Thân Bá Trường Sơn
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Nơi trú ẩn về đêm ............................Nguyễn Quí Ðức
13 tháng 6, 1996
Ðọc sách khi còn trẻ như nhìn trăng qua khe cửa; đọc sách lúc đứng tuổi như nhìn mặt trăng ở ngoài sân; đọc sách lúc về già như nhì mặt trăng trên sân thượng.
Lâm Ngữ Ðường
Chúc bạn đọc một ngày an vui, nhìn thấy trăng ở khắp mọi nơi, trăng sáng và trong như lòng thanh tịnh.
thân ái,
PCL/vhnt
Đôi Mắt Bên Trời
Một đôi mắt bên trời, quá tội
Tối nay còn nhắm lại, vì anh
Tối nay em có còn mi khép lặng thinh
Mà lòng đã như ngàn mưa lệ mỏng
Ðôi mắt người yêu, trên cao dưới lũng
Mà theo anh như thể một vì sao
Khi anh lênh đênh mắt ngước cõi nào
Khi lận đận mắt ưá niềm cảm động
Khi anh lên đèo cao dốc dựng
Mắt cũng bên trời canh cánh lo âu
Khi anh trở về chăn chiếu hư hao
Ðôi mắt cũng nóng thêm giòng lệ ấm
Khi anh uống vào chất cay chất đắng
May anh vẫn còn lai láng dòng sông
Có phải lệ mềm đã chảy từ tâm
Ðã luân chuyển cả ba miền tân khổ
Ðã thấm ướt trên khăn sô thiếu phụ
Ðã lạnh thêm sương giá buổi thăm nuôi
Ðã long lanh như những nỗi ngậm ngùi
Khi sông núi đã trở thành cay đắng
Ôi đôi mắt đã cho anh cuộc sống
Ðôi mắt bên trời, đôi mắt Việt Nam
Trần Hoài Thư
Sau Lưng
Nước nguồn
Xanh dấu đá hoang
Tịch dương
đỏ một trăng ngàn
vỡ xa
Vang vang trong tiếng hú kia
Lời thiên cổ dội âm thề qua vai
Ghềnh cao chắn
Choạng vạng ngày
Tâm tư nắng quái
như say điêu tàn
Sau lưng
Xe thác phố rừng
Ngược con dốc vọng vô chừng đôi mươi
Chân buông đỉnh núi quê người
Tay dang gió đón hỏi lời quê hương
Cũng mây biển
Cũng phố phường
Về đâu khói sóng
một đường xuôi Nam...
lephan
Hoa Mười Giờ
gởi Phương Thùy - tuổi nhỏ
Cô bé hàng xóm nhà đối diện
(mới dọn vào 5,7 hôm thôi)
sáng nay rủ tôi sang trò chuyện
cả buổi huyên thuyên kể chuyện cườị
Em khoe giàn bông nhà mới nở
với tay hái tặng chị cánh hồng
nhìn hoa trong lòng tay tôi tựa
ngày xưạ Trời ơi nhớ mênh mông.
Tuổi mười lăm xưa trường thị trấn
hoa mười giờ đơn giản như tên
hạnh phúc chừng như là yên ấm
10 giờ xem hoa nở rất hiền.
Những ngày mưa sân trường sũng nước
hoa mười giờ lỗi hẹn đơm bông
dỗ ngọt tôi hồn ngoài cửa lớp
bạn vẽ hoa cặm cụi tô hồng.
Hoa mười giờ mảnh đời rất nhỏ
tôi bỏ đi hoa giấy trả người
mười lăm, chưa biết làm nhung nhớ
xa cũng thành mười mấy năm trôị
Bất chợt trường xưa làm ký ức
hoa mười giờ, bạn nhỏ mười lăm
mười mấy năm phải chăng là thật
phải tôi còn khóc được 1 lần?
Hạnh phúc sao chừng như giản dị
khi mình quen thuộc lối đi xưa
con bé mười lăm lao xao chạy
tìm thầy kêu bạn suốt đêm mơ.
Bé hàng xóm, lòng người cố quận
ai có về tôi gởi tâm tư
hoa nhà người, hồn mình thị trấn
xoè tay trông tuổi nhỏ xa mù .
Cỏ Nhớ
Vu Vơ
Tưởng lầu hoàng hạc anh làm thơ
Hạc vàng không có, có trời mơ
Mây trắng trên trời ngàn năm trắng
Thơ xanh dòng chảy, chảy lặng lờ
Thung lũng hoa vàng nắng chiều nay
Có làm em nhớ mộng đầu say
Gió nhẹ có còn theo em giỡn
Hương thầm trộm chút gởi về đây
Có thể anh làm một bài thơ
Hỏi anh hay hỏi chuyện ngày thơ
Hình như em viết bài thơ ấy
Cho trăng chẳng phải tặng anh hờ
Hôm nay, em ạ, đã vào xuân
Cá giỡn, vịt đùa, sóng tung tăng
Soi nước mặt hồ anh nhìn thấy
Bóng ai xuân thắm đứng thật gần
Anh tưởng tượng hoài vẫn chưa ra
Em là chiếc lá hoặc cành hoa
Là bướm, là mây, hay là gió
Hay là hương bưởi trốn sau nhạ
Có thể em mang màu áo xanh
Da trời mơ ước mộng vòng quanh
Có thể em mang màu áo tím
Dòng thơ êm ả chảy ngọt lành
Hoặc giả là em mang áo vàng
Nhớ muà tình cũ đợi thu sang
Hay là em đang mang áo đỏ
Thương màu hoa phượng nở bên đàng
Ừ thì màu khác cũng không sao
Anh chửa gặp em một lần nào
Tím, vàng, xanh, đỏ anh đâu biết
Chỉ là thi tứ gọi xôn xao
Em nhé, vào xuân hát đi em
Cho trăng ngấp ngé, gió qua rèm
Cho người bên xóm hoàng hoa ấy
Ðã nhớ một lần, sẽ nhớ thêm
Xin gởi về em chút bâng quơ
Gởi theo ngày tháng với trời mơ.
Chiều nay tưởng bóng lầu hoàng hạc
Tiên cảnh nơi đâu cố nhân chợ
trần thái vân
thật lòng
nói sao cho em hiểu được
những con người của hôm nay
và ta, trong bao người ấy
nhớ em, khóc bằng đôi tay
mỗi ngày thương em, nhắm mắt
đưa tay lên mặt vuốt ve
ngã đầu lên hai gối, ngỡ
đời đã yên lành chở che
ơn em mưa rơi mát mặt
hạt dài, hạt vắn lên da
và ta tay dài, tay ngắn
cũng lần chấp lại thiết tha
mai về thương em rất thật
mỉm cười, tay mở rộng ra
từ đông nghị
Chân Dung Cuộc Tình
Ta ngồi đây nghe dòng đời gõ nhịp,
Từng nhịp buồn rơi rớt vọng dư âm,
Nghe gió thở dài, phiến đá trầm ngâm
Nghe cuộc tình rụng rơi vang ký ức!
Sao ta mãi đặt tay lên tiềm thức,
Ðể hồn ta chẳng được phút nghỉ ngơi
Ðể tim ta rung từng tiếng bồi hồi,
Cho hồn ta ngậm hoài viên thuốc đắng!
Sao ta mãi nhớ chuỗi ngày hoa nắng!?
Em, Ta vui sóng bước buổi tan trường,
Thỏi me xanh, rau má, nước chanh đường
Miếng cốc xẻ giữa môi Em mộng đỏ.
Bên cạnh ta, Em cười đùa to nhỏ,
Như trẻ thơ vui đón Mẹ chợ về,
Giờ Triết Luận, Toán Lý Hoá đê mê
Vùi quên lãng sau yên xe đạp nhồ
Ta cứ ngỡ đôi ta hoài thế đó,
Cho giai nhân luôn kề ấm thành vai,
Cho vòng tay ôm ấp tấm hình hài
Và tim Em hồn ta luôn ngự trị!
Bỗng một hô,m cả đất trời kinh dị
Em lạnh lùng, buông thỏng tiếng chia ly,
Ta thẩn thờ nhìn Em bước quay đi,
Mà lệ trào dâng dâng niềm tư lự ...
Sao ta mãi đặt chân vào quá khứ,
Ðể bbước chân khập khễnh, dạ hoang mang
Ðể tâm tư chấn động nỗi bàng hoàng,
Cho hồn trí nổi cơn giông cuồng bão!
Cuộc tình đầu, chao ôi... sao ảo não!
Quất vào tim hằn những vết thương đau
Ngày tháng dài, dù ngươi cố trôi mau
Nhưng vết sẹo thời gian còn mãi đó!
ykhanh
Trú Tâm
Ngó quanh, đời vẫn dối gian
Tìm về tâm tịnh... bằng an, không ngờ!!!
Rượt Bắt
Môi Ta - Em, héo nụ cười
Chưa đầy năm đủ, đã hời hợt nhau
Người đi, trước... kẻ theo sau
Nếu quay lại sẽ gạt mau lệ trào
Xoay Chuyển
Chán thay những bước nổi trôi
Ta hùng bạo bước vào đời, ngây thơ!
Ðời, xoay mặt... rất tỉnh bơ
Ðá văng những lý tưởng mơ thực hành
Trương Xuân Dũng
Huế Và Nguyễn Du
suối trong rừng nước trong soi bóng
cành lan buồn sương đọng bờ mi
Chưa đọc hết Thanh hiên thi tập nhưng vội vào Nam Trung tạp ngâm. Lúc đầu chỉ muốn đi tìm Huế qua thơ Nguyễn Du nhưng sau vài ba bài gặp Huế thì ít mà tìm thấy tình trạng triều đình Huế và nhất là tâm trạng Nguyễn Du lúc làm quan thì nhiều. Tự bảo: cái ông Nguyễn Du nầy rắc rối, thuở loạn lạc, cơ hàn, nằm bệnh thì than, nhưng khi hoạn lộ thênh thang với bao nhiêu bổng lộc thì lại chán nản, buồn rầu. Ngẫm lại phải chăng đó tâm lý phức tạp của CON NGƯỜI, chẳng bao giờ "hiện sinh" mà luôn mơ về một cõi mộng nào đó, đẹp hơn, chân thiện mỹ hơn. Muốn lánh khỏi hồng trần, muốn lên non tìm kỳ hoa dị thảo, muốn được ngụp lặn suối trong rừng. Nhưng rồi những hệ lụy tình cảm và vật chất, trách nhiệm bổn phận, bắt buộc phải lần lữa, lao đao trong trạng huống hiện tại, mà vẫn tiếp tục thả hồn vào thế giới mộng mị, thực vẫn là môi trường sống. Ước muốn không phải lúc nào cũng được. Nỗi đau của con người.
Sau khi Gia Long thống nhất sơn hà, triều đình muốn thu dụng nhân tài bèn triệu Nguyễn Du ra làm quan. Theo các thi, văn liệu thì Nguyễn Du không tiện từ chối hẳn, phải miễn cưỡng nhận làm tri huyện Phụ Dực, tỉnh Thái bình, rồi Tri phủ Thường tín, sau đó được phong Ðông Các Học sĩ, Bố chánh Quảng Bình. Năm 1813 được phong Cần Chánh Ðiện Học Sĩ, sung chức chánh sứ sang Tàu. Ði sứ hơn năm trở về được phong Hữu Tham Tri Bộ Lễ. Năm 1820, Minh Mạng nguyên niên Nguyễn Du được chọn làm chánh sứ, sắp sửa sang Tàu cầu phong thì bị bệnh dịch tả qua đời, thọ 55 tuổi.
Thuở trước học thoáng Kiều mà không để ý thời gian và không gian "sáng tác" tác phẩm đó. Tiểu sử của tác giả Kiều nay cho biết Kiều ra đời trong thời gian sau chuyến Bắc Hành, 1813 đến trước khi Nguyễn Du qua đời năm 1819. Trong khoảng thời gian đó, Nguyễn Du là đại quan tại Huế, trừ khoảng thời gian ngắn nghỉ mệt tại quê nhà.
"Ngày xưa Nguyễn Du sống rất lâu ở vùng Kim Long, hữu ngạn sông Hương... và bây giờ, trước sân nhà bà Tùng vẫn tỏa bóng một cây hồng Tiên Ðiền nổi tiếng mà chính cụ Nghè Mai, cháu nội cụ Nguyễn Du đã tặng cho gia đình bà.
Có người đã cảm nhận ra cái âm hưởng của Huế trên mỗi trang Kiều: dòng sông đáy nước in trời... mùa thu quan san, vầng trăng thắm thiết."
Thiên nhiên của đất Thần Kinh xưa đã để lại một cái bóng mông lung nhưng rất dễ nhận ra trong thơ Nguyễn Du. Sống lâu nơi nào đó, những danh lam thắng cảnh điạ phương tản mạn trong thơ là chuyện đương nhiên. Sông Hương được nhắc đến trong bài ngũ ngôn:
Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu [1]
vầng trăng trên sông Hương
như gợi bao mối sầu kim cổ
trăng vờn sóng nước sông Hương
như ôm một nỗi sầu vương trăng mờ.
Ắt hẳn Nguyễn Du đã nhiều lần hạ thủy du thuyền xuôi ngược trên sông, dưới phiến trăng sầu, xa xa văng vẳng điệu buồn Nam Ai, Nam Bình.
"... chứng kiến một nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ một tối ngồi nghe con gái đọc Kiều
trong như tiếng hạc bay qua
đục như tiếng suối mới sa nửa vời
nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, thốt lên: "Ðó chính là Tứ Ðại Cảnh!" (một điệu ca Huế)
Sông Hương thì phải có núi Ngự, như em với anh, như rừng với suối. Ngự Bình sơn được Nguyễn Du nhắc đến qua bài thơ với cái tựa rất dài, làm ra trong một buổi lận đận tại cửa quan
Xương hạp môn tiền xuân sắc lan
Cách giang dao đối Ngự bình san [2]
Trước cửa vua sắc xuân đang tàn xa xa bên kia sông (Hương) là núi Ngự Bình
Ngự bình san (sơn), núi Ngự Bình nằm về phía Nam của thành phố Huế, còn gọi là Bình Lãnh như trong bản dịch của Chi Ðiền. Từ trong thành trông ra giống như bức bình phong đặt trước nơi vua ngự, nên gọi là Ngự bình. Tại vì ai núi không cây chim không cành đậu, tại vì ai vắng khách giai nhân, kỹ nữ mong chờ:
núi Ngự không cây chim đậu đất
sông Hương vắng khách đỉ kêu trời (ca dao ???)
Dưới chân núi có quán chè, quán bánh bèo. Bánh bèo Ngự Bình thường được nhắc đến. Bánh bằng bột gạo, màu trắng hình tròn như bà Ðoàn Thị Ðiểm miêu tả, đường kính chừng 2 inches, nhụy bằng tôm tươi hoặc đậu xanh (bánh chay) xay thật nhuyễn rải đều trên bánh, trang điểm vài ba lá hành xanh và vài "tóp mỡ" nhỏ thật dòn thêm hương vị. Bánh bèo xếp thật khéo vào dĩa, lướt nhẹ vài muỗng nước mắm chua chua ngọt ngọt, nhớ thêm vào dăm ba lát ớt thật cay thái mỏng, rồi mới mời khách thưởng thức. Trái lại, nhớ hôm nào ghé quán Ngọc Lan bên San Jose nếm thử bánh bèo. Sáu cái đĩa dày trịch, nặng trĩu rời rạc ném xuống giữa bàn, phải hì hục lắm mới bóc được miếng bánh dày như bánh đúc ra khỏi điã. Những miếng da lợn già khổng lồ cứng như đá, ném voi voi chết, rải rác trên mặt bánh. Nhìn cái gọi là bánh bèo mà "dị" dễ sợ. Còn đâu bánh bèo thuở trước. Cũng vì vật đổi sao dời, ở nước ngoài bánh bèo vậy còn hơn không. Như tại trong nước dưới chân Ngự bình ngày nay có cả quán chờ khách sau giờ leo núi nhọc mệt ôm chặt chai bia giải khát, nâng niu, nhớ lại phút giây leo núi vừa qua và biết đâu, ai biết được những gì sắp đến...
Kề cạnh núi Ngự Bình còn có núi với cái tên rất đẹp, dưới chân núi có ngôi chùa cổ cùng tên. Nguyễn Du nhắc đến chùa trong núi trong Vọng Thiên thai tự.
Thiên Thai sơn tại Ðế Thành đông
Cách nhất điều giang tự bất thông [3]
Thành vua, đông có núi Thiên Thai
Cách dãi sông như khó tới nơi. [4]
Núi Thiên Thai nằm phía Ðông thành vua
cánh một con sông (Hương) nhỏ khó đến nơi
Chùa Thiên Thai còn có tên là chùa Thiền Tôn (Tông). Trước cửa chùa có câu đối rất thiền - đương nhiên!
bảo đạt trường minh bất đoạn môn tiền lưu lạc thủy
pháp thân độc lộ y nhiên tọa lý khán thanh sơn
tiếng mõ vang lừng trước ngõ không ngừng dòng nước biếc
pháp thân vòi vọi quang tòa cao ngút dãy non xanh [5]
Chưa biết chùa khai dựng thuở nào. Chùa nằm ven triền núi Thiên Thai, thuộc xóm Ngũ Tây, làng An Cựu, cách Huế chừng 6km về hướng Nam. Năm 1747, chùa được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban biển
Thiên Thai Thiền Tôn Tự, Cảnh Hưng bát niên,
Chùa Thiên Tôn Thiên Thai, Cảnh Hưng năm thứ 8
và đại hồng chung cũng được đúc vào năm nầy. Cảnh Hưng là niên hiệu của Lê Hiển Tông, lên ngôi năm 1740. Nguyễn Du nhắc đến "cựu thời chung".
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo
Cảnh Hưng do quải cựu thời chung [6]
Chuông cũ Cảnh Hưng treo vẫn đó
Nhớ hồi năm trước đã lên chơi [7]
Một làng nằm phía Bắc Kim long nơi Nguyễn Du ngụ cư trong thời gian ở Huế được thi nhân nhắc đến trong bài tiễn bạn về hưu:
Hương Cần quan đạo liễu xanh xanh
Giang bắc giang nam vô hạn tình [8]
đường cái quan xuyên qua làng Hương cần, rặng liễu xanh xanh Nam Bắc đôi bờ cách biệt mối thân tình chan chứa, vô hạn
Hương Cần nằm bên quốc lộ 1, nổi tiếng quýt ngọt. Vì nằm cạnh dãy Trường sơn, thuở đất nước phân kỳ, không có dịp ghé thăm, giờ Nguyễn Du nhắc đến thì thèm muốn thử vị quýt ngọt quê hương.
Xương hạp môn tiền được các cụ dịch ý thành cửa vua, cửa Ngọ môn. Ngọ đây không phải o Ngọ của Phạm Thiên Thư, chẳng phải ngọ chỉ thời gian, đúng ngọ, nửa ngày. Ngọ Môn dịch sang tiếng Anh là Noon Gate cũng được nhưng dịch âm mà không hiểu nghĩa. Ngọ môn là cổng chính của Ðại Nội, thường đóng chặt quanh năm, chỉ được mở khi vua ra vào Hoàng thành, và trong những dịp tiếp kiến các sứ thần ngoại quốc.
Ngọ môn xây vào năm 1833, Minh Mạng thứ 14. Theo Kinh Dịch vua bao giờ cũng quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ, nên dưới thời Gia Long, thành quách và cung điện được ở vào vị thế "tọa càn hướng tốn", tây bắc - đông nam. Hướng này được xem như hướng bắc - nam. Ngọ Môn nằm ở phía Nam của ngai vàng trong điện Thái Hòa, hướng ngọ, trục tý. Ngọ Môn mang tính không gian, với nghĩa hướng Nam. Xương hạp môn tiền được dịch ý thành cửa vua, hoặc Ngọ Môn mà các bậc tiền bối Hán rộng đã dịch.
Sông núi, chùa chiền, và làng mạc Huế đô Nguyễn Du đem vào thơ. Nhưng dường như sông núi hữu tình, non thanh cảnh lịch chưa đủ để vui lòng khách thi nhân, áo xiêm lộng lẫy, quyền cao chức trọng chưa đủ làm ông đại quan phấn khởi, hồ hởi mà nỗi cô đơn sầu muộn man mác trong thơ của ông. Vì ai nên nỗi sầu nầy? Có thể đưa ra nhiều lý do nhưng tựu trung, một cách tổng quát tạm chia làm hai động cơ chính: bản chất con người, và hoàn cảnh xã hội.
Lý do nội tại, con người là thi nhân đa sầu, đa cảm, tâm hồn lãng mạn "thiếu" khả năng hoặc không cần nhận biết "ngày vui là đây". Ðời chưa thấy những niềm vui, vì "những điều trông thấy mà đau đớn lòng." Biết rằng chưa thể treo ấn từ quan để về quê bạn với mây ngàn gió núi, như ai biết chưa thể gặp được người thương:
"Biết chẳng thể gặp anh em vẫn nhớ
Ðể đêm về dông bão dậy xôn xao."
nhưng vẫn nhớ để phải đón nhận giông bão vô hình về đêm như Nguyễn Du lao đao, lần lữa qua ngày lo sợ cho chính mình vì đã chứng kiến những gì đã xẩy ra trong triều đình, hành động của vi, gọi là Thiên Tử đối với nhà Tây Sơn và các cựu thần đã hy sinh giúp vua chiếm lại ngai vàng.
Sống cõi riêng, chinh phụ vì xa xôi cách trở, không đến gặp chồng nên tìm hạnh phúc đoàn tụ trong mơ:
Ðả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Ðề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tây [9]
làm ơn đuổi hộ con oanh
đừng cho nó hót trên cành líu lo
giật mình tàn giấc mơ hoa
Liêu tây xa thiếp sao qua thăm chàng
Cô phụ mơ để trốn chạy cô đơn, Nguyễn Du vừa mơ ước ngày về nhưng vua "bắt phong trần phải phong trần", có thân nên phải lao đao, muốn an phận phải cúi mình:
hữu hình đồ dịch dịch
vô bệnh cố câu câu [10]
Ngày tháng qua mau, mình trong thế bí vì một chức quan:
Xuân tòng giang thượng lai hà xữ
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan
vì chức quan nên phải luồn cúi, lưng còng, đầu đã bạc nhưng vẫn lỗi hẹn với non xanh:
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung (Vọng Thiên thai tự)
ngoảnh lại quê nhà hẹn lại một ngày nào đó:
hồi thủ Lam giang phố
tâm nhàn tạ bạch âu. [11]
non xanh hay bạch âu phải chăng tác giả hàm ý đành phải chịu đựng, phải làm điều ngược với ước muốn của chính mình, nên đành ôm nỗi cô đơn, đêm nghe mưa rơi gió hú, chịu đựng cái lạnh của Huế đô.
Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn [12]
càng lẻ loi hơn, khi người bạn tâm giao treo ấn về quê. Từ nay đành "đối nguyệt ảnh đơn" mưa rơi như hôm nào sao nay lại buồn thêm. "Ngày xưa nghe mưa thì sao, bây chừ nghe mưa lại buồn."
Trù trướng thân tiêu cô đối ảnh,
Mãn sàng trệ vũ bất kham thanh.[13]
Nguyễn Du coi thường danh phận, giữ mình và khinh miệt quần thần vì miếng đỉnh chung mà vào luồn ra cúi, cấu xé lẫn nhau.
Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc,
hoặc
Ðào hoa mạc trượng đông quân ý
Bàng hữu phong di tính tối toan.
Nguyễn Văn Thành, nguyên người Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Ðịnh đã hai ba đờị Ông theo Nguyễn Ánh từ lúc vua khởi binh đánh Tây Sơn, chịu khổ sở trăm bề, lập được nhiều chiến công hiển hách, đứng đầu hàng công thần. Ðược phong làm Tổng trấn Bắc Hà, sau triệu về Kinh làm chức Trung Quân. Nguyễn Văn Thành có người con tên Nguyễn Văn Thuyên thi đậu Cử Nhân, thường hay làm thơ để giao du với giới văn sĩ. Thuyên gởi bài thơ:
Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệt
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty
Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác
Kiện tướng phương tri Ký bắc kỳ
U cốc hữu hương thiên lý viễn
Cao cương minh phượng cửu thiên tri
Thư hồi nhược đắc sơn trung tể
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky.
Ái châu nghe nói lắm người hay
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phát kinh sơn tài sẵn có
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìm dặm
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp ta xoay đổi hội cơ này.
( Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim)
Bài thơ chẳng qua là lời lẽ của một thiếu niên ngông nhưng lại lọt vào tay Lê văn Duyệt, vốn ghét Nguyễn Văn Thành. Duyệt bèn đem bài thơ vào tâu vua. Vua sai bắt Thuyên bỏ ngục, khép tội phản loạn, chém đầu. Nguyễn Văn Thành bị bỏ rơi, phải tự tử.
Thêm vụ Ðặng Trần Thường làm cho Nguyễn Du càng ngẩn ngơ thêm, suy tư, và có lẽ lo sợ. Ðặng Trần Thương theo Nguyễn Ánh hồi còn ở Gia Ðịnh, làm đến Thượng thư Bộ Binh. Vì can tội làm sắc giả phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc tướng chúa Trịnh bị xử tội chém rồi được tha. Nhưng sau đó vì hiềm khích, Lê Chất, một đại thần khác, một kiều oanh trong vườn thượng uyển, tố Ðặng Trần Thường về tội tham nhũng, nên bị lên án tử hình treo cổ.
Hai sự kiện lịch sữ trên nhất định đã gây nhiều xúc cảm trong tâm hồn của nhà thơ, làm sao Nguyễn Du khỏi bị ám ảnh bởi những cái chết thảm khốc của công thần khai quốc, chưa nhắc đến cái chết của Võ Trinh, anh rể Nguyễn Du, và là thầy dạy học Nguyễn Văn Thuyên. Phận mình bèo bọt, phận của kẻ hàng thần, thoáng nhắc đến trong Kiều:
bó thân về với triều đình
hàng thần lơ láo phận mình ra sao
áo xiêm ràng buộc lấy nhau
vào luồn ra cúi công hầu mà chi.
Căn cứ vào thơ của chính tác giả, lồng với sự kiện lịch sử tình cờ thử tìm sâu tâm sự Nguyễn Du, trong giai đoạn làm quan tại Huế.
Trong bài giới thiệu Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Chi Ðiền, xuất bản 1986 tại Mỹ, Thái Can viết:
"Thật vậy xưa nay các nhà học giả muốm tìm hiểu Nguyễn Du, đệ nhất thi hào của dân tộc, chỉ căn cứ trên Truyện Kiều, họa hoằn lắm mới có ít nhà học giả nghiên cứu thêm một ít bài thơ Chữ Hán.
Thật ra, ba thi thập Thanh Hiên, Nam Trung, Bắc hành của Nguyễn Du để lại mới là tài liệu chính xác, phản ảnh thực tâm hồn Nguyễn Du. Vì đây mới là lời nói trực tiếp. Tuy nhiên không phải là lời tự thuật, nhưng nhà thơ đã mượn những đề tài thông thường hay vịnh sử để nói lên cái tư tưởng, cái chí khí, cái lập trường của mình."
Thật vậy không đòi hỏi một sở học về chữ Hán thâm sâu mới nhận ra điều đó. Giá trị văn chương của Kiều như một hào quang mà thơ chữ Hán cùng tác giả là những viên ngọc quý ẩn tàng, sớm muộn cũng sẽ tỏa ánh sáng mới. Thanh Tâm Tài nhân chấm dứt lúc Kiều nhảy xuống sông Tiền Ðường. Kiều của Nguyễn Du hạnh phúc hơn, gặp người tình xưa, đoàn viên sum vầy. Dù sao Kiều may mắn được sống trong xã hội còn chút nhân tính, chìm nhưng không bị đạp xuống, được vớt lên. Tìm đâu được cái tình người đó. Hạnh phúc hơn cả chính tác giả Kiều, chết đột ngột vì bệnh, muôn đời lỗi hẹn non xanh, tan tành mộng về quê.
Dĩ nhiên cá nhân có quyền bảo tâm sự Nguyễn Du tiêu biểu tâm trạng của bất cứ giới nào: trí thức nếu xã hội công nhận giai cấp trí thức, lao động nếu xã hội lấy lao động làm đầu kể cả lao động bằng trí óc. Tuy nhiên sau khi đọc chưa được 20 mươi bài rải rác trong Thanh Hiên Nam Trung Tạp Ngâm, và một bài trong Bắc Hành thi tập - Hán Dương vãn diễu, có thể nói tâm trạng của Nguyễn Du qua những đoạn đời rõ rệt của ông cũng là tâm trạng mâu thuẩn của người di cư nghèo khó, và của người con muốn về thăm mẹ.
Từ dạo ngọn cỏ bồng bị gió tây cuốn mất gốc
đọan bồng nhất phiến tây phong cấp [14]
không biết rồi đây sẽ trôi dạt về nơi đâu
tất cánh phiêu linh hà xứ quy.[15]
nếu những người còn lại, kẻ tù đày, kẻ đi học tập, người kinh tế mới trong thế giới bưng bít, thì còn ngọ bồng lìa gốc tạm cư, nơi không phải là thiên đường nhưng còn chút tình người, mặc dầu phải đối phó những dị biệt về văn hóa, khắt khe của thời tiết , vẫn sống: Hoàng vân bạch thủy lưỡng tương chiếu,
Cấp quản bi ti vạn bất đồng (Ngẫu Hứng II)
rồi nỗi nhớ nhà, trông về quê cũ xa nghìn trùng:
Cực mục hương quan tại hà xữ
Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên. (Thanh Quyết giang vẫn diểu)
không những cách xa vài ngọn núi mà cả một đại dương:
Chinh hồng ảnh lí gia hà tại?
Ẩn ẩn Quỳnh vân tam lưỡng phong (Ngẫu hứng II)
cố trông nhưng quá nghìn trùng, thư nhà chờ mãi:
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư. (Sơn cư mạn hứng)
Tin nhà khắc khoải chờ chưa đến,
Chẳng biết bình an nơi cố hương.
chờ mãi hóa khùng, đâm ra ghét sống nhưng không dám chết (hates his life ad fears his death, the poor immigrant, Joan Baez), và lần lữa qua ngày. Khi nỗi nhớ chất ngất muốn về thăm mẹ:
Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
(Trần Trung Ðạo, Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười)
đành thương nhớ vì nơi xa mẹ đang ở có khung cửa hẹp khó lọt qua, có những con đường gập ghềnh bất trắc, khó đi, khu vườn của mẹ không những có con oanh ghen ghét mà có những diều hâu, con cú nguy hiểm. Chủ vườn là những ông vua Gia long của chế độ quân chủ chuyên chế thuở nào. Thưa mẹ!
Thân Bá Trường Sơn
Tài liệu tham khảo
* Nguyễn Du Thơ Chữ Hán, Chi Ðiền Hoàng Duy Từ
* Huế, Di tích và con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT). HPNT được coi là một trong những thủ phạm chôn sống người trong dịp Tết Mậu Thân, nhiều nhất tại Bãi Dâu. Nhiều đến nỗi Trịnh Công Sơn đã làm bài Hát trên những xác người, với những câu:
chiều đi qua Bãi dâu hát trên những xác người
.... mẹ vỗ tay reo mừng xác con
khắc khoải lo âu đã đi qua biết rằng con đã chết, nhưng may tìm được xác. Ðó là đau khổ, hạnh phúc, đó là mâu thuẩn của bà mẹ Việt nam.
* Kiến Trúc Cố Ðô Huế, Phan Thuận An
* Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim cuốn II
[1] Thu chí, Nguyễn Du
[2] Ngẫu thư công quán bích II, Nguyễn Du
[3] Vọng Thiên Thai tự, Nguyễn Du
[4] Phạm Khắc Khoan và Lê Thước dịch, Cụ Lê Thước trước dạy trường Quốc Học, Huế. Chi Ðiền trong sách của ông có trích bài thơ của Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du, mà cụ Lê Thước và Trương Chính sưu tầm được.
[5] Hình bóng Phật giáo bên bờ sông Hương, Phương Anh Trang, Ðặc san Huế vùng Hoa Thịnh Ðốn, 1996. Dịch thoát , pháp thân độc lộ. trường minh có lẽ trường minh đăng
[6] Vọng Thiên Thai tự, Nguyễn Du
[7] dịch thơ của Phạm Khắc Khoan và Lê Thước
[8] Tống nhân, Nguyễn Du
[9] Xuân Oán, Kim Xương Tự
Nhờ ai đuổi hộ con oanh
Ðừng cho nó réo (!) trên cành lao xao
Làm cho thiếp tỉnh chiêm bao
Liêu Tây đi tới làm sao được chừ
Trần Trọng Kim
[10], [11] Thu chí, Nguyễn Du
[12] Ngẫu thư công quán bích II, Nguyễn Du
[13] Tống nhân, Nguyễn Du
[14],[15] Tự thán, Nguyễn Du
Vọng Thiên Thai tự
Thiên Thai sơn tại Ðế Thành đông
Cách nhất điều giang tự bất thông
Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
Tiên triều tăng lão bạch vân trung
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung
Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo
Cảnh Hưng do quải cựu thời chung
Nguyễn Du, Nam Trung tạp ngâm
Thành vua, đông có núi Thiên Thai
Cách dải sông như khó tới nơi
Chùa cổ lá vàng thu phủ kín
Triều xưa mây trắng sãi già rồi
Thương cho đầu bạc còn vương lụy
Cùng với non xanh trót phụ lời
Chuông cũ Cảnh Hưng treo vẫn đó
Nhớ hồi năm trước đã lên chơi
Phạm Khắc Khoan và Lê Thước dịch
Trông chùa Thiên Thai
Phía Ðông thành Huế, núi Thiên Thai,
Cách một giòng sông khó tới lui.
Chùa cổ hơi thu vàng nhuộm lá,
Sư già triều trước bạc trong mây.
Thương mình tóc trắng còn vương lụy,
Chung thủy chưa tròn với núi sông.
Năm trước đã từng thăm viếng Phật,
Cảnh hưng chuông cổ vẫn còn ngân.
Chi Ðiền dịch
Ngẫu thư công quán bích II
Xương hạp môn tiền xuân sắc lan
Cách giang dao đối Ngự bình san
Xuân tòng giang thượng lai hà xữ
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan
Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn
Ðào hoa mạc trượng đông quân ý
Bàng hữu phong di tính tối toan.
Nguyễn Du, Nam Trung tạp ngâm
Ngẫu nhiên đề trên vách nhà công II
Xuân đã hầu tàn trước Ngọ môn
Xa xa cách Bình-Lãnh cách sông cồn.
Cảnh xuân dòng nước về đâu nhỉ
Lần lữa bên trời một chức quan.
Ðầy đất mưa đêm nghe rả rích
Trên giường gối chiếc lạnh miên man
Hoa đào chớ cậy xuân yêu dấu,
Dì gió bên mình chực ghét ghen!
Chi Ðiền
Xuân đã hồ tàn trước cửa vua
Xa nhìn núi Ngự cách bên bờ
Xuân từ mặt nước đi đâu hết?
Quan tận chân trời mãi thế a?
Rải đất mưa đêm nghìn tiếng nhộn,
Quanh [1] giường hơi lạnh một mình trơ.
Hoa đào chớ cậy xuân yêu dấu,
Dì gió rình bên tính rất chua.
từ Thơ chữ Hán Nguyễn Du, của nhóm cụ Lê Thước [2]
Nổi hứng đề thơ trên vách cơ quan II
Ðáng xuân dần úa trước lầu
Ngọ Môn đối diện Ngự Bình bên sông
Xuân tàn nước cuốn bềnh bồng
Chức quan buộc chặt lao đao cuối trời
Gió lùa rả rích mưa rơi
Giường đơn xuân lạnh sầu vơi một mình
Chữ rằng chánh đại quang minh
Tị hiềm ghen ghét triều đình lắm phe.
Thân Bá Trường Sơn dịch ý
Thu chí
Hương giang nhất phiến nguyệt
kim cổ hứa đa sầu
vãng sự bi thanh trủng
tân thu đáo bạch đầu
hữu hình đồ dịch dịch
vô bệnh cố câu câu
hồi thủ Lam giang phố
tâm nhàn tạ bạch âu.
Nguyễn Du, Nam Trung tạp ngâm
Thu về
Trăng vờn sóng nước sông Hương
xưa nay ôm mối sầu vương trăng mờ
đầu thu tóc đã bạc phơ
mai đây nắm cỏ bơ vơ úa màu
miếng cơm manh áo lụy nhau
thân không bệnh vẫn lưng còng thảm thương
sông Lam bến nước chiều sương
ngoảnh đầu tạ lỗi hẹn nhàn non xanh
Thân Bá Trường Sơn phỏng dịch
Thu đến
Trăng thu lờ lững chiếu sông Hương
Gợi mối sầu xưa lắm đoạn trường.
Chuyện cổ chạnh thương mồ cỏ biếc,
Mái đầu thu sắc điểm màu sương.
Chiếc thân lận đận cùng năm tháng,
Chẳng bệnh lưng khòm nghĩ đáng thương.
Nhìn lại Lam giang phong cảnh cũ,
Lòng nhàn đành phụ với chim ngàn.
Chi Ðiền dịch
Tống nhân
Hương cần quan đạo liễu thanh thanh,
Giang bắc giang nam vô hạn tình.
Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc,
Cố hương thuần lão thượng kham canh.
Triều đình hữu đạo thành quân hiếu,
Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh.
Trù trướng thân tiêu cô đối ảnh,
Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh. (thanh)
Nguyễn Du, Nam Trung tạp ngâm
Hương cần đường cái liễu xanh
Bờ Nam bờ Bắc mối tình chứa chan.
Vườn hoa oanh đẹp ghét ganh,
Rau thuần làng cũ bát canh ngon lành.
Triều đình trọng hiếu giúp anh,
Thẹn mình trúc thạch không thành thề xưa
Bùi ngùi đối bóng canh khuya
Nghe mưa tầm tã , nghe ra rã rời.
Chi Ðiền
Nơi Trú Ẩn Về Ðêm
Tôi chạy bộ. Chân bước hỏng khỏi mặt đất, nhẹ nhàng như trong phim chiếu chậm. Chậm thật chậm. Một bước bên trái, một bước bên phải. Ðầu gối co thật cao, chỉa thẳng ra trước mặt, rồi bỏ xuống, hai bàn chân cựa quậy không nhất quyết, đạp đạp như để tìm mặt đất. Tôi muốn bước nhanh hơn. Nhưng chịu. Tôi cứ bước mà không tiến tới đâu hết. Lúc đó tôi nghe tiếng Carol.
Carol ngủ mà thính tai lắm. Ðụng một chút là nàng thức dậy. Tôi ít bao giờ ngủ say, mà ngủ cũng ít. Lúc nào ngủ được, tôi lại nằm chiêm bao, thấy những giấc mơ làm cho Carol hoảng s Bây giờ nàng đã quen quen rồi. Gì vậy, nàng hỏi. Nàng lập lại câu hỏi trong bóng tối căn phòng ngủ chúng tôi, và lần này tôi nghe ra giọng nàng. Tôi nghe thấy bàn tay nàng xoa tóc tôi. Tôi mở mắt. Ngủ đi, Carol nói. Ngủ đi mà. Carol kéo tay đi, cựa quậy một chút dưới chăn. Tôi nằm ngửa, ậm ừ một tiếng. Rồi tôi nói nhỏ, xin lỗi, anh xin lỗi cưng. Tôi nằm yên lặng một lúc, rồi tôi nghe tiếng Carol. Nàng thở dài. Hình như là tiếng ngáp không chừng. Tôi nghe tiếng nàng ngẩng đầu lên, kéo cái gối lại ngay ngắn. Bây giờ nàng nằm nghiêng, quay mặt ra cửa sổ. Em ngủ đi, tôi nói, và đưa mắt nhìn về hướng vợ tôi. Carol không nói gì. Sau một hồi tôi lại nghe nàng thở, đều đặn. Tôi thở dài, nhắm mắt lại. Những hình ảnh rời rạc của cơn mơ trở lại trong trí óc. Tôi lại mở mắt ra. Carol, tôi gọi nhỏ, một tiếng thì thầm lạc mất trong bóng tối. Lần này, tôi gọi lớn hơn. Carol. Bộ anh nói cái gì hả? Em nghe anh nói cái gì hả? Vợ tôi không trả lời. Tôi chờ một lát coi nàng có nói gì không, nhưng nàng vẫn chỉ tiếp tục những hơi thở đều đặn. Tôi quay người nằm nghiêng, mắt vẫn mở, và sau một hồi lâu tôi nhận ra được mấy cái bóng đen của các thứ đồ vật trên cái bàn nằm kẹt giữa đầu giường và bức tường. Tôi lại xoay người nằm ngửa, thấy nóng gần đổ mồ hôi. Có lẽ tôi đổ mồ hôi thật. Carol khịt khịt mấy tiếng, giống như nàng đằng hắng, nhưng những tiếng động nghe như thoát ra từ lỗ mũi của nàng. Sau đó nàng nói, em ngủ không được. Tôi thở dài, chưa kịp xin lỗi, nàng lại nói, em không biết anh nói cái gì. Lúc nào mớ ngủ anh cũng nói tiếng Việt hết. Tôi đẩy mền ra, từ từ ngồi dậy khỏi giường. Tôi vào phòng tắm đi đái, và ra hiên hút thuốc. Trời lạnh, và đen thẳm, lặng yên, trừ tiếng mưa rơi rỉ rả, nhỏ thôi. Tôi ngồi trong chiếc ghế mây, quấn cái mền mỏng quanh lưng và trên vai như là quấn pông-sô, và tôi cầm mấy cái góc mền trong bàn tay trái, cầm luôn cả điếu thuốc nữa. Tôi với tay phải lấy chai rượu nằm kẹp giữa chồng sách báo cũ và rót một ít rượu vào cái ly nhỏ. Một lúc sau tôi thấy ấm ấm đôi chút, nhưng hai bàn chân lại thấy lạnh, làm tôi phải co chân lên nhét dưới hai bắp vế, rồi lại làm rớt cái mền bởi vì vừa cầm điếu thuốc lá vừa cầm cái mền thật khô Tôi kéo một hơi cuối cùng và đứng dậy. Tôi uống hết ly rượu, dụi điếu thuốc vào trong ly. Tôi xếp mền đi vào trong nhà, quẳng điếu thuốc vào sọt rác và cái ly vào trong bồn rửa chén, rồi tôi nằm lên ghế xa-lông mà ngủ.
Trời sáng, con mèo gào như lên cơn điên. Tôi thức dậy cho nó ăn. Tôi mở cho nó một hộp đồ ăn, nó cà mình vào hai chân tôi. Tôi chợt nghĩ, thấy tức cười là tôi nói với vợ tôi bằng một thứ tiếng, chiêm bao lại bằng một thứ tiếng khác. Tôi đến bên cửa sổ, thấy ở bên ngoài lớp lá rụng ướt đẫm, nhưng trời đã thôi mưa. Tôi pha cho mình ly cà phê, và lắng tai nghe tiếng động trong phòng tắm. Tôi làm sẵn một ly trà cho Carol, mang đặt trên bàn ăn. Carol đến đó ngồi, nhìn vào mảnh gương soi tí hon mà tô son trên đôi môi. Em khỏe chứ, tôi hỏi, và Carol nói, ừ, em thường. Sao vậy? Không, anh hỏi vậy thôi. Tôi vào trong bếp rót thêm ly cà phê. Anh coi chừng quên con Bonzo đó, vợ tôi nói lúc tôi vừa định bước ra ngoài hiên. Không có quên đâu, tôi trả lời. Có hẹn mười một giờ đó, mà đến chỗ ông thú y gần cái tiệm đồ gỗ đô Con Bonzo nó ghét cái sở thú y kia lắm. Ðồ con mèo mà, tôi nói sau khi trở vào phòng ăn. Mèo nào mà chả ghét sở thú y. Anh không muốn mang nó đi thì để em. Mai em mang nó đi cũng được. Anh có nói là anh không mang nó đi đâu. Anh không bao giờ chịu đi đâu hết. Trừ ban đêm. Ðang nằm bên cạnh em vậy mà anh bỏ đi tuốt qua bên phía bên kia quả địa cầu. Cả Carol vói tôi cùng thở một hơi dài, và tôi quay vào trong bếp. Em xong thì kêu anh, tôi nói, rồi bỏ ra ngoài hiên hút điếu thuốc. Ra đó rồi tôi lại mang chai rượu, đổ một ít vào ly cà phê. Tôi cất chai rượu đi, rồi lại mang nó ra, đổ thêm một ít nữa vào ly cà phê. Con Bonzo chạy xông từ trong bếp ra như mọi buổi sáng. Tôi giật mình, làm đổ rượu lên tấm thảm. Tôi nói, Bonzo, mày với tao chút nữa đi bác sĩ thú y. Mười rưỡi là mày phải sẵn sàng nghe chưa. Trễ nhất là mười giờ bốn lăm. Không thì mày chết với tao với má mày. Thấy nó không trả lời, tôi kêu, meo meo. Con Bonzo chỏ cái mũi vào chỗ tôi làm đổ rượu, một giây thôi, rồi nó ngẩng đầu nhìn tôi, cái thân hình cong vẹo theo cái lối kỳ quặc của loài mèo, đầu thấp tè dưới đất, lưng cong lên, cẳng chân chụm lại, còn đít với đuôi thì chổng ngược lên trời. Nó ngoáy ngoáy cái mũi nhìn tôi chằm chập. Tôi giả vờ cúi xuống, vù chụp nô Nhanh như chớp, nó chồm người chạy, lấy đầu đẩy cánh cửa lưới tung vào trong bếp. Cánh cửa bật tung trở lại, đánh vào khung cửa kêu cái rầm, đúng lúc Carol gọi tôi. Tôi đi vào nhà, lấy chùm chìa khóa và chuẩn bị chở nàng đến sở ở dưới phố. Carol nói, đồ con mèo mắc dịch. Cứ đẩy cái cửa rầm rầm hoài. Không hiểu sao, tôi nói, anh đó, cưng ơi. Anh đánh cái cửa đô Tôi nghĩ, chắc lát nữa đến sở thú y, có lẽ nên ghé qua cái tiệm đồ gỗ. Mua cái gì chận cái cửa. Cho nó khỏi đánh ra đánh vô rầm rầm nữa.
Có chiếc xe chạy làm sao xoay tròn trên đường Stonecreek, ngay trước mặt thư viện, tông vào chiếc xe Nhật. Chúng tôi bị kẹt giữa mấy chiếc xe và đám đông hiếu kỳ.
Carol nói, coi mấy thằng cảnh sát đứng láng cháng, quơ tay quơ chưn, vô tích sự.
Người ta đang lập biên bản mấ Giống trong ti-vi. Chiều thứ ba, thứ năm hay chiếu phim cảnh sát.
Sao họ không bắt người ta tránh đường ra đi? Biên bản cái gì. Người ta phải đi làm chứ bộ. Trễ giờ cho coi. Khốn nạn. Chỉ tại trời mưa, người ta không biết lái xe. Carol cãi, mưa đâu mà mưa.
Tôi định nói, không sao đâu, không trễ đâu, thì Carol đổi đề. Nàng lôi chuyện con Bonzo ra. Nàng nói, anh có để ý thấy bữa rày con Bonzo nó kỳ cục làm sao không? Kỳ cục cái gì?
- Nó chạy nhảy lung tung hả?
- Mèo nào mà không vậy. Hồi ở Việt Nam, nhà anh có năm con mèo. Chạy nhảy đủ kiểu.
- ừ, nhưng mà đó là mèo ở Việt Nam. Mèo ở cái xứ anh...
- Thôi đi em ơi. Nói vậy mà nói được. Mèo nó đâu có đánh giặc đâu.
- Ai biết được. Ai biết được hồi đó chuyện gì xảy ra làm sao.
Tôi không nói gì. Tôi không biết nói gì với Carol mỗi lúc nàng phát ngôn lung tung như vậy. Chuyện gì xảy ra hồi đó thì tôi biết, nhưng tôi giải thích không được. Bao nhiêu năm nay tôi có giải thích được đâu, bây giờ không dưng biểu tôi giải thích thì cũng chịu thôi. Bởi vậy tôi không nói gì hết. Tôi lái xe đi quá chỗ có tai nạn, và tại một vài ngã tư, tôi thấy đèn xanh đèn đỏ đều tắt ngúm, tôi đoán là tại vì vụ bão cuối tuần rồi. Lúc tôi chạy ngang đường Stockbridge, chuẩn bị quẹo vào đường West Mulberry, Carol lại lôi cái giấc mơ ra.
Nàng hỏi, hồi đêm anh mơ cái gì vậy? Tôi quay kính xe xuống một chút. Gió lùa sang phía bên Carol, thổi tóc nàng bay bay. Ðôi khi đầu tóc của nàng làm tôi nhớ mấy thửa ruộng bên nhà hết sức. Vàng óng, rậm rạp, đong đưa trong gió. Carol hỏi, anh nằm mơ thấy bị lính đuổi chạy nữa phải không? Chạy như phim chiếu chậm phải không?
Tôi quay đầu về phía nàng. Em biết vậy rồi, anh còn kể cho em nghe làm chi?
- ừ, nhưng mà anh cứ nói tiếng Việt không mà.
- Biết sao gi Ðâu phải lỗi tại anh đâu.
- Mà bộ anh nói chuyện với kẻ thù hay sao? Carol nói rõ từng chữ một. Anh nói chuyện với kẻ thù hâ
Tôi lắc lắc cái đầu. Tôi nghĩ lại rằng từ trước tới giờ tôi chưa có nói gì nhiều với Carol về những cơn mơ này. Tôi có nói gì với mấy thằng lính giặc đâu. Ðúng là tụi nó hiện ra trong cơn mơ, mà hồi chuyện đó xảy ra thì tụi nó cũng có đó thật. Nhưng tôi không nói gì với Carol hết.
- Anh có bao giờ nằm mơ thấy chuyện gì khác không, Carol hỏi lúc tôi chạy qua cầu. Anh có mơ thấy em hồi nào không?
Chúng tôi tới gần ngôi trường của nàng. Tôi vẫn không nói gì. Thật ra tôi đang nghĩ đến con Bonzo.
Carol hỏi, không chịu nói chuyện với em phải không? Anh có chịu kể cho ai nghe chuyện anh ngủ mê ú ớ không? Ben, nàng kêu. Ben là tên Mỹ của tôi. Chính Carol đặt cho tôi cái tên đó tại vì tôi tên thật là Bình. Hồi đó chúng tôi mới quen nhau được chừng một tháng.
Anh phải đi gặp người ta, nói chuyện đi. Nói cái gì, tôi trả lời. Có chuyện gì đâu mà nói. Nhưng tôi đã phân bày với nàng nhiều lần vậy rồi. Nàng có tin tôi đâu. Carol nói, mỗi lần anh nằm mơ vậy, em thấy mệt quá. Anh phải làm sao cho hết mơ ngủ vậy đi. Không thì phải làm sao giải quyết cho xong.
Tôi quẹo vào đường Kingspark, tự hỏi con Bonzo mà choảng nhau với mấy con mèo khác thì ra sao.
Ben, Carol nói. Em hỏi, sao anh không trả lời? Không trả lời em hả? Anh đang suy nghĩ. Mà tôi đang suy nghĩ thật. Tôi đang nghĩ tới con Bonzo. Ăn uống thì mạnh dạn lắm, nhưng mà chuyện gì khác thì nhác như ma. Ðồ con mèo cù lần. Tôi suy nghĩ, tại sao loài mèo có con lại thích choảng nhau, có con lại không.
Tôi lái xe vào bãi đậu và dừng lại chỗ tôi vẫn thường hay để cho Carol xuống. Không sao, tôi nói. Em đến vừa đúng giờ, phải không?
Carol ngồi yên. Rồi nàng tháo dây nịt, cầm lấy cái xách tay với mấy cuốn sách, ôm vào trước ngực, giống như mọi ngày khi nàng chuẩn bị xuống xe. Nhưng nàng không nghiêng người qua hôn tôi. Tôi nghiêng về phía nàng, nàng kêu tên tôi. Nàng nói, Ben, anh còn nhớ không? Nhớ cái gì, tôi hỏi, xong rồi ngả người ra sau. Mình gặp nhau ở chỗ đó kìa. Ngay chỗ đó, trong lớp học đó. Nàng chỉ tay nơi cửa sổ bên hông tòa nhấ Tòa nhà sơn màu xám, tường xi-măng không sơn. Nguyên cả toà nhà màu xám xịt. Phải rồi, tôi nói với Carol. Hồi đó Carol là cô giáo, tôi vừa được việc, người ta cho tôi vào làm phụ giáo cho nàng. Học trò của nàng đều là người tị nạn Việt Nam, giống như tôi. Hồi đó tôi mới qua Mỹ được một năm. Ðến nay là mười một năm rồi. Tôi với Carol cưới nhau đã được tám năm. Tôi đang suy nghĩ, tám năm, vừa lúc đó Carol cũng đang nghĩ đến chuyện đó. Nàng nói, Ben nè, anh có tưởng tượng nổi mình lấy nhau tám năm rồi không?
Tôi nói, Tám năm rồi.
Tôi chờ nàng nói gì thêm. Nàng nhìn ra ngoài cửa kính xe, và khi nàng lên tiếng, tôi tưởng nàng nói gì với chính mình. Tôi nghe nàng không rõ.
Nàng nói, lần cuối cùng em nói tới chuyện có con, anh lại mang về con mèo.
Tôi thót mình. Ðâu phải. Anh cho em con Bonzo làm quà sinh nhật. Quà sinh nhật của em mấ Sao em lại nói cái gì kỳ vậy? Ben, Carol nói. Có khi nào anh nghĩ đáng ra anh có một người vợ khác không? Tôi nhìn Carol. Nàng nhìn vào mắt tôi. Rồi nàng lập lại, có không? Anh có ước là anh đã lấy một người vợ khác không? Vợ nào, tôi hỏi. Hỏi gì kỳ vậy? Vợ Việt Nam.
Tôi quay hướng nhìn, tắt máy. Tôi hỏi, em nói gì vậy?
Carol ngồi yên. Tôi nói, em khùng quá. Nhưng tôi nghĩ, có thể. Có thể tôi mà có vợ người Việt Nam thì người đó sẽ thông cảm được. Người đó sẽ hiểu được tại sao tôi bỏ chạy khỏi cái hầm trú ẩn tối hôm đó. Người đó sẽ biết là chính mấy người lính trong đơn vị của tôi đuổi theo tôi, bởi vì tôi không ở lại, giúp cho thằng lính bị đè bẹp dưới mấy bao cát. Người đó sẽ thông cảm cho tôi. Sẽ hiểu rằng lúc đó bên địch đang dí chúng tôi, đuổi theo chúng tôi sát nách, mà mấy người cùng đơn vị cũng đuổi theo tôi. Tôi nghĩ về những chuyện này, nhưng tôi nói với Carol, em khùng thật. Em là vợ của anh. Không có vợ Việt Nam, không có ai khác hết. Em hiểu không? Thôi vô lớp đi, trễ bây giờ.
Carol quay người, mở cửa xe. Nàng nhỏ nhẹ, Ben ơi, em yêu anh. Em không có muốn anh có vợ nào khác hết. Thôi anh về đi. Tối em về rồi nói chuyện. Em không khùng đâu. Carol bước ra khỏi xe, và tôi nghe giọng nàng nói, anh làm cho em điên.
Tôi vươn tay về phía nàng, nhưng cánh cửa đóng sầm lại. Tôi kêu, Carol, và chồm người ra khỏi xe. Bây giờ giữa tôi với nàng là chiếc xe. Chúng tôi lẳng lặng nhìn nhau.
Một lát, Carol nói, em phải đi vô lớp. Mà đừng có quên con Bonzo nghe. Nàng nhắc lại, đừng quên đó, rồi quay gót đi. Nàng bước nhanh. Không phải phim chiếu chậm. Nàng bước nhanh, xa dần. Ðể tôi đứng một mình.
Tôi ngồi vào xe, bật chìa khóa và nhấn nhẹ chân ga. Tôi thì thầm, lát tối gặp lại, rồi tôi kêu tên con mèo. Bonzo. Sẽ không quên con Bonzo, không quên đâu. Tôi tự nhủ, không quên, không quên, rồi đưa tay kéo cửa xe đánh rầm.
Nguyễn Quí Đức