vhnt, số 197
19 June 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................Phạm Thế Ðịnh
T h ơ :
1 - Giới thiệu thơ Xuân Quỳnh ........................Hoàng Anh Tuấn
- Sóng / Mẹ của anh / Hoa cỏ may ...........................Xuân Quỳnh
2 - Ngày xưa ..............................................Tôn Thất Hưng
3 - Áo tím trường xưa ............................................Vy Anh
4 - Tiếng vọng lưng chừng ........................................CỏMay
5 - Khi nào thấy ...........................................Ðinh Ngọc Nga
6 - Ngày trễ .................................................Phạm Chi Lan
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Ðôi điều tản mạn về "Ðêm phương Bắc nhớ về tổ quốc" của Trần Mạnh Hảo ......................Trần Duy Trác
8 - Quốc & giới thiệu về đề nghị thơ "biến dịch" (*) của Du Tử Lê (interactive poetry) ............................Ian Bui
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Ăn thịt vịt ................................................Ðức Lưu
10- Nhật ký ghi từ Osaka ...............................Trịnh Công Sơn
(*)interactive poetry la` thơ tự biến dịch theo cảm nhận người đọc
19 tháng 6, 1996
Thường thì một bài thơ hay, ngay cả viết bởi những nhà thơ khá, chỉ là hay khi độc giả thấy hay, theo hai thử thách chính là không gian và thời gian.
Người làm thơ nhiều khi chưa nhìn thấy hết cái đẹp của những lời thơ của mình, tự nó đôi khi đã là một bí hiểm với người sáng tạo ra nó.
Có lẽ vì vậy, một thi sỹ nhiều khi chỉ làm được một bài thơ hay, rồi thôi, không thể nào làm bài thơ khác hay được nữa. Cái hồn thơ đến ngự trị người làm thơ. Và từ đó ngự trị độc giả. Mọi cố gắng đóng khung, giải thích, chỉ đến sau bởi các người đọc, phô diễn sự cảm nhận của mình.
Trong thơ, luôn luôn có hai sự sáng tạo: người đã viết ra những giòng thơ, và người đọc. Không cần người làm thơ nói điều đó bằng cách này hay cách nó. Ðọc thơ chứ không phải đọc cách dậy nấu ăn có nhiều cách pha "nhiệm ý".
(trích cảm nhận của Phạm Thế Định đăng trên diễn đàn ô-thước)
oOo
Gửi đến bạn đọc vhnt số này với nội dung dồi dào gồm thơ, nhận định, phê bình, và sáng tác. Mong bạn có một ngày an vui và thoải máị
thân ái,
PCL/vhnt
Cuộc đời của Xuân Quỳnh không thuận chiều bằng lặng, chị tìm đến với thơ hẳn mong được chia xẻ, giãi bày. Có lẽ vì thế Xuân Quỳnh đã chọn cho mình một hướng đi thiên về bộc lộ cảm xúc, tâm trạng. Ở một số bài Xuân Quỳnh không tránh khỏi lối mòn quen thuộc trong cách nhìn, trong cấu trúc, biểu đạt. Tuy thế, người đọc vẫn nhận ra một giọng thơ giàu bản năng và từng trải. Thơ Xuân Quỳnh là tấm gương phản chiếu cuộc đời thường ngày mình sống, luôn đa cảm, nồng nhiệt trong tình yêu, lo âu khát khao vươn tới hạnh phúc.
Không ít người cố tạo ra phong cách bằng sự uốn lượn cầu kỳ, còn Xuân Quỳnh tạo ra phong cách bằng sự mạnh bạo bộc lộ chính mình. (theo Nguyễn Ðức Mậu VNQÐ 3/1995)
Sau đây là một số bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh:
Sóng
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng vỗ
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Ðể ngàn năm còn vỗ.
Mẹ Của Anh
Phải đâu mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ, không nuôi
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong
Ngày xưa má mẹ cũng hồng
Bên anh, mẹ thức lo từng cơn đau
Bây giờ tóc mẹ trắng phau
Ðể cho mái tóc trên đầu anh đen
Ðâu con dốc nắng đường quen
Chợ xa gánh nặng mẹ lên mấy lần
Thương anh thương cả bước chân
Giống bàn chân mẹ tảo tần năm nao
Lời ru mẹ hát thở nào
Truyện xưa mẹ kể lẫn vào thơ anh:
Nào là hoa bưởi, hoa chanh
Nào là quan họ mái đình cây đa.
Xin đừng bắt chước câu ca
Ði về dối mẹ để mà yêu nhau
Mẹ không ghét bỏ em đâu
Yêu anh, em đã là dâu trong nhà
Em xin hát tiếp lời ca
Ru anh sau mỗi âu lo nhọc nhằn
Hát tình yêu của chúng mình
Nhỏ nhoi dưới một trời xanh khôn cùng
Giữa ngàn hoa cỏ núi sông
Giữa lòng thương mẹ mênh mông không bờ
Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em.
Hoa Cỏ May
Cát vắng, sông đầy cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu
Mây trắng bay đi cùng với gió
Lòng như trời biếc lúc hoang sơ
Ðắng cay gửi lại bao mùa cũ
Thơ viết đôi dòng theo gió xa
Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm dày
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay ?
Xuân Quỳnh
Ngày Xưa
Cầm tờ lịch cũ
Gặp ngày xưa lận đận
Ðọc lại vần thơ
Nghe nỗi buồn vương vấn
Xem một gương mặt người
Thấy nụ cười chợt tan.
Tôn Thất Hưng
Áo Tím Trường Xưa
Rừng sim hay một rừng hoa nở
Khi trống trường tan lạc bước chờ
Hoàng hôn nghiêng xuống bâng khuâng nhớ
Tím cả tình yêu lẫn ước mơ
Ai đem hoa tím cài lên tóc
Ðiểm nét duyên thầm đẹp ý thơ
Hương Lan theo gió vờn hơi thở
Áo tím trường xưa tóc xõa hờ
Chiều nay trên lối vắng đường xưa
Qua cánh rừng sim ngả nắng thưa
Nhớ người năm cũ tình chưa hẹn
Bởi kiếp phong trần lắm gió mưa
Tôi về tìm kỷ niệm hôm nao
Em đã sang ngang mộng vẫy chào
Hoa tím buồn pha đời đen bạc
Một mùa ly biệt tiễn đưa nhau
Vy Anh
Tiếng Vọng Lưng Chừng *
Này anh
Khi em gào to
Cho vỡ ngực
Ðừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng **
Mà xung quanh vẫn lặng như tờ
Thì lúc ấy
Nỗi đơn côi
Ðã trao tay
Ðưa em vào điệu valse bất tận
Này anh
"Ru em mảnh trăng sầu hạ"
Những câu ru ngày xa xưa ấy
Vẫn lang thang, bay tận cuối trời
Và mảnh trăng nhòa nhạt
Diễu cợt nhìn em cười nữa miệng
Vì em mãi loanh quanh
Tìm một tiếng vọng lưng chừng.
Anh,
Trăng làm sao giữ được nguyên màu cũ
Khi anh đi và mãi chẳng trở về
Ngồi lặng im dưới cội già năm ấy
Có còn chi ngoài lũ lá trơ vơ
Anh,
Có những niềm vui và những nỗi buồn
Nhưng anh chỉ chọn những nỗi buồn làm qùa tặng
Cho em
Cho anh
Và cho chúng ta.
"Có phải đó là quy luật của cuộc sống?"
Anh lắc đầu: "Không, đó là tình yêu."
(Rồi anh đi tìm cây cung
Và bắn rớt mặt trời
Giúp mặt trời tìm một bằng an)
Này anh
Ngàn mặt trời đã nổ ở trên cao
Nên em tăm tối
Lạc mất lối về
Rồi hoảng sợ gào to từ vô thức
Ðừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng **
Không nghe thấy tiếng mình
Chỉ nghe
Tiếng cười của thinh không
Từ đâu đó
Vọng về.
CỏMay
9 juin '96
* từ câu thơ của Tuệ Sỹ - cõi nào đâu nghe tiếng vọng lưng chừng
** ca từ Trịnh Công Sơn
Khi Nào Thấy
Khi nào thấy trên đường dài mệt mỏi
Cần nghỉ ngơi đôi phút cạnh dòng sông
Anh hãy đến bên này con bến nhỏ
Dưới bóng đừa, ươm mát nỗi chờ mong
Khi nào thấy cuộc đời buồn từng giọt
Cần một lời tiếp sức để đi xa
Anh hãy đến nơi này im bãi vắng
Biển đợi chờ, con sóng mãi ngân nga
Khi nào đó lòng anh mang thương tích
Cuộc đời trao nhòa vết chém trong nhau
Anh hãy đến ngồi đây chiều tĩnh mịch
Con suối vàng ru nhẹ những niềm đau
Khi nào đó anh dừng chân phiêu lãng
Vọng mơ về nơi xuân ấm miền xa
Xin anh hãy về đây vui ngày tháng
Mimosa - một đóa nở, giữa lòng ta
Ngọc Nga Đinh
May 6th, 1996
Ngày Trễ
Thức giấc vỡ mộng
bảy mươi lăm độ bình minh
hướng dương dậy trễ
giấc ngủ còn say
dậy đi thôi
một ngày
Mười lăm phút rửa mặt
soi gương, khuôn mặt cũ
(khuôn mặt của ngày hôm qua
còn đây, ừ, khuôn mặt nhận không ra)
trí nhớ nhạt nhòa
hạt nước vỡ làm đôi
rơi xuống.
Kẻ mắt tô môi, thêm một làn phấn
không đẹp cho đời làm đẹp cho mình
mười lăm phút chọn mầu áo
(mầu xanh cho người tình,
mầu trắng cho mình)
vừa kịp ra xe, bảy mươi chín độ bình minh
Mặt trời múa, mặt trời quay, mặt trời, nóng.
nhiệt độ lên cùng, với những hạt nước bỏng rát
nơi miền nhiệt đới âm dương bất hoà thời tiết
mưa nắng chẳng bao dung
...
một phút lẻ hai giây
đọc kinh Kính Mừng:
Lạy mẹ Maria, con chờ ơn phép lạ
Hai phút đèn đỏ
đếm đủ ba mươi sáu xe vượt qua
hối hả hai chiều vận tốc
ngã tư hấp hối bình thản
những khuôn mặt thành khẩn
không bao dung
không tự mãn
nghiêm trang làm lễ chào
chờ đợi mắt căng thần kinh dãn nở
mặc nhiên ẩn nhẫn
nhập vào thời gian
của một ngày đang chực chờ
chạy biến.
Phạm Chi Lan
Ðêm Phương Bắc Nhớ Về Tổ quốc
Một màu trắng rợn người dân tộc tôi chưa biết
Ðang đối chọi gắt gao với màu than đêm
Nỗi nhớ tôi xin nhập vào bão tuyết
Bay qua nước Nga, vượt Trung Hoa gió bấc
Mưa phùn đêm nay có thổi rát mặt Người
Tổ quốc ơi.
Nửa nước tôi giờ này cuốn trong rơm rạ
Biển dạ dày cồn sóng Thái Bình Dương
Tiếng mọt nghiến dêm kèo nhà đói võng
Từ đỉnh cao tập bước xuống đời thường
Ðất nước tôi thuyền vỏ trấu vờn đỉnh sóng
Số phận người neo vào bóng Trường Sơn
Chẳng lẽ không còn con đường nào yên lành hơn
Ngoài một lối vượt đá ngầm giông bão
Trời mắt ếch đáy giếng nào kiêu ngạo
Tổ quốc tôi nằm ở nơi đâu
Trên mùa gặt địa cầu?
Người cày xới bằng xương sườn lấy máu mình gieo hạt
Nứt nẻ vết chân cò, chân vạc toạc đồng sâu
Loa Thành ơi, ai lường gạt Mỵ Châu?
Dấu lông ngỗng tình xưa còn trắng tóc
Tổ quốc tôi đau mà không dám khóc
Hoa cau cười nhòe nhoẹt aó nàng Bân.
Ðâu nỗi nhớ nhà đứt ruột Huyền Trân
Ðâu Tổ quốc của nàng Kiều Kim Trọng?
Thế giới này quá rộng
Nhưng nỗi nhớ thương chỉ một chỗ đi về
Chỉ nơi mẹ mò cua bùn lạnh cóng
Lửa đói lòng dìm bóng mẹ vào đêm
Chỉ một chỗ em qua đò vịn sóng
Trăng xòa tay dừa ngóng móng chân thềm.
Ðêm ai hát tôi nghe qua nửa vòng trái đất
Ðêm tro bếp quê hương mầm lửa mạ hoen màu
Nghe gió bấc gọi mặt trời xa khuất
Tổ quốc, xin Người đánh thức cả niềm đau.
Trần Mạnh Hảo
oOo
Vài Suy Nghĩ Tản Mạn Về "Ðêm Phương Bắc Nhớ Về Tổ Quốc"
Ấn tượng đầu tiên của tôi sau khi đọc bài thơ này không mấy tốt. Bài thơ mang vẻ đẹp kiểu dòng văn học "lãng mạn XHCN" - nhiều cách "làm dáng", "trang điểm" từ ngôn ngữ, đến hình ảnh và nhạc điệụ Ðâu đó "phảng phất" mùi "pretentious"! (bắt chước nhận xét của ai đó về Truyện Kiều và Nguyễn Du: "Hồn Nguyễn Du phảng phất mỗi trang Kiều !")
Tuy nhiên, sau khi đọc đi đọc lại bài thơ nhiều lần, tôi lại suy nghĩ khác. (Bài thơ... trồng cây si tôi chăng ?) Cách "làm dáng" của Trần Mạnh Hảo khi đọc lại vài lần trở thành rất khéo, rất duyên và có nhiều sáng tạo. Bài thơ chất chứa nhiều hình ảnh mới lạ, đầy những ví von, so sánh, ẩn dụ sâu sắc. Bài thơ giàu nhạc điệu; càng đọc càng thấm thía; càng ngắm càng say mê.
Trở lại bài thơ. Thời gian: "đêm". Không gian: "phương Bắc", chắc là nơi nào đó ở Ngạ Chủ đề: "nhớ về Tổ Quốc". TMH nói là nhớ nhưng tôi ngờ là tác giả chỉ mượn "nỗi nhớ" đó để nói lên những suy nghĩ ưu tư, những băn khoăn trằn trọc của mình về đất nước đang cách trở "nửa vòng trái đất" mà thôi. Cả bài thơ là một dòng suy nghĩ miên man của một con người mang nhiều hoài bão, lo nhiều, thương nhiều cho đất nước, nhưng cảm thấy vô cùng bối rối và lúng túng trong vũng nước tù túng của bất lực.
Khổ thơ thứ nhì chất chứa những câu thơ rất mới và đẹp:
Nửa nước tôi giờ này cuốn trong rơm rạ
Biển dạ dày cồn sóng Thái Bình Dương
Tiếng mọt nghiến dêm kèo nhà đói võng
Từ đỉnh cao tập bước xuống đời thường
Ðất nước tôi thuyền vỏ trấu vờn đỉnh sóng
Số phận người neo vào bóng Trường Sơn
Ðất nước ta "cuốn trong rơm rạ"; dân Việt ta đói khổ, "dạ dày" nổi sóng cồn càọ Giấc ngủ dân ta không có võng êm đềm đưa đẩy, cây "kèo nhà" bất lực đứng lặng trong đêm nghe "tiếng mọt nghiến" nát thân mình. "Kèo nhà" là rường cột; có phải chăng là giới lãnh đạo Hà Nội bị con sâu mọt quan liêu, tham nhũng đào khoét ngày ngày? Hay "kèo nhà" là những con người có tâm có tài trong cuộc kháng chiến thần thánh nhưng, lạ thay, lại cực kỳ lúng túng trước những bước tập tểnh "đời thường" - những bước tập đi chập chểnh sau "đỉnh cao" Ðại thắng mùa Xuân? Hình ảnh "mọt nghiến kèo nhà" thì khá quen thuộc, nhưng hình ảnh "kèo nhà đói võng" thì thật là ... khai phá ! Hình ảnh "thuyền vỏ trấu" cũng rất thần tình: thân phận đất nước mong manh; tài nguyên đất nước khô cạn (chỉ còn mảnh vỏ trấu thôi sao? Hạt gạo ấm no đâu rồi?)
Câu hỏi:
Tổ Quốc tôi nằm ở nơi đâu
Trên mùa gặt địa cầu?
nghe xót xa chi lạ ! Ðến bao giờ người dân VN mới có được những "mùa gặt" bình thường hàng năm như những đất nước khác trên thế giới?
Còn câu hỏi: "Loa Thành ơi, ai lường gạt Mỵ Châu?" thì y hệt như câu hỏi cho hư vô, không có câu trả lờị Mỵ Châu đã chết dưới lưỡi kiếm của vua cha tự thuở nào; chỉ còn lại đây một Loa Thành hoang tàn vô tri vô giác. Những sai lầm của thế hệ đi trước giờ biết hỏi ai đây, biết đổ cho ai đây? Hay tất cả chỉ là một âm mưu "lường gạt" khủng khiếp của giới cầm quyền? Bao nhiêu câu hỏi băn khoăn trắc trở chồng chất không có câu trả lời làm nỗi đau đớn xót xa của tác giả nhân lên, pha lẫn chút gì uất ức, thành những tiếng khóc nấc nghẹn:
Tổ quốc tôi đau mà không dám khóc
Hoa cau cười nhòe nhoẹt aó nàng Bân.
TMH nói "cười" mà sao mình cứ nghe rằng "khóc" - đúng là cười ra nước mắt! "Áo nàng Bân" ở đây, tác giả mượn ý từ câu chuyện cổ tích Bắc Bộ (Hàng năm, cứ vào độ tháng 3 chi đó Trời lại trở rét. Người ta gọi là "rét nàng Bân". Ðại khái là nàng Bân đỏng đảnh này hơi vụng tay. Thương chồng đánh giặc ngoài biên cương mùa đông lạnh lẽo nên lo ngày đêm đan chiếc áo len cho rồng. Tiếc là nàng đan xong chiếc áo thì mùa đông cũng dứt. Nàng tủi thân, giận Trời sinh mình vụng về, khóc lóc cả mấy tháng trờị Tiếng khóc nàng vọng tới Thiên Ðình. Trời thương nàng nên trở rét giữa tháng 3 cho nàng có dịp dâng chiếc áo lạnh cho chồng). Ở đây, "hoa cau" cười cho hạnh phúc của nàng Bân, nhưng lại "nhòe nhoẹt" khóc cho chính thân phận mình - cái rét giữa mùa Xuân làm hỏng những chùm hoa cau đang nở rộ.
Từ "nỗi đau quốc quốc", hai câu tiếp nối khơi dậy lòng yêu nước nhớ nhà và niềm tự hào dân tộc:
Ðâu nỗi nhớ nhà đứt ruột Huyền Trân
Ðâu Tổ quốc của nàng Kiều Kim Trọng?
Chữ "của" trong câu đầu bị "bỏ rơi" khiến "Huyền Trân" đứng chênh vênh, dường như trở thành một tính từ bổ nghĩa cho nỗi nhớ nhà đứt ruột. (Công chúa Huyền Trân đời nhà Trần bị cống cho vua Chiêm Thành Chế Mân để đổi lấy 2 châu Ô, Lý. Sau này tướng Trần Khắc Chung, tương truyền là người yêu của công chúa, đã mạo hiểm vào tận Chiêm Thành cứu lại Huyền Trân khi công chúa sắp bị hỏa táng theo người chồng vừa quá cố.) Chỉ bằng hai chữ "Huyền Trân" thôi, TMH làm cho nỗi nhớ nhà đã "đứt ruột" càng thêm lắm... đoạn trường! Câu cuối của khổ thơ này cũng có một hình ảnh được so sánh hóa vô cùng duyên dáng:
Trăng xòa tay dừa ngóng móng chân thềm
Ánh trăng soi qua tàu lá nhìn như một bàn tay. Có một cái gì đó rất "hoa nắng" (Gọi nắng, cho tóc em cài loài hoa nắng rơi) như trong Hạ Trắng của Trịnh Công Sơn, phải không?
Trong khổ thơ cuối, TMH cho chúng ta thấy ông vẫn còn chút niềm tin vào dân tộc qua hình ảnh tương phản:
tro bếp >< mầm lửa mạ
Trong tro bếp điêu tàn ở quê hương, tác giả đã cảm thấy đâu đó những tia hy vọng, những "mầm lửa mạ" cất đầu! Phải chăng những tia hy vọng đó mong manh quá, mơ hồ quá nên TMH thay vì thấy được màu xanh mơn mởn của mạ non, lại thấy chút gì đó "hoen ố"? Nhận xét này phần nào đi đôi với câu dưới "nghe gió bấc gọi mặt trời xa khuất". TMH có thấy mặt trời, nhưng cũng có thấy "mặt trời xa khuất"!
Một điểm khá thú vị nữa: trong suốt bài thơ, tác giả sử dụng rất nhiều "điển tích" - từ trong tục ngữ "ếch ngồi đáy giếng", đến ca dao "con cò mà đi ăn đêm"; từ cổ tích "áo nàng Bân", đến huyền sử "Loa Thành - Mỵ Châu"; từ lịch sử "công chúa Huyền Trân", đến văn thơ "Kiều Kim Trọng"... Tất cả đều... 100 % Việt Nam!!! Không có bến Tầm Dương, lầu Hoàng Hạc, chùa Hàn San, Tây Thi, Kinh Kha, Ðường Minh Hoàng gì cả. (Ðộc giả khó tính chắc sẽ bắt bẻ Kiều & Kim Trọng; nhưng nghĩ cho cùng thì Nguyễn Du đã Việt Nam hóa hai nhân vật này gần hai thế kỷ trước rồi.) Những "điển tích Việt Nam" này không những gợi lên niềm tự hào dân tộc, gợi lên những suy nghĩ ôn cổ tri tân, ca ngợi bốn ngàn năm văn hiến hào hùng mà còn nói lên nỗi "nhớ về Tổ Quốc" không nguôi của Trần Mạnh Hảo, nó làm cho nỗi nhớ ấy thiết tha, da diết hơn gấp mấy lần.
Trần Duy Trác
Quốc & Interactive Poetry
1) Nhân ngày Father's Day, chợt nhớ đến một bài thơ cũ viết về đề tái này xin gởi đến các bạn làm món quà tháng Sáu.
Quốc
Ðất liền với cây cỏ với trời
Một con rắn đỏ lượn quanh đồi
Trên mạch mủ quê hương đồng rẫy
Những thấy cha tôi gác cuốc ngồi
'88
ianb
2) Tối hôm qua nhà thơ Du Tử Lê đến nói chuyện trong buổi lễ phát phần thưởng Young Leaders Award do hội Liên Hãng ở Dallas/Fort Worth tổ chức. Bài nói chuyện xoay quanh những nỗ lực mới của ông trong vấn đề "canh tân" văn hoá. Ðặc biệt là thêm cách dùng dấu "/" vào trong thơ để cho người đọc có thể tự ý sắp xếp những chữ trong câu thơ theo ý mình và tạo nên những ý tưởng mới ("interactive poetry").
Sau đây là câu thơ Du Tử Lê đã dùng làm thí dụ:
Tôi/rừng/sâu/thở nốt chân trời
Theo lối ngắt như trên, người đọc (nếu muốn) có thể biến câu thơ ra nhiều lối đọc và mang nhiều ý nghiã khác nhau, như:
1. Rừng sâu, tôi thở nốt chân trời
2. Thở nốt chân trời rừng tôi sâu
3. Tôi sâu, rừng thở nốt chân trời
4. Sâu, rừng tôi thở nốt chân trời
v.v...
Theo ông, việc làm này có thể sẽ không được ai hưởng ứng cả. Nhưng điều đò không quan trọng. Chính cái nỗ lực đi tìm những con đường mới cho nghệ thuật mới là điều quan trọng. Và ông hy vọng những người trẻ làm nghệ thuật luôn luôn sẵn sàng "take risk" để đi tìm những khám phá mới, những khía cạnh mới, vì nghệ thuật không bao giờ nên đứng yên một chỗ. Và điều này rất cần thiết không những chỉ trong lãnh vực nghệ thuật không thôi mà trong luôn cả những lãnh vực khác như khoa học, kỹ thuật, v.v...
Nay lớp đàn anh đã nói vậy thì tại sao đàn em chúng ta không "thử nghiệm" một phen xem sao. Tôi xin viết lại câu đầu của bài thơ "Quốc" như sau, mời các bạn tự nhiên ra tay... "chém chém" :)
"Ðất/liền/với/cây/cỏ/với/trời"
Note(1): chữ "liền" có thể dùng như tĩnh từ hay động từ; chữ "với" có thể dùng như liên từ hay động từ tùy ý.
Note(2): Không nhất thiết phải viết lại câu thơ trên một hàng. Bạn có thể xuống hàng bất cứ chỗ nào có dấu ngắt "/" nếu làm như thế sẽ giúp người khác hiểu rõ ý mình hơn.
Ian Bui
Ăn Thịt Vịt
- Ðoan à, gom bã mía lại đi con! Trời am ảm thế này thì chóng chày gì cũng mưa đấy!
Vừa nói, chị Hậu vừa đưa tay bế xốc thằng Tâm từ Ðoan. Con Ðoan đặt rổ rau nền, vâng một tiếng nhỏ, rồi thoắt cái đã biến ra sau hè. Vừa lom khom bó lại từng đống bã mía, nó vừa hí hửng hát nhại bài ca dao mà thằng Nhân em nó vừa học được ở trường, sửa đổi chút đỉnh theo lối sinh nhai của chị hai nó:
"Lạy trời mưa xuống
Có nước tôi uống,
Có ruộng tôi cày,
Có bầy cá tốt
Chui nốt vào lờ ..."
Rồi nó nhoẻn miệng cười, cái cười thích thú, như ẩn chứa nhiều hy vọng cho một ngày đi lờ của hai chị em nó. Cái cười thơ ngây của đứa con gái mười ba tuổi đầu, nhưng đủ khả năng cáng đáng, đảm đang của một một đứa chị cả trong nhà thay mẹ nó. Trời mỗi lúc một đen, chẳng dấu được vẻ mừng, nó bó lại từng đống bã mía nhanh hơn, chặt hơn nữa. Chả là vì cả tuần nay, cứ phải chuyện chi, ông trời cứ nắng hâm hấp mãi, nó chẳng đi lờ được bao nhiêu dù chỉ vài con tép cỏn con. Bố nó, anh Hậu, lại gặp cảnh không may, còng lưng gò mãi cái xích lô đạp cũ òm mà cũng chẳng ma nào gọi đi cho vài chuyến. Ngặt thay, hai hôm nay anh lại sốt nặng, không khéo lại phải thêm một ngày húp cháo trắng và vài cọng rau luộc để tiếp nối cái nghèo của gia đình anh chị. Cái Ðoan đang rầu héo ruột thì ông Trời lại mang cho nó một chút hy vọng cỏn con.
Xong xuôi, nó rảo bước vào nhà, bước vào xó bếp nhặt nhanh những chiếc lờ tre cũ kỹ rồi báo chị Hậu:
- U à, hôm nay xem chừng tốt trời đa, con đi lờ xóm dưới, rồi tạt ngang khu ao nhà ta ngắt về mấy đọt rau.
- Ừ, đi khéo chóng về! Cẩn thận mấy hang rắn nhé!
Vừa nói, chị vừa với tay đưa con Ðoan cái áo mưa xám đã rách nách. Thằng nhân bất chợt chõ vào:
- Cho em đi với chị Ðoan!
- Có chắc bộn đâu đã đi. Ở nhà giúp u trông thằng Tâm nó nghịch, rồi ôn bài cùng con Trang. Tao về ngay.
Con Ðoan mở cửa rồi thoăn thoắt bước ra. Chị Hậu nắm tay cu Tâm rồi vói tay vẫy vẫy con Ðoan.
Gió bên ngoài rít to hơn, mưa càng nặng hạt, anh Hậu trong buồng đã thức giấc, giọng khàn khàn hắt ra:
- U nó ơi, cơm nước cho xấp nhỏ chưa?
- Ðến ngay, đến ngay, cái Ðoan chắc cũng gần về. Này bố nó, húp vài ngụm nước gừng, xơi bát cháo nóng, chóng khoẻ.
Số là cả tuần nay, bà Tư Còn bên vách có việc bận ra tỉnh, một vài hôm mới trở về; chả thế mà cái sốt anh Hậu cứ dây dưa mãi. Tháng trước chị Hậu phải cơn trở trời trái gió, ói mữa từng cơn, ấy thế mà bà Tư sang thăm, săn sóc một vài hôm là chị khỏi ngay. Ðã có bàn tay bốc thuốc, bà lại đánh gió mát tay, cả làng ai cũng biết. Ngặt vì cái to mồm, lắm tiếng, và lại thẳng thừng, nên cũng chẳng mấy ai gần gủi, nhưng được cái tính ngay thẳng, tốt bụng, lại thường bênh vực kẻ nghèo, chả thế mà bà Tư lại thành ra nguồn an ủi không nhỏ cho gia đình anh Hậu.
Có tiếng gõ cửa lộp cộp; từ trên phản, con Trang nhảy tót xuống réo to:
- U ơi, chị Ðoan đã về!
Thằng nhân lon ton chạy lại mở cửa, nhìn đống lờ rơm rồi tiu ngỉu. Con Ðoan hiểu ý, mắng yêu:
- Gớm, ngày đầu, vớ đâu đã nhiều thằng khỉ. Ngày mai đi với tao.
Thằng Nhân thoáng vui ngay, rồi cũng lấp liếm theo chân chị:
- Ít ra cũng một vài hôm cháo cá chị Ðoan nhỉ! Ðưa áo đây cho em.
Con Ðoan đưa bó rau muống chon chị Hậu, cởi chiếc áo mưa trao cho thằng Nhân, ra sau nhà xối vội vài lon nước rửa chân trước khi dùng bữa cơm chiều với gia đình. Bữa cơm chẳng có gì ngoài vài bát cháo trắng, một vài cọng rau luộc chấm tương, và một dĩa đậu phụ không bỏ vỏ. Con Ðoan hôm nay bỗng thấy lòng vui lạ:
- Ngày mai có thêm món cá!
Nó đảo mắt nhìn quanh, cả nhà ngồi húp sồn sột, con Trang bất chợt lên tiếng:
- U à, nhà ta chưa lần ăn thịt vịt. Tuần trước U và chị Ðoan lại hứa với con. Thằng Sơn con bà Luân cứ trêu con mãi: "Nhà chúng mày làm gì có vịt mà xơi."
Anh Hậu quay sang con bé:
- Ừ, mai bố khoẻ, kiếm nhiều tiền, U và chị Ðoan làm vịt cho con nhé.
Cả nhà lại tiếp tục húp cháo. Tiếng húp sồn sột, hoà lẫn tiếng mưa vơi hạt, gõ đều trên mái lá càng tăng thêm bầu không khí ngột ngạt nặng nề của buổi cơm chiều...
oOo
Ðã ngót nóng, bà Luân vẫn không tha anh chị Hậu mà chửi đổng:
- Ối giời ơi, cái quân khốn nạn, cái lũ trời đánh, thánh vật. Nó bắt vịt nhà bà, nó tỉa lông vịt nhà bà, nó ngoạm vịt nhà bà. Ối bớ làng nước ôi, ra đây mà xem cái lũ quân trời tru đất diệt này. Nó xơi không của bà rồi ra nó cũng ói mữa mà chết bầm cho xem... Bớ làng nước ôi...
Ôi thôi, bao nhiêu là xỉa xói, nhục mạ; nhà chị Hậu im thin thít, chẳng nói gì. Thằng Nhân thì im tiếng đã đành, mười tuổi đầu, nhưng cái nghèo, cái lận đận đã khiến nó và chị nó khôn trước tuổi. Ngoài bố, nó và con Ðoan là hai cánh tay tháo vát, giúp đỡ gia đình. Nhưng ngặt nỗi con Trang, nó còn quá nhỏ để đủ khôn che đậy những gì nó không đáng nói. Nó huênh hoang trong trường thế nào không rõ, chỉ tình cờ bà Luân vừa mới mất toi con vịt bầu béo ngậy, và cá rớt mồng tơi, cả làng ai cũng biết, lại có vịt mà xơi. Bà Tư, người hiểu anh chị Hậu hơn ai hết, cũng ngượng ngùng thấy ngại lây:
- Tao xem chúng mầy như con cháu, có việc chi nói thật tao nghe, tao xử. Trông cái con mẹ Luân nó chửi cũng quá quắt đấy!
Chị Hậu nhìn con Ðoan rơm rớm nước mắt rồi lẳng lặng ra sai cọng rau vung vãi cũng không cầm được tiếng nấc. Bà Tư thở dài, rồi lắc đầu, chán nản đi về...
Ðã mười giờ kkhuya, con Trang vần chưa hết sốt, nó mửa và đi tiêu nhiều quá; trông nó thật tội, má lõm vào, hai mắt nó sâu hoắm. Bà Tư không ngớt thoa chanh vào lưng nó, tay đánh gió, miệng vẫn lâm râm cầu xin ơn trên. Nhưng vô ích, con Trang trông càng tệ hơn; đôi tay y dược của bà Tư lần này đành phải bó tay trước thần chết. Con bé thều thào mấy tiếng... thịt vịt, rồi nghoẻo cổ sang tay bà, tắt thở. Bà Tư nắm chặt tay con bé, nhíu mắt, rồi rơi hai hàng; chị Hậu oà lên, thằng Tâm bất chợt níu quần chị nó khóc ré...
Con Trang chết đã hơn một tuần. Bà Luần được dịp làm nư, nói đổng:
- Ðấy, trông đấy, của Thiên thì trả Ðịa, quả giời giả báo chẳng sai!
Lời rủa độc của bà thiêng thật!!!
oOo
Có tiếng gõ cửa lộp cộp, bà Tư mở ctiếng mưa, nói với lên:
- U con bị sốt, lạy bà sang giúp chị con với.
Bà Tư với vội chiếc áo mưa, chai dầu bà vẫn dùng đánh gió con bệnh, hấp tấp sang nhà chị Hậu. Anh Hậu vẫn đang hí hoáy thổi than nướng gừng cho vợ. Con Ðoan nhón người quậy đều nồi cháo cá. Số là cả tuần nay mưa nhiều quá, mưa cầm chỉnh cầm đổ; thằng Nhân và con Ðoan hai đứa đi lờ cũng bộn, thành thử cơm chiều dạo này có vẻ tươm tất hơn, nhất là món cháỗ."vịt". Bà Tư vào đến, quẳng vội chiếc áo mưa, sờ trán chị Hậu, rồi gật đầu:
- Không việc gì đâu, một mẻ gió, ly nước chanh gừng, thêm nồi sông là khoẻ ngay!
Quay sang con Ðoan, bà Tư dặn:
- Này Ðoan, vặt vài nhánh ổi, dăm lá xả, chút dầu nhị thiên đường vào nấu xông cho u mày nhá!
Ðoạn bà đánh gió cho chị Hậu, con Ðoan vẫn còn hí hoáy sau vườn, vách phên phía sau nhà vẫn mở, bất chợt thằng Tâm nhảy cởn lên, vừa chỉ, vừa bô bô bảo thằng Nhân anh nó:
- Vịt, vịt, vịt vào nhà anh Nhân, U ơi, vịt lại vào nhà, bắt ngay, bắt ngay!!!
Bà Tư ngoáy cổ lại, dăm ba con cóc xù xì, to tướng, đang lồ lộ, dáo dác nhảy túa vào nhà, cũng vừa lúc con Ðoan ôm bó xả và ổi bước vào. Bà Tư ngó chị Hậu, anh Hậu sượng sùng khơi đống than vừa nhóm. Thằng Nhân lặng nhìn chị nó trân trân, trong khi thằng bé vẫn không ngớt nhảy cỡn, tri hô:
- Vịt, vịt, vịt vào nhà!
Bà Tư ngó Ðoan, xoa đầu con bé rồi thở dài:
- Nấu xông cho U mày nhé! Tao hiểu chúng mày mà!
Bà Tư xách áo đi về, vừa đi vưa lầm bầm trong miệng:
- Con mẹ mày rủa cay, rủa độc nhà nó, không xong với tao đâu!
Cũng vừa dứt lại, bà chợt nghe tiếng sột soạt sau cái chái chòi bỏ hoang; Tò mò, bà lại gần ghé mắt trông thử thì ối giời ơi, con vịt bầu to tướng của mẹ Luân lững thững đi về với cả bầy con lép bép theo sau. Bà lại càng nóng hung: "Khiếp cái con mẹ mày, Hậu nhỉ." Ấy là cái chứng to mồm của bà được một phen bảnh choẹ...
Trời đã nham nhảm tối, thế mà bà Tư Còn vẫn cứ vỗ đùi, vỗ quần xành xạch:
- Khiếp làng nước ôi, ra mà trông cái quân đi hoang nhà nó này! Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Quân chảnh choẹ không giống bạnh thì cũng giống... khu này... Chủ nó cũng thường đi hoang thì tớ nhà nó cũng chẳng dại gì mà không đi làng nước ôi... Tiên nhân nhà nó, cái quân vu oan giá hoạ cho kẻ khác này, ra mà trông bà xé toạc mồm cái quân ăn đàng sóng nói đàng gió này...
Lần này nhà mẹ Luân im thin thít, nghe bà Tư tru éo mà chẳng trả treo được tiếng nào. Khốn nạn thay, con vịt đẻ đâu, ấp đâu có trời mà biết, bà đã bỏ công tìm cả ngày trời không thấy, tưởng đã đi toi, nay lại mò mẫm dắt con về, báo hại nhà chị Hậu bị mang vạ oan, bà còn trách vào ai được.
oOo
Ðã bảy giờ hơn, trời đã tạnh mưa mà con Ðoan vẫn chưa về. Thằng Nhân thấp thỏm chờ chực tiếng gõ cửa như mọi hôm. Thằng Tâm vẫn đăm đăm nhìn những bát cháo "vịt" nghi ngút khói. Anh Hậu bồn chồn chiếc đèn lồng chuẩn bị mở cửa đi ra. Chị Hậu cũng vớ vội chiếc nón lá vàng ố đi theo chồng, không quên ngoảnh cổ lại:
- Nhân, Tâm, dùng cơm rồi nghỉ sớm ngoan nhé! Không cần chờ bố và u về!
Anh Hậu rọi đèn ra mé ao, vừa đi vừa ngó dáo dác. Chị Hậu bồn chồn đi sau không thôi gọi con Ðoan ơi ới. Bất chợt, anh Hậu dẫm lên một vật mềm. Một linh cảm không hay chợt loé trong đầu, anh hoảng hồn cúi xuống, dọi sát ánh đèn, xác con Ðoan nằm chèo queo bên bờ đê. Dưới ánh đèn vàng leo lét, da mặt nó nhợt nhạt, tái xanh; mắt đã nhắm nghiềng, trên cổ tay nó, một vết rắn cắn còn bầm tím, cứng ngắt, sâu hoắm. Bàn tay kia níu chặt vào những bụi cỏ gấu gần đó. Có lẽ nó dãy dụa nhiều lắm trước lúc chết. Mấy cái lờ tre văng tung toé, một vài con rô, con sặc vẫn còn ngoi ngóp, ngọ ngậu thét lên rồi ngất xỉu. Anh Hậu hất chiếc đèn lồng, tay ôm vợ, tay xóc xác con Ðoan ướt sũng, bước về...
oOo
Giáo sư đã ngừng đọc. Bài luận đã chấm hết câu hơn vài phút, nhưng cả lớp vẫn im lặng. Im lặng vì bàng hoàng. Im lặng vì sững sờ. Im lặng vì một bài luận thi Anh ngữ quá ư xuất sắc. Một tiếng vỗ tay ,hai tiếng vỗ tay, rồi cả lớp bất chợt đã xé tan bầu không khí ngỡ ngàng đó bằng những tiếng vỗ tay tán dương một bài luận tuyệt hảo với điểm A plus plus.
Ðề luận hôm ấy thật đơn giản: "Tell us your most wonderful time in childhood" - Hãy kể lại kỷ niệm đẹp trong thời niên thiếu của bạn"
Thằng Nhân đâu được may mắn trong những kỷ niệm đẹp như đề bài muốn hỏi, như thầy nó muốn chỉ, như những đứa bạn may mắn nó muốn bể. Với nó, thời niên thiếu là những kỷ niệm đau thương đáng buồn. Thay vào những kỷ niệm đẹp, nó đã vẽ lên hình ảnh U nó với những ngày bị mắng oan, bố nó với những chiều mưa lạnh còng lưng bên chiếc xích lô cũ kỹ, cái chết của con Trang em nó vì ngộ phải mật cóc mà lúc nhắm mắt nó vẫn chưa biết được thế nào là thịt vịt, rồi cái chết của chị Ðoan nó cũng vì mải mê đi tìm thịt "vịt" sau mỗi buổi chiều mưa buồn ảm đạm. Nó đã lột trần, rất sống và rất thực hoàn cảnh của gia đình nó, của bản thân bao đứa trẻ vô tội khác, cùng cảnh ngộ, vẫn đang chập chững bước vào trường đời. Nó đã chủ tâm viết về cái nghèò, đã thành công trong việc buộc thầy nó phải đối chất sự thật, buộc bạn bè nó phải rung động, cảm xúc. Thằng Nhân đã viết bài luận ấy thật xuất sắc trong ngày giỗ của chị Ðoan nó.
Nhân vẫn ngồi bất động. Hai giòng nước mắt sẽ lăn trên đôi gò má. Không rõ nó khóc vì sung sướng đã đạt được điểm xuất sắc trong bài thi lần này, không rõ nó khóc vì nhớ U, nhớ bố, bà Tư Còn, chị Ðoan, hay con Trang; cũng không rõ nó khóc vì cuối cùng, nó đã thốt lên được điều mà nó muốn thốt tự bao lâu nay... Nhân chỉ rõ một điều - Ghé vào chợ, mua một con vịt - thật vịt -về làm giỗ cho em Trang của nó.
Ðức Lưu
Nhật Ký Ghi Ở Osaka
Trịnh Công Sơn
Osaka, 23-1-1996
Ðến phi trường Osaka lúc 5 giờ sáng. Trời lờ mờ. Bên ngoài lạnh 5 độ C. Sân bay rộng mênh mông và cho một cảm giác lạnh lẽo vì vật liệu kiến trúc được sắp thành một thứ trật tự kim loại. Thủ tục hải quan nhanh, gọn và lịch sự. Hành lý xuống sẵn chỉ đến mang bỏ lên xe đẩy là đi. Quá khác xa với cảm giác khó chịu khi đến cảng sân bay Luân Ðôn.
Phòng khách sạn nhỏ, bình thường dù International Hotel Osaka là khách sạn khá lớn nằm ở trung tâm thành phố, cách phi trường khoảng 40km. Có phiếu ghi tên để ở bàn viết. Có một điều lạ mà các khách sạn khắp nơi trên thế giới hầu như không thấy là cái tủ lạnh. Trong tủ lạnh các loại nước, bia, rượu được để vào từng ô nhỏ vừa khít hình chai, chỉ lòi cái đầu chai ra ngoài. Tôi rút thử một chai lại đúng vào chai whisky nhỏ. Bỏ vào lại không được. Ðọc lại cái tờ giấy hướng dẫn dán bên ngoài mới vỡ lẽ: chai nào đã rút ra là máy computer đã tự động tính tiền rồi. Nếu cố gắng đẩy vào lại thì máy lại tự động tính thêm lần hai, lần ba. Cũng là một kinh nghiệm. Không uống mà phải trả tiền thì phiền thật.
24 tháng 1
Ði Kyoto. Ði metro đến ga San Jou. Hệ thống metro hiện đại. Thăm chùa cổ Kiyo Mizu Derạ Chùa cổ thật. Lên cao trời lạnh. Có vườn tràng của nhà sư trụ trì quá cố nhưng gặp ngày đóng cửa không vào được. Gặp đúng ngày đội cứu hoả tập dượt cứu chùa khi có hỏa hoạn. Gọn gàng, nhanh nhẹn. Một hệ thống nước tự động phun ra từ các điểm chính của mái chùa. Trong quần thể chùa cổ có một chùa trước đây bị cháy và được xây lại khỏang hơn 300 trăm năm nay. Trước khi rời chùa mọi người lấy gáo hứng nước trong từ suối cao chảy suống. Cầu nguyện và uống.
Lên xe đi thăm tiếp Kim Các Tự. Hai mươi kilô vàng ròng thiếp sáng rực hai tầng của Kim Các Tự. Xung quanh là rừng. Ngày xưa đây là đất đai riêng của một người giàu có, sau đó bán lại cho chùa. Phía tây mặt trời lặn nhìn từ phòng trà đạo là một không gian núi rừng u tịch. Người Nhật gọi phía mặt trời lặn ấy là Tây phương cực lạc.
Nhớ lại câu chuyện tình của một nhà sư đốt lửa tự thiêu cùng với Kim Các tự của Mishima. Chùa cháy nhưng cây tùng hàng trăm năm có hình chiếc tàu buồm vẫn còn xanh tươi và được làm giàn chống đỡ, bảo quản tốt. Câu chuyện Kim Các tự đẹp và buồn. Ðứng nhìn bóng Kim Các tự dưới mặt hồ bỗng nghĩ đến người xưa mà ngậm ngùi.
Mặt trời lên và nắng. Tuyết bỗng rơi hạt nhỏ. Lạnh đột ngột.
Từ giã Kim Các Tự đi về phố chính. Ở đây không còn một chút gì của thành phố cổ kính nữa. Cũng nhà cao tầng, phố đông người, buôn bán tấp nập.
Tuyết lại rơi, hạt lớn hơn. Cả phố mặc áo màu sậm và tuyết trắng đậu trên tóc, trên áọ Tuyết tan nhanh. Tan đi những ảo tưởng mơ hồ.
Kyoto như là Huế của Việt Nam. Trong giây phút bỗng thấy Kyoto tan đi trong Huế qua khuôn mặt của Naka, người phiên dịch quá xinh đẹp. Hình như người thiếu nữ Nhật nào xinh đẹp cũng rất gần với vẻ đẹp Việt Nam.
Naka là một bài thơ tình làm nhớ lại một khuôn mặt cũ. Một khuôn mặt cũ làm nhớ lại bài thơ cũ của Basho:
Chiều hôm qua một đạo binh
Không làm tôi sợ
Chiều nay tôi sợ bóng mình
Trên chuyến metro về lại Osaka dạy cho Naka một số từ mới, hơi khó hiểu với một cô sinh viên học tiếng Việt. Hai mươi ba tuổi cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao.
25 tháng 1
Ði thăm Nara-thành phố cổ nhất của Nhật. Ði thăm Nara là đi thăm Phật lớn. Tượng Phật lớn nhất thế giới bằng đồng đen cao 60m. Người nghệ nhân vô danh nào mà tài hoa quá sức. Ðẹp từ mắt, mũi, miệng, đến nếp áo, ngón chân, ngón tay. Buddha Vairocana. Hoàng đế Shomu cho xây dựng từ 752 sau công nguyên. Ði thăm tiếp chùa Tháp ba tầng. Nhớ Linh Mụ Huế. Văn minh, tĩnh lặng mà đẹp quâ Trời cứ lạnh. Có lẽ chỉ còn 1 độ C.
Hôm nay là một ngày vui Hôm qua cũng vậy.
Về lại Osaka gặp ông thống đốc tỉnh Osaka. Ông tên là Yokohama. Ông thống đốc Yokohama là một nghệ sĩ hài nổi tiếng được nhân dân bầu. Ở Tokyo ông thống đốc cũng là một nghệ sĩ. Thời đại của văn học nghệ thuật đang nẩy mầm tươi tốt ở Nhật? Buổi tiếp tân vui nhộn, nồng nàn. Hồng Nhung mặc áo dài gấm Việt Nam. Hát không cần đàn. Trịnh Công Sơn hát. Rồi ông Yokohama cùng ban lãnh đạo đều bước lên bục hát. Ðời như trẻ lại.
Gặp những người lãnh đạo một cái hội mới rất lạ: Hội "Osaka 21st Century Association". Bắt đầu sống và làm việc cho thế kỷ tới ngay từ bây giờ.
Ngày mai sẽ là buổi hội thảo về văn hóa Việt Nam. Symposium lần thứ IV về đời sống văn hóa châu Á. Văn hóa tóm lại chỉ là con người. Ðiều đầu tiên và điều cuối cùng: con người. Viết đến đây bỗng giật mình đọc ở bảng chỉ dẫn: En caso de terremoto (trường hợp động đất). Không có cái mũ an toàn nào để che đầu cả. Rõ ràng một đất nước sống trong tình trạng lo âu về động đất, không có tài nguyên gì cả mà vẫn có thể giàu có phi thường. Tài nguyên duy nhất: con người và trí tuệ.
26 tháng 1
Buổi sáng đến "Dawn Center" của khu Chuo thành phố Osaka. Hồng Nhung và tôi xin thử lại âm thanh và ánh sáng cho buổi tập dượt để chuẩn bị buổi trình diễn đêm nay. Phòng hội thảo cũng là sân khấu trình diễn chứa khoảng 500 người. Hệ thống âm thanh và ánh sáng được điều khiển từ xa trên lầu cao. Liên lạc với chuyên viên kỹ thuật bằng máy.
Ðây là nhà của Hội Phụ nữ thành phốOsaka. Qui mô xây dưng của nó khỏang bằng mười lần khách sạn New World. Có đủ phòng triển lãm, nhiều phòng hội thảo, sân khấu...
Buổi chiều hội thảo bắt đầu lúc 6 giờ. Trên dãy bàn của các thuyết trình viên có tên của từng người bằng tiếng Nhật theo thứ tự: Trịnh Công Sơn, Nguyễn Mạnh Hùng, chị Bùi Thị Loan, giáo sư Tomita Kenji, chị Oishi Yoshino. Bên cạnh tôi, ở một bàn riêng là phó giáo sư Momoki Shiro làm người hướng dẫn chương trình.
Chương trình nói chuyện ngắn gọn, chỉ nói những điều chủ ý. Qui định mỗi người chỉ nói trong vòng 15 đến 20 phút, sau đó trả lời những câu hỏi của khán giả. Có một điều đặt ra hơi gay gắt là người Nhật không thành thật bằng người Việt Nam. Họ luôn luôn sống hai mặt với hai con người khác nhau. Ðiều rất lạ là cả chị Loan (lấy chồng Nhật và đang sống tại Nhật) cùng các anh Tomita, chị Oishi cũng cùng quan điểm như thế. Vì số thời gian qui định quá ít nên tôi chỉ nói về hành trình của tôi và Zen trong thế giới âm nhạc của tôi.
Sau phần hội thảo, sân khấu đóng lại để chuẩn bị cho phần trình diễn. Hồng Nhung và tôi thu gọn chương trình trong vòng một giờ cùng với lời giới thiệu nội dung của từng bài đã được dịch ra tiếng Nhật trước. Khán giả hoan nghinh nhiệt liệt. Có yêu cầu hát thêm nhưng đã hết giờ.
Quyến luyến bắt tay nhau, chụp hình cùng các em sinh viên Việt Nam học tại Nhật, tặng hoa và từ giả.
27 tháng 1
Gặp gỡ báo chí và truyền hình Nhật. Các báo lớn như Mainichi, Asahi đều có bài viết và truyền hình trực tiếp. Nhờ có truyền hình tôi được ông Tamura tìm đến gặp và hứa sẽ tiếp tục ký hợp đồng. Tôi và ông Tamura đã làm việc với nhau qua thư từ trước 1975. Sau hơn 25 năm mới gặp mặt lần đầu. Vui mừng vô kể. Có cả nhạc sĩ và nhà thơ nổi tiếng Mozu tìm đến thăm và tặng quà. Tôi mang theo sách nhạc và casette quá ít nên không đủ để chia đều cho mọi người.
28 tháng 1
Ði Tokyo. Ðến nơi gặp các bạn Việt Nam đang sống và làm ăn tại Nhật. Gặp Hito-đại diện cho Horipro TSC là công ty mời đến Tokyo. Ở lại khách sạn lớn Akasaka Tokyu Hotel ngay trung tâm thành phố. Ði tham quan thành phố. Hồng Nhung đi xem Disneyland của Nhật cùng Hito. Tôi đi cùng các bạn Việt Nam quanh các khu phố lớn, khu phố nhỏ để thử tìm lại một vài dấu vết gì đó của Nhật Bản xưa nhưng vô ích. Tokyo là một thành phố hiện đại như mọi thành phố hiện đại khác của thế giới. May gặp ngày chủ nhật nên mới có thể tìm chỗ đậu xe.
Quanh quẩn một hồi lại tìm vào quán ăn uống. Hầu hết các quán ăn, quán uống ở Nhật đều chỉ nghe một thứ nhạc buồn buồn, tỉ tê, rỉ rả của đàn koto. Mọi bữa ăn, mọi thức ăn NHật ở mọi nơi đều giống nhau, uống sake hâm nóng. Người thiếu nữ đi theo bao giờ cũng là người rót rượu. Ðã thành phong tục tập quán rồi. Trên sàn ăn, bao giờ họ cũng ngồi quì gối. Mình là khách, ngồi sao cũng được. Ðối với cánh đàn ông, vào quán rượu luôn luôn là điều lý thú nhất. Ðàn bà con gái thì thích đi shopping hơn. Ðồ đạc nhiều quá mà mắc quá. Mọi thứ đều đắt đỏ, từ ăn uống đến phương tiện di chuyển như taxị Bước chân lên xe là đồng hồ đã 6 USD rồi.
Tối nay đến sứ quán Việt Nam tại Tokyo. Một bữa tiệc nhỏ, thân mật được bày sẵn. Mọi người nâng ly chúc mừng nhau. Chụp ảnh kỷ niệm và chia tay nhau để chuẩn bị ngày mai về Osaka.
29 tháng 1
Trước khi lên máy bay lại phải dành hai giờ cho hai cuộc phỏng vấn của các báo Yomiuri và Mainichi tại trụ sở của tổ chức Horipro. Có lẽ trong chuyến đi này làm việc với truyền hình và các báo là nhiều nhất và khá căng vì sau buổi ăn trưa là làm việc ngay không còn thì giờ nằm nghỉ một tí như ở Việt Nam nữa.
Về đến Osaka vào buổi chiều gần tối. Những người bạn Nhật đưa tận đến Tokyo đã về trước và đón ở sân bay.
Bữa tiệc cuối cùng kéo dài đến khuya trong một bầu không khí anh em nồng nàn tình cảm.
Ngày mai 30-1 sẽ về lại Việt Nam.
Có một thứ hành trang không mang theo được. Thứ hành trang mà kẻ hành giả homoludus là tôi trên dặm dài của cuộc đời này vẫn khó lòng nguôi ngoai nỗi nhớ được. Ðó là: Naka.
Ngày mai 30-1 cũng là ngày sinh nhật của Naka. Tôi đã gửi quà về trước từ Tokyo, không hiểu Naka đã nhận được chưa.
Buổi tối chia tay có Mozumi tìm đến. Mặt hơi buồn.
Mozumi là cô phiên dịch thứ hai đang làm luận văn ra trường về Hồ Xuân Hương. Mozumi cao lớn và cũng xinh nhưng tôi lỡ nhìn thấy Naka trước rồi.
Có bài thơ tặng Naka xin chép ra đây cho vui:
Ichi Nichino Ko Fuku
Isseiwa Mijikai Honemade Ashite!
Zannen Dewanai
Hokano Seikarsuwa
Hajme mashô ***
(TTCN 11-02-1996)
*** Bài thơ trên TCS không dịch sang Việt ngữ nên sau đây là hai bản phóng dịch của hai bạn trong nhóm VIJ bên Nhật, các bạn xem cho vui:
1/ Một ngày hạnh phúc
trong đời ngắn ngủi
Xin hãy yêu thương
đến tận tuỷ xương
Ðể đừng luyến tiếc
Khi đến cho ta
một đời sống khác xa!
2/Yêu đi em
Hạnh phúc một ngày
Dẫu nhân sinh một đời
ngắn ngủi
Có gì phải bận lòng
tiếc nuối
Những chuyện khác trong đời
Ta hãy bắt đầu từ giây phút hôm nay.