vhnt, số 102
10 November 1995
Trong số này:
+ thư vhnt
+ thư bạn đọc
+ 1 - thơ, Mùa Thu.........................................Phan Lê Dũng
+ 2 - thơ, Viên Đá Cuội Xuống Hồ Kỷ Niệm....Cỏ Nhớ/Lộc Quy
+ 3 - thơ, Gợi Nhớ............................................Ðào Thùy Trang
+ 4 - thơ, Ao Ước...............................................Nhã Lan
+ 5 - thơ, Một Lần Nhìn Em.............................Lý Hồng Văn
+ 6 - thơ, Chiều Tím.................................Ðặng Khánh Vân
+ 7 - truyện ngắn, Tình Khúc.....................Trang Hạ/Dung Nguyen
+ 8 - truyện ngắn, Ngôi Nhà Thờ...............Dương Hùng
Gửi bạn,
Nơi tôi ở mùa thu đang rất êm đềm. Những cánh rừng tuần rồi còn đỏ rực, sáng nay đã nhuốm bệnh héo úa. Những cành cây tàn tạ, thân xơ xác vừa trải qua một trận gió lớn đêm qua. Lá đổ về cuối sân, co ro tụ trong một góc khuất, trời choàng một dải sương nhẹ, lạnh gây gây vừa đủ thấm lòng.
Ở đây có những nỗi buồn, nỗi buồn êm đềm và thắm thiết tựa rừng cây, lặng lẽ mà rạo rực... và nao nao một nỗi nhớ. Rừng cây im phắc, rồi một cơn gió rào rào làm bay những cánh lá. Cánh đồng cỏ, một bãi trống, đống rạ khô, đàn bò nhẩn nha, mấy nhà kho, và một thân cây khô chim về đậu đen trên cành. Một thế giới lặng lẽ, có lá vàng, có mùa thu, có nỗi hiu hắt của "Một Trăm Năm Cô Ðơn" mà Gabriel Garcia Marquez đã diễn tả. Nỗi cô đơn triền miên đeo đẳng con người - số phận của những nhân sinh loay hoay trong nỗi đau bất tận của chính mình. Hãy nhìn xem nhân vật Aramanta của Marquez ngồi dưới hiên khâu áo, đơm tháo những cúc áo, mạng đi mạng lại một vết rách, ngày này qua ngày khác chỉ để chờ đợi cái chết đến mang đi. "Trăm Năm Cô Ðơn" (A Hundred Year of Solitude) làm cho người đọc rùng mình sợ!
Thân phận và tình yêu. Hai phạm trù lớn của con người. Người ta có thể nghĩ tình yêu như là một phạm trù mông lung, bao la và mang rất nhiều ý nghĩa. Thì bởi tình yêu là của chung, của nhân loại, nên tình yêu có thể chia sẻ trao đổi với nhau (là gia tài chung). Và bởi thân phận là một phạm trù riêng tư, nên nói đến thân phận là bước vào một không gian khép kín, nơi đó chỉ có cá nhân và thân phận đối diện nhau, đối chọi nhau, và hiểu nhau. Cho dù tôi có rất yêu bạn, nhưng tôi chỉ có thể yêu bạn mà thôi, vì tôi không thể gánh lấy thân phận của cả tôi và bạn. Vì bởi thân phận là một phạm trù riêng tư, nên thân phận rất đỗi cô đơn.
Mùa thu vẫn rất êm đềm, nhẹ như là chiếc lá đang chao, rồi nhẹ sa lên vai áo của bạn. Gửi đến bạn một chút êm đềm mùa thu nơi tôi.
thân ái,
PCL/vhnt
Mùa thu, Nov. 9, 95
Thư Bạn Đọc
Chào quý bạn,
Hai hôm nay không thấy vhnt phát hành và không được tin tức gì,cũng lo lo. Không rõ chị Chi Lan có qúa lo lắng việc nhà hay cảm thời tiết không? Ước mong chị nhẹ nhàng lướt được qua mọi sự để trở lại với các độc giả vẫn từ lâu ngưỡng mộ và trông đợi chị, người văn hữu khả ái của diễn đàn vhnt này.
Thân ái
Thái Vũ
trả lời của PCL:
Cám ơn anh Thái, vì bận chuyện gia đình và công việc của sở nên ra báo trễ hơn thời hạn, mong anh và các bạn thông cảm. Vẫn nhận đầy đủ bài gửi về vhnt@saomai.org, sẽ giữ một số bài cho những số đặc biệt, phụ trội sẽ ra nay mai, xin bạn kiên nhẫn chờ đợi.
Cám ơn bạn đọc đã hỏi thăm và gửi bài thường xuyên. Sẽ gửi email riêng khi có thì giờ hơn một chút. thân mến.
Mùa Thu
Trời mùa thu
Anh cần nắng hạ
Mặc anh cần,
Mưa lạ vẫn đổ tuôn
Nghe như tiếng vọng về nguồn.
Anh ngồi đếm những giọt buồn mãi trôi.
Mùa thu, mùa thu thôi.
Anh nhớ hàng phượng vĩ
Mọc trên đám đất bồi
Với từng cành lá đỏ
Tuổi nhỏ,
Mộng mơ,
Xoay xoay theo từng con nước.
Lá vẫn rớt rơi
Lăn trên triền dốc mỏị
Anh hay lên mé trái vực đồi
Mỗi đêm
Một mình ngồi chờ sao chuyển
Nghe tiếng hú triền miên
Của cõi đời bên kia,
Của gió.
Phan Lê Dũng
Viên Đá Cuội Xuống Hồ Kỷ Niệm
Thư em gởi nửa tờ xa vắng
chữ nghiêng theo năm tháng xa mù
viên đá cuội xuống hồ sâu, lắng
một mình tôi bọt nhớ thiên thu.
Tôi có gặp em thời quá vãng
học lớp bên chung ngõ đi về
trường huyện lỵ có em là bạn
đẹp trong tôi ngày tháng miền quê.
Em đã thiếu tôi lời từ tạ
lỡ mùa thi, bỏ lớp, xa trường
chiều phố huyện ngấn buồn hoang dã
có mình tôi gióng một tiếng chuông.
Mười năm sau người về, em gởi
nửa tờ thư nắn nót ngay hàng
như khuôn phép trong lời thăm hỏi
và chuyện mình kể chẳng đầy trang.
Tôi với em sống đời xa lạ
lớn khôn như chuyện rất bình thường
bèo giạt trôi thoáng nhiều năm đã
khác nhau phần đất nhận quê hương.
Nên tôi hiểu thư em nét tím
buồn, vui, thôi, gói chỉ đôi dòng
viên đá cuội xuống hồ kỷ niệm
đục một lần rồi lại lắng trong.
Cỏ Nhớ
Gợi Nhớ...
Lăn lăn trên đường
Từng giọt nước trong
Quấn quít, ngập ngừng
Chảy tìm mênh mông...
Thu về, nhớ hạ
Rực cháy con tim
Giữa dòng người lạ
Nụ hồng, chờ em...
Mưa rơi lành lạnh
Góc nhỏ bình yên
Vần thơ, từng mảnh
Gợi nhớ, thật hiền...
Thùy Trang
Nov'95
Ao Ước
Em vẫn thường ao ước
Mùa thu lá vàng rơi
Có người sẽ tìm nhặt
Cho em một chiếc thôi
Em vẫn thường ao ước
Mùa đông tuyết phủ vây
Có người sẽ tìm đến
Cùng đếm hoa trắng bay
Em vẫn thường ao ước
Khi mùa xuân vừa sang
Có người cùng em dạo
Ngắm cỏ dại hoa ngàn
Em vẫn thường ao ước
Khi nằng hạ thắm tươi
Có người đưa tay đón
Dìu em suốt quãng đời
Những điều em ao ước
Mãi vẫn là ước ao
Những điều như bình dị
Nhưng xa biết chừng nào
Nhã Lan
Một Lần Nhìn Em
Thì thầm vang nhẹ trong Anh
Nâng ly rượu nhỏ thắm vành môi khô
Lúc Em đi dạo bên hồ
Khi Anh bỗng thấy hư vô chập chùng
Mắt Em sóng biếc trùng trùng
Khơi lên bao nỗi mịt mùng thiên thu
Nhớ Em bóng dáng sương mù
Tan đi vào lúc Xuân Thu dậy thì
Gió ơi nổi bão lên đi
Cho Anh quên chút hoài nghi trong lòng
Em ngồi ngẩng mặt bên song
Anh nghe tư tưởng cháy dần trong nhau
Gió thu phớt lạnh má đào
Bỗng dưng Anh thấy nao nao trong lòng.
Lý Hồng Văn
Chiều Tím
Hoàng hôn
nắng ngã
phai màu
chiều buông sợi nhớ
đan vào tim ai...
Bờ vai xõa suối tóc dài
sợi thương
sợi nhớ
sợi bay hững hờ...
Hoàng hôn
ủ rũ
bơ phờ
chiều tuôn giọt nhớ
đọng bờ môi ai...
Rèm mi, nhỏ lệ
lăn dài...
giọt thương
giọt nhớ
giọt lay cõi lòng
Hoàng hôn
rũ bóng giữa dòng
Chiều thay màu áo
tím hồng nơi đây
Tím buồn,
lan khắp chân mây
Tím - gieo nhung nhớ
Tím - xây mộng tình!
DKV
11/95
Tình Khúc
Tôi quen Vĩnh khi sắp sửa mười chín tuổi. Mọi cái xảy ra giống như khi bạn đi một mình trên phố và bỗng dưng nghĩ rằng: "Mình dừng lại có được không?". Vĩnh chỉ sinh trước tôi có một tháng... Vào cái ngày mùa đông mà tôi lơ ngơ ôm cuộn giấy vẽ và xách cái túi nhỏ đựng mấy tuýp màu đến, Vĩnh còn là cậu trai có ánh mắt dài dại, mớ tóc đằng trước dài đến ngớ ngẩn giấu đi một phần cái nhìn bất kham. Trên tường nhà Vĩnh treo la liệt các bức vẽ, hơi mờ bụi hoặc ít ra cũng mang dáng vẻ như thế. Các bức vẻ còn ẩn giấu một cái gì chưa định hình. Khi đó Vĩnh thờ ơ lắm. Tôi gói kín lại dáng dấp kiêu hãnh, hơi nghiêng đầu nhờ Vĩnh vẽ hộ một bức màu nước. Mắt tôi chẳng biết đặt vào đâu, cuối cùng tôi nhìn chằm chặp vào bàn tay cậu ta phía đối diện. Lời tôi nói ra rơi nhẹ tênh. Chẳng còn biết làm gì để lấp khoảng trống im lặng, tôi liền kể với Vĩnh rằng đây là bài vẽ để thi học kỳ của bạn tôi đang học khoa sư phạm tiểu học. Rằng trước đây bài kiểm tra của nó tôi thường vẽ hộ nhưng điểm chưa bao giờ quá 5. Rằng tôi cũng rất thích treo trong nhà một bức tranh vì hình như sắc màu hội họa làm gian phòng ấm áp hẳn lên. Tôi huyên thuyên ngớ ngẩn, đến khi nhận ra Vĩnh vụng về giấu bàn tay mảnh mai ra sau lưng để tránh cái nhìn của tôi, tôi im bặt rồi xin phép về.
Lần sau gặp lại, Vĩnh đã vẽ xong cho tôi một ngôi chùa cổ gạch ngói xanh đỏ, tôi cho là đẹp lắm. Vĩnh đã không phải vụng về giấu đôi bàn tay ra sau lưng nữa. Hôm đó tôi đã nhìn lên những bức bột màu trên tường, nói rằng thích bố cục trong tranh tĩnh vật của cậu: "Tại sao trong tranh của Vĩnh những gam màu sáng không làm bức tranh rạng rỡ mà chỉ tóat lên tâm trạng buồn , hơi u uẩn? Ở đây không phải là nỗi buồn vu vơ mà là một thứ trầm mặc trước hiện tại, được Vĩnh chấp nhận?" Vĩnh không trả lời cho tôi những câu hỏi ấy. Cậu chỉ nhìn tôi và những bức tranh thật lâu. Im lặng! Lúc ấy trong phòng không chỉ có hai người mà còn bạn tôi nữa. Tôi ngốc lắm, ngỡ rằng mình đã làm cho Vĩnh phật ý nên đỏ mặt, bối rối rút lui, không quên đem theo bức vẽ ngôi chùa cổ và để lại một lời cám ơn lí nhí.
Hôm sau bạn gái tôi đã cười khanh khách kể toáng lên giữa lớp: "Mày về rồi, ông Vĩnh mới kêu: Cô bé này bao nhiêu tuổi? Mười chín, bằng tuổi thôi à. Thế mà nhận xét của cô bé cứ như là một người hai ba, hai tư tuổi vậy!" Vĩnh khen hay chê tôi cũng chẳng biết nữa. Nhưng tôi nhận thấy trước mặt Vĩnh, hình như bạn gái tôi hiền và ý tứ hơn.
Tôi có một cái phòng riêng nho nhỏ, giới hạn bằng một bức tường lửng lơ và cái tủ đứng nặng nề mà tác dụng lớn hơn cái hòm quần áo chỉ ở chỗ tôi có thể dán hoặc treo lên đó cái gì mà tôi thích. Tôi đánh dấu ngày đầu tiên trở thành sinh viên bằng việc treo lên tủ tờ quảng cáo to tướng của một ban nhạc pop nổi tiếng những năm 60-70. Khi phát hiện ra Vĩnh có ánh nhìn của một trong bốn ca sĩ nổi tiếng đó, tôi đã gỡ bức ảnh xuống, cuộn lại rồi đút vào tận xó tủ. Không dễ thú nhận ấn tượng Vĩnh để lại cho tôi với những câu hỏi ngắn, chính xác và hơi bất cẩn. Lần đầu đến chơi nhà tôi, Vĩnh đã ngạc nhiên vì khoảng trống bất thường mà lẽ ra tôi phải treo lên một mảng màu nhẹ nhàng.
Tôi không biết cách nói dối , đành nhún vai rất ngộ nghĩnh: "Ðôi khi người ta cũng phải biết nói câu: chưa thể..." Việc gì đến phải đến. Tuần tới Vĩnh đem tới cho một bức tranh mới về.
Tôi đang tập chơi guitar. Tỉ mỉ theo từng nốt nhạc, đôi lúc không kìm được tôi gảy lung tung cả sáu sợi dây đàn không theo một nhịp điệu nào cả. Vĩnh cười sự phá phách trẻ thơ ấy rồi cẩn thận cắt lấy những bản nhạc hoặc những bài báo đại lọai như: John Lennon đã chết như thế đấy.... Tám năm của ABBA cho tôi đọc. Tôi chỉ muốn hát lên được nỗi lòng vu vơ của mình, không có ý định trở thành ngôi sao ca nhạc nên để lung tung mỗi nơi một tờ. Khi nào ngồi cạnh Vĩnh, tôi lại lục lọi ra một đống những câu hỏi ngớ ngẩn: "Sao vệt nắng này Vĩnh vẽ nhạt thế, Hoa biết là nắng buổi sớm hay nắng ban chiều? Vĩnh có vẽ được tiếng chim một bình minh mưa không? Tại sao tranh của Vĩnh im lặng như thế?" Có lúc Vĩnh trầm ngâm, có lúc cậu giảng giải tôi hàng giờ liền với tất cả say mê. Nét hoang vắng trong mắt Vĩnh thóang bừng lên như lửa rồi lại xa xăm. Một lần như thế, Vĩnh chiều ý tôi vẽ thêm một bông hoa đại rụng trên sân chùa. Rồi Vĩnh ngẫu hứng vẽ liền một hàng bông đại trắng. Bức vẽ sắp hòan thành phải bỏ đi nhưng tôi khóai chí đem nó về treo trong phòng. Những bức tranh của Vĩnh bắt đầu chiếm dần chỗ trong phòng tôi.
Vĩnh không biết nổi nóng nhưng hơi ngang ngang. Tôi cũng hơi ngang ngang. Tôi cười khi người ta khóc. Và đôi khi, khóc cho cái người ta cười. Giá trị của mọi cấu trúc ngữ pháp và từ mới lộn tùng phèo khi tôi đi chơi cùng Vĩnh. Tôi sẵn sàng đi tơi bất cứ đâu chỉ để ngồi lặng đằng sau xem cậu ta vẽ, hỏi những câu hỏi quá ngu ngơ hoặc quá thâm trầm. Ngược đường gió, chúng tôi trở thành hình như là hai gam màu ăn ý nhau.
Rồi... tôi biết không thể nói với Vĩnh những câu chuyện bồng bột vô tâm nữa khi bắt đầu gọi Vĩnh là anh. Trong tranh của Vĩnh đã có chút xôn xao thầm kín. Chương trình đại học làm cả hai cũng cảm thấy thiếu thời gian. Khi tôi ôm lấy cây đàn, những nốt nhạc không còn rời rạc nữa. Vĩnh cũng rất thích những tình khúc Nhật Bản. Có lẽ bởi vì khi hát nó cho anh nghe, tôi nói được một chút nỗi lòng mình. Một lần Vĩnh nói rằng anh vẽ một bản tình ca. Tôi chỉ nhìn thấy trong tranh khuôn mặt tôi, đôi môi hé mở ngơ ngác. Sau mái tóc dài rối bời là đôi mắt nâu ai đó mang nét nhìn hoang dại, bất kham. Bài tình ca đó tôi chẳng bao giờ hát được. Những ngón tay bất lực, tôi lại gảy lung tung vào cả sáu sợi dây đàn, tìm thấy ở giữa lộn xộn thanh âm một chút gì đó thiết tha ấm áp vô cùng. Tranh của Vĩnh bắt đầu được để ý đến. Lúc đó tôi được nhận vào làm trong một hội chợ quốc tế sắp mở trong thành phố. Với cả Vĩnh và tôi, sinh viên năm thứ ba, như thế là khá lắm.
Khi đó tôi hai mươi tuổi, vẫn khen cái gì người ta chê và chê những gì người ta khen Vĩnh. Vĩnh không bao giờ vẽ tôi nữa nhưng tôi nhìn thấy bóng dáng mơ hồ của mình trong những cô người mẫu của anh. Thế có nghĩa là anh nhớ về tôi cả khi ngồi trước những người con gái khác. Tôi thấy mình bồn chồn và lạ lắm, khác xưa nhiều sau mỗi tối đạp xe một mình lang thang, không biết gọi tên nỗi thổn thức trong lòng.
Ngày ấy tôi vụng dại hơn bây giờ nhiều, không biết giữ lấy bông cúc họa mi tuổi hai mươi dâng tặng chỉ vì không dám tin những cánh hoa trắng mỏng kia là có thực. Ðêm ở biển , Vĩnh đã không kìm được ôm chặt lấy vai tôi, cùng nhìn ra hướng xa xôi mờ mịt. Tôi nghe thấy, tiếng gió thổi hù hù, tiếng biển gầm gào, tiếng trái tim Vĩnh đập trong ngực tôi hồi hộp. Tôi biết tóc mình xòa bay lên mặt anh, qua đôi mắt có ánh nhìn dài dại. Sóng đêm liếm lên bàn chân mình và vòng tay anh siết chặt. Rồi thôi.
Tôi cứ chờ đợi mãi. Nước mắt rơi trên dấu chân tôi khi khuya về, tôi bước lùi về phía bờ, nghe lòng biển còn thổn thức những điều chưa nói được. Rồi có khi nằm úp mặt xuống gối, trong tiếng gió xóay lên ngọn phi lao bờ biển, tôi nghĩ rằng tất cả tựa như một giấc mơ. Tôi đã không giấu được nỗi khắc khoải trước biển, ngóng đêm xuống được đứng cùng Vĩnh, anh ghì chặt lấy vai tôi... Ðể rồi sự lặng thầm theo vào giấc mơ lạ lẫm.
Trang Hạ (Hà Nội)
Dũng Nguyen sưu tầm
Ngôi Nhà Thờ
Buổi trưa chủ nhật, tôi gọi điện thoại cho Huy; từ Alaska qua Pennsylvania cách nhau bốn giờ. Con Huy trả lời:
- Thưa bác là ai ạ?
- Cháu nói với ba là bác Hùng gọi.
Ðiện thoại im lặng hơn một phút, rồi vợ Huy tiếp máy:
- Nhà tôi mất thứ hai tuần trước.
Nước mắt ưá lên; vợ tôi tuần rồi dục gọi Huy mà tôi cứ lần lữa. Cách đó ba tuần tôi nói chuyện với Huy, thấy giọng nói mạnh mẽ, rõ ràng. Huy kể mỗi ngày đi bộ hơn một tiếng, không phải đi "chemo-therapy" nữa; tôi mừng và mong bệnh tình Huy đã ổn định.
Tiếng vợ Huy nhẫn nhục qua điện thoại:
- Nhà tôi mất cũng nhanh, không đau đớn gì.
Tôi nói chuyện với vợ Huy cũng lâu, nhưng không nhớ lại được gì hết. Tôi chỉ còn như in trong đầu lần Huy gọi tôi khoảng nửa đêm Anchorage cách đây gần một năm. Lúc đó là bốn giờ sáng ở Pennsylvania; tôi ngạc nhiên:
- Có chuyện gì không Huy, bây giờ 3, 4 giờ sáng bên đó!
- Tao nhớ mày gọi chơi, lâu rồi không nói chuyện.
Chuyện qua lại gần một tiếng đồng hồ; hàn huyên từ ngày còn đi học, lúc mới vào trường, lúc làm bài đêm, chuyện ra trường chuyện đi lính, chuyện đi tù, chuyện đi trốn, chuyện vợ con, chuyện công ăn việc làm... Huy ôn lại nguyên cuộc đời mình. Tôi lấy làm lạ; nhưng Huy vẫn lạ như vậy.
Hơn mười năm trước, một tối tôi nhận được điện thoại, tôi xưng danh xong, bên kia đầu giây hỏi ngay:
- Mày nhớ tao là ai không ?
Tôi biết là Huy ngay vì trong trường chả mấy mạng thân dến độ gọi tôi bằng mày. Huy bảo tôi:
- Mày không có những cái may nhỏ, nhưng cái may nào của mày cũng độc đáo lắm.
Huy kể chuyện đi tù, bạn bè kẻ ở người đi, thằng ngoài bưng về, thằng nằm vùng lao chao; chuyện những đứa sống, những đứa chết. Huy mới trốn sang được và có điện thoại của tôi qua em vợ, một bạn học nhà tôi. Huy qua được một mình, vợ con còn kẹt lại. Tôi ở miền Ðông, Huy ở miền Tây, từ đó mỗi năm gọi qua lại dăm lần. Cho đến một hôm Huy mừng rỡ:
- Vợ tao và hai thằng nhóc qua đến nhà đây rồi!
- Mừng cho mày, ráng mà đền ơn nuôi chồng nuôi con cho bà ấy!
Ðám cưới Huy tôi không dự được ; không nhớ được tại sao, gần 30 năm còn gì. Lúc đó tôi lang bạt, chương trình học sáu năm kéo thành tám, may mà ra trường nổi. Huy học thẳng sáu năm, ra trường làm phụ khảo. Làm phụ khảo mà sao sau 75 lại đi tù lâu? Huy nói là tại ông cụ. Tôi nhớ lúc mới vào trường nhà Huy nghèo vì ba Huy bị ông Diệm bỏ tù. Sau 63 ba được thả ra và tham chính; gia đình Huy thoải mái được mấy năm thì ba Huy bị bắn chết. Bắn chết gần nhà trên vỉa hè chợ Tân Ðịnh. Ai bắn ai? Ai giết ai?
Vừa đi dạy, Huy vừa vẽ nhà thờ, vẽ và xây đẹp lắm. Tôi cũng vẽ nhà thờ, Huy bảo:
- Mày là con Phật mà đi vẽ nhà Chúa!
- Cha Lạc tin tao, xây xong mày xem ra sao.
Nhà thờ xây xong, tôi lấy vợ; hai người bạn mới quen cho tôi quyển Thánh Kinh Tân Ước bằng tiếng Anh. Mãi sau khi nhà thờ khánh thành hai bạn đó mới biết tôi là Phật tử:
- Sao anh không nói cho tụi tôi biết, anh nói với Cha ngay từ đầu!
- Tôi hiểu Thánh Kinh nhiều hơn là Kinh Phật. Nhà thờ Cha Lạc có giống chùa đâu. Hồi
nhỏ tôi học trường thầy dòng cũng lâu. Tôi quí Thánh Kinh lắm.
Tôi giữ mãi quyển Thánh Kinh cho đến năm 75. Sau đó tôi không còn là tôi nữa. Tôi vẫn còn đeo chiếc nhẫn cưới cha Lạc cho. Thỉnh thoảng có tin từ VN, cha vẫn nhắn hỏi thăm.
oOo
Sau cú điện thoại nửa đêm, tôi gọi Huy thường hơn; được biết Huy nghỉ làm, vào bệnh viện, ung thư gan, chemo-therapy... Tôi nhớ Huy nói:
- Mấy năm tao ở tù, ăn con rắn con rết cho có chất đạm để sống sót. Thuốc khai quang đầy rẫy, ruột gan tao còn gì nữa mày!
Buồn tím ruột. Thế hệ tôi người chết tươi, kẻ chết dần; người chết ngay trong tù, kẻ được thả cho về chết ở nhà; người mất tích trên biển cả; kẻ 20, 25 năm sau mới chết; cả hai bên lằn tuyến người còn sống mà lòng chết nửa. Một lần gặp mẹ một người bạn ở B.C., bác mừng lắm:
- Cháu khoẻ không? Vợ con cháu qua đầy đủ?
- Dạ thưa bác gia đình cháu bình thường.
- Bác có lúc lẩn thẩn đếm lại những đứa cháu nội ngoại, bác cứ đếm thiếu mất hai đứa.
Nói xong bác nước mắt vòng quanh; vợ chồng người bạn và hai đứa con mất tích trên biển cả đã hơn mười năm.
Năm nay Huy chết, năm trước Ph. mất, năm trước nữa thầy Hanh qua đời, PDg. mất... Ðấy là những người chết ở Mỹ. Ph. là bạn học cùng lớp; lớp có hai người con gái, Ph. và L. Tụi tôi gọi Ph. bằng tên mà lại gọi L. là Chị L. Chả hiểu sao!
Qua đây sớm, Ph. thành đạt, nhưng chết tức tưởi. Thầy Hanh thọ khoảng 80 tuổi, trước khi thầy mất năm nào mấy đứa học trò cũ ở Nam Cali cũng lại thăm thầy. Năm 89 có dịp về với bạn bè và gặp Thầy, Thầy còn mạnh lắm. Tôi nói với Thầy tôi không làm nghề cũ nữa. Thầy hỏi:
- Vous có đủ sống không?
- Dạ đủ.
- C'est ca va!
Lúc còn đi học Thầy gọi học trò bằng mày, khi ra trường thầy gọi là "vous". Thầy nói giọng Nam nên chữ "vous" giống hệt chữ "you" .
PDg. là chị một cô học sau tôi một lớp. PDg. đi Mỹ học sau khi tốt nghiệp Trường Luật. Tháng Tư 1975, PDg. làm tham vụ tòa đại sứ VN tại Washington. Lúc đó tôi lại xin gia hạn thông hành; để làm gì tôi cũng không biết nữa; PDg. cũng chẳng hỏi, gia hạn cho tôi 05 năm và cho chiếu khán đi Anh, Pháp và Úc. Ðứng cạnh tôi là một kỹ sư hàng không làm cho hãng Marcel_Dassault Pháp. Tôi hỏi anh:
- Anh cũng đóng gia hạn?
- Ðể biết rằng tôi còn ràng buộc về một mảnh quê hương. Chắc tôi ở lại đây, không về Pháp đâu, tôi đụng tới trần rồi. Vài ngày nữa bọn mình là dân "vô quốc gia"; UN (United Nations) có loại thông hành đó anh biết không?
Chí lý thay. Còn chuyện đụng tới trần mười mấy năm sau tôi mới thấm thía.
PDg. mắt đỏ hoe; nhân viên Mỹ nước mắt cũng lưng tròng. Trước cửa sứ quán, một ông cụ sách ba-toong đi qua đi lại chửi bằng tiếng Tây. Tôi lắng nghe; cụ chửi hết Tây đến Mỹ, chửi hết Việt Ðỏ đến Việt Vàng. Có mấy ông Mỹ xin Visa vào VN, tôi góp ý Visa hết giá trị đến nơi rồi. Họ nói:
- At least I can get to Bangkok or Hong Kong and hopefully to Saigon before it falls. I have to go.
- Then what, how can you get out?
- I don't know, just pray for me!
Trong cảnh hỗn mang đó chỉ còn cảm xúc, không còn lý trí nữa.
Tôi biết tin PDg. mất vì ung thư khi đọc báo Thế Kỷ 21.
oOo
Tôi có gởi tặng Huy chuỗi tràng hạt mua ở Vatican; Huy gọi cám ơn:
- Quà của mày đến đúng lúc. Bây giờ tao chỉ biết cầu nguyện thôi.
Huy nằm xuống, nhưng nửa đời tôi khơi dậy; lá rụng về cội, nhưng cội lại gần 10,000 dăm vời xa. Hơn mười năm Huy qua Mỹ, không một lần gặp mặt; trong đầu tôi chỉ có hình ảnh Huy 25 năm về trước. Trên bàn còn bức phối cảnh ngôi Thánh Đường VN tại Washington DC: mái cong, 12 cột ở mặt tiền tượng trưng 12 tông đồ; có trống đồng Ngọc Lữ, vòm cầu (dome) trên bàn thờ hình tượng sự tích báng chưng bánh dầy, tháp chuông là biểu tượng lá buồm vượt biển... Huy gởi cho tôi năm 1987; Huy là trưởng nhóm gồm 5, 6 anh em nữa: những anh em nhỏ hơn, tôi chỉ nhớ tên nhưng không nhớ mặt.
Không biết nhà thờ nay đã xây xong chưa, mà cánh buồm đã đưa Huy về nước Chúa.
Dương Hùng
Tháng Chín 95.