vhnt, số 257
26 December 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Tiếng hát thiên thần ........................................ian bui
2 - Bài độc vận .............................................Vân Hoành
3 - Say ..............................................................Lê Tạo
4 - Ðêm về ....................................................Ðức Lưu
5 - Trèo lên cây bưởi .............................................Chinh
6 - Ðừng buồn, em ......................................Trần Thái Vân
7 - Ôm giấc ngày đông .......................................Thụy Phong
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Boston và đêm thơ Trần Trung Ðạo ................Trần Hoài Thư
9 - Ðiểm phim: The preacher's wife ...................Nguyễn Tiến Dũng
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
10- Giáng Sinh Cali nhớ Giáng Sinh Sài Gòn (tùy bút) ..............PTN
11- Mùa đông viễn xứ ........................................Chân Mây
Chúc bạn đọc những ngày lễ bình an, thanh thản, và tràn đầy niềm vui chuẩn bị cho một năm mới hạnh phúc, may mắn và thật nhiều hứa hẹn.
thân ái,
PCL/vhnt
Tiếng Hát Thiên Thần
Ðêm an lành, đêm thanh bình
Ðêm gió ngừng, đêm thiên thần
Vang tiếng hát ca mừng Chuá ra đời
Trong hang đá chiên lừa đứng im chờ
Ðêm trong vắt, một vì sao giáng
Xuống trần gian mang kiếp người
Ðêm mẹ hiền, đêm cha trời
Ðem máu hồng dâng cho đời
Ðem ánh sáng soi đường đến muôn loài
Ðêm thanh vắng, chỉ nghe tiếng côn trùng
Nơi hang đá máng cỏ êm ấm
Tiếng ai vừa khóc khi ra đời
Ôi vui mừng! Ôi tưng bừng!
Bao thiên thần reo vang lừng
Ðem tin Chúa giáng thân đi bốn phương trời
Mang tiếng khóc Chúa sơ sinh đến tim người
Ngôi sao sáng trong một đêm đó
Có ta nhìn thấy nơi chân trời ...
12'92
ianb
Bài Ðộc Vận
Ðã xếp bút cuộn tròn tâm tư lại
Cho uyên nguyên ôm chặt ý thơ ngà
Tình yêu đã mang hồn lên chót đỉnh
Chợt nghe buồn đong lạnh giọt thu sa
Tay tự thuở kết tròn vòng khao khát
Tự thuở ôm đầy ước vọng thăng hoa
Là quên nỗi trầm luân cát bụi
Quên hết đau thương nhận tự cõi người ta
Sao vẫn sáng ý sầu mưa cuối hạ
Trời đầu thu ngấn đọng vết sương pha
Mây bạc phếch dung nhan ngần xa lạ
Vọng hoang liêu lạnh buốt vết trầm kha
Rời rã vòng tay vỗ nhịp mà ca
Một bài ca độc vận
Bên giòng sông năm tháng loãng hư ba
Tình yêu vẫn ngàn đời xa lạ
Vẫn ngàn đời là ảo ảnh kiêu sa
Tình yêu vẫn chơ vơ trời huyền niệm
Ðời nguyên khôi vọng nguyện mãi xiêu tà
Tình yêu sẽ không bao giờ cô thực
Cho xa gần hỗn độn gần xa
Rồi gom hết đau buồn làm chất liệu
Dựng chân trời tuyệt đẹp thi ca
Anh sẽ kết tròn vòng tay ảo tưởng
Ru em mơ tròn giấc đọng thơ ngà
Sẽ hát mãi bài ca buồn độc vận
Ý thu sầu mưa ướt nẻo đợi chờ
Sẽ ôm mãi hai, ba trời kỷ niệm
Ðể gieo vần, dệt tứ thoát hồn thơ
Anh sẽ khóc cho tình yêu tròn nghĩa
Ðời được chừng bao ý nghĩa bơ vơ?
Em im lặng mơ hồ như mặc niệm
Dong dã thuyền bí nhiệm giữa hư vô
Ta đã sống cho trần gian lung nước mắt
Cho quê hương xếp vụn nếp khăn sô
Ðời chẳng có một lần xô môi lệch
Ta vui buồn cho một nụ tiêu sơ
Súng vỗ nhịp ba-lô
Anh chú nguyện một vần thơ
Cho mãi đến ngày viên ngộ
Em lặng im như mặc niệm mơ hồ
Vân Hoành
1968
Say
Nâng ly đi anh!
có gì đâu phải lo toan mệt nhọc
cứ uống đi, cho thảnh thơi trí óc
chuyện quê hương, dân tộc tính sau.
Uống nữa đi anh!
hơi đâu mà bia đá với sử xanh
trăm năm bia đá cũng mòn
bia miệng cũng mất, chỉ còn bia ... Coors!
Thêm ly này nữa đi anh!
chuyện trại cấm, thuyền nhân...
tất cả đã là quá khứ
lo thân mình chưa đủ, hơi đâu lo chuyện người tạ
Cạn thêm ly nữa đi anh!
sau cơn mưa, trời lại sáng
nhọc nhằn chi chuyện Cộng sản, Quốc gia
lo toan chi, cứ "quà vợ cơm nhà"
đời chỉ một lần sao không tận hưởng?
...
Bốn vỉ bia Coors đánh gục sáu anh hùng
thưa anh, chỉ có những kẻ khùng
mới vác ngà voi cho kiệt sức.
Cứ uống đi anh!
uống để quên máu đỏ da vàng
dễ quên bao kẻ lầm than
để thằng... cháu nội khóc tiếng... Anh như người!
Lê Tạo
Ðêm về
Ðêm về nghe gió tự tình
Thẹn thùng, lá cũng trở mình xôn xao
Hồn thu lắng đọng nơi nào
Khẽ đưa rặng liễu hắt hiu cuối ghềnh
Võ vàng một loáng trăng chênh
Nửa vờn bóng hạc, nửa nghiêng giọt sầu
Chập chờn con nước nao nao
Lượn quanh từng đám cỏ sầu xác xơ
Không gian lặng ngắt như tờ
Một mình rồi lại thẩn thơ với mình
Ðêm buồn như rõ chuyện mình
Cảnh sầu, cảnh vẫn hữu tình làm sao
Hồn người chết tự hôm nào
Lòng sầu, lòng mãi nao nao, vẫn sầu...
Ðêm về, nghe gió thì thào
Thẹn thùng lòng bỗng nghẹn ngào... như xưa!!!
Ðức Lưu
Trèo Lên Cây Bưởi
tặng Thận Nhiên
"Trèo lên cây bưởi hái hoa"
Nhớ câu lục bát vàng phai giữa ngày
Câu sáu chữ đã vội say
Tìm đâu câu tám cho ngày động kinh
Hồn thơ ra bất thình lình
Bước xuống cây bưởi làm tình với thơ
Lâu ngày tìm lại giấc mơ
Nên thơ đứng giữa hai bờ tử, sinh
Qua vườn cà, nhớ người tình
Lại lên cây bưởi ru mình... à ơi...
Nụ tầm xuân nở rộ đời
Tỉnh ra thấy rụng tơi bời, vần thơ .
Chinh
17/12/1996
Đừng Buồn Em
Em đứng trong chiều buồn vô tận
Trời bạc màu đùng đục sương giăng
Cánh chim bay lòng thêm u uẩn
Mơ giấc mơ vỗ cánh lên ngàn
Khóc đi em cho lòng nhẹ nhõm
Không khí dòn tan vỡ chiều nay
Khóc đi em sao đêm về sớm
Làm tình nhân rồi hết một ngày
Ừ, em nhỉ, có gì bất biến
Cuộc vui nào lại chẳng ngày tan?
Thì, em ơi, bao nhiêu quyến luyến
Cũng đành thôi, lá rớt nhánh bàng...
trần thái vân
Ôm Giấc Ngày Ðông
Một nhánh cây khô rớt bẽ bàng
Trong vườn hiu quạnh gió mơn man
Từng phiến bụi mưa rơi không ngớt
Trên lá hoa cành tuyết mênh mông
Lạc cánh chim buông bóng lỡ làng
Trên trời cao vọng tiếng than van
Ủ rũ vườn mây không nắng sớm
Vây kín lưng trời khói sương giăng
Lại đến rồi đây dấu lạnh lùng
Một mùa đông nữa đến mênh mông
Bó gối nhìn mây trôi hờ hững
Ngày lặng im về không bướm ong
Xóa mãi không vơi tuyết trong lòng
Bao ngày tháng đợi bấy nhiêu mong
Ðể mặc hồn đơn ôm nỗi nhớ
Tưởng vọng chân trời đôi mắt trong
Nhớ mãi hình ai nét gợn buồn
Trên vành chăn mộng gối thơm hương
Mơ bóng dáng em đang hờn dỗi
Ðể mặc cho lòng bao vấn vương
Chan chứa rèm mi ứa lệ hồng
Bao lần thổn thức nỗi niềm mong
Ðời mải buông trôi trong bối rối
Nào có ai người thương nhớ không?
Âu là huyễn mộng phút âm thầm
Giữa mùa sương đọng thấm yêu thương
Chiếc lá lập đông run rẩy chết
Bên gốc cây già trơ xác thân
Một thoáng mưa giông đến ngỡ ngàng
Cõi đời xua động tiếng rền vang
Ôm giấc mùa đông ta mòn mỏi
Ðể lúc xuân về băng giá tan.
Thụy Phong
(1989)
Boston và Ðêm Thơ Trần Trung Ðạo
Boston và những con tim kỳ diệu. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn chưa làm xong bài thơ nói về một thành phố đã cho tôi những cơn say rất ngọt và những đêm thức trắng trong mỗi lần tôi ghé lại. Bởi tôi đã bất lực trong việc diễn tả nỗi kỳ diệu này. Những bạn hữu đã quen rất lâu hay những người mới gặp một lần. Những tấm lòng tri âm và tri kỷ. Một buổi tối tại nhà Trần Trung Ðạo, ngập tràn khói thuốc, mênh mông thi ca, cốc chai vương vãi, để rồi ngày mai cả bọn lại bỏ đi, nhường lại cho TTÐ cái cõi yên lặng kinh sợ mà anh có lần nói là nhiều khi muốn nổi lửa mà đốt. Tình bằng hữu chan chứa như thế đô
Nhưng lần về Boston cho đêm ra mắt hai tập thơ Thao Thức và Ðổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười kỳ này (ngày 23/11/1996), tôi càng hiểu thêm về những điều kỳ diệu khác từ Boston. Không phải ở Boston có MIT hay Harvard. Chúng dành cho người bản xứ, từng một thời là nơi dành riêng cho giai cấp giàu có và địa vị của Mỹ. Không phải Boston có thư viện rất nổi tiếng nằm bên bờ Ðại Tây Dương, với lối kiến trúc rất tân kỳ, nổi tiếng nhất nhì của nước Mỹ. Cũng không phải Boston có một mùa thu tuyệt vời ở những cánh rừng ngoại ô. Cũng không phải Boston có một truyền thống văn hóa rất đặc thù từ những người tiền phong theo chiếc tàu May Flower. Ðó là chuyện của người bản xứ. Còn đối với người Việt xa xứ này, nó cũng vẫn như mọi thành phố khác. Con đường Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hoá Việt Nam. Và một khu Việt. Và những gương mặt da vàng. Và những lời trao đổi bằng tiếng mẹ đẻ vang trên bãi đậu xe. Ðời sống vẫn bận rộn. Cõi lòng vẫn quay quắt. Nhớ nhung vẫn bão bùng. Bạn hữu mấy thằng trôi thất tán. Mấy thằng đợi một chuyến đò ngang... Cái mẫu số chung ấy là mẫu số của bất cứ người tị nạn nào trong chúng ta.
Riêng Boston, còn hơn thế nữa. Boston có những con tim kỳ diệu. Bằng chứng là đêm thơ ấy với trên 400 người tham dự. Tôi không nói khoác. Người đến trể đã phải đứng. Người quen phải nhường chỗ cho người lạ. Ghế kê thêm cũng không đủ. Lại có rất nhiều bạn trẻ. Tại sao vậy?
Tôi nghĩ, sự thành công của đêm Trần Trung Ðạo, là thơ Trần Trung Ðạo đã nói lên được cái mẫu số chung của đa số người Việt ly hương, đã chuyên chở được những nỗi thao thức, bâng khuâng của tuổi trẻ, đã đặt vào thơ anh có một sự chọn lựa rõ ràng, dứt khoát. Thơ anh là tiếng kêu trầm thống, nhưng không bi quan, yếm thế mà trái lại sau đó, mang theo ngọn lửa hy vọng. Thơ anh không phải là loại thơ hệ lụy nhân sinh, tình yêu trai gái. Trái lại là trái phá, trái nổ, kim chích vào tận buồng tim của chúng ta, bắt ta không thể làm ngơ để tự hỏi lòng mình. Mỗi bài thơ anh là một mảnh đời, một câu chuyện. Từ người lính già chết cô độc ở miền Tây Hoa Kỳ, đến em bé tị nạn. Từ một trại hè của anh em trẻ đến những bạn hữu giao tiếp hằng ngàỵ Khó khăn nhất cho một người làm thơ cho dân tộc, quê hương là làm sao những dòng thơ kia không mang màu sắc tuyên truyền kiểu tâm lý chiến. "Thèm một tối cùng anh em bè bạn. Uống cho say rồi chết giữa Sài Gòn". Ai lại không thèm như thế trong chúng ta. Nhất là thế hệ của tôi. Thế hệ trực tiếp gánh những hệ lụy của chiến tranh và hậu chiến tranh, Ðáng lẽ chúng tôi phải nói như thế. Thơ tôi, vâng, cũng khá nhiều. Văn tôi, cũng khá nhiều, nhưng tôi phải thú nhận thật thà rằng, tôi chưa một lần viết nên một nỗi mơ ước si đắm cuồng điên như thế. Thời của Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc không phải là thời của thế hệ tôi. Thời tôi là thời của Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng... Nhưng may mắn thay, chúng tôi đã có những nhà thơ trẻ như Trần Trung Ðạo.
Với tôi, niềm tin là một cái gì đó quá mong manh. Thơ Trần Trung Ðạo đã là nhen vào bãi tro lòng của tôi những cục than hồng. Tình bạn hữu, nghĩa văn chương, chúng tôi đã san sẻ rất nhiều qua những lần gặp gở, trò chuyện, nhưng có một thứ khác mà tôi chưa bao giờ dám nói ra. (Có lẽ là hơi khó nói). Ðó là lòng tri ân của cá nhân tôi, và những người đã đến với thơ anh rãi rác trên các tạp chí hải ngoại, là cái niềm tin "Thèm một tối cùng anh em bè bạn. Uống cho say rồi chết giữa Sài gòn".
Tôi không nói quá đâu. Nhà văn Trần Doãn Nho là một người rất cẩn trọng khi viết hay nói về một tác phẩm nào. Ðêm hôm ấy, lần đầu tiên được anh mang cả gia đình của anh đi cùng. Nhìn cô ái nữ rất khả ái của anh trong chiếc áo dài Việt Nam, tôi mới hiểu vì sao. Vâng, vì sao? Tôi xin được trích lại những lời của nhà văn Trần Doãn Nho về thơ Trần Trung Ðạo:
(...) nhưng ở đây tôi không có ý định so sánh ai với ai. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến không khí thơ, và tấm lòng của những nhà thơ, tấm lòng của những con người trước nỗi điêu linh, thống khổ của con người trong những hoàn cảnh lịch sử vô cùng khắc nghiệt...
Trong hầu hết các bài thơ, Trần Trung Ðạo đã để đời sống tuôn chảy vào trong thợ Không có gì cầu kỳ và xa lạ ở đây cả. Ðó là những mảnh đời vô cùng cụ thể bình thường, và thậm chí tầm thường, mà chúng ta có thể nghe thấy, cảm thấy và ngay cả sờ mó được. Chúng chảy xuyên qua một tấm lòng tha thiết để biến thành hình ảnh thơ và ngôn ngữ thơ...
Anh không làm dáng, không cường điệu, đọc thơ anh, ai cũng cảm thấy có môt chút gì của mình ở trong, rất đậm, rất thân tình khiến cho chúng ta nghĩ chúng ta đang làm thơ chứ không phải Trần Trung Ðạo làm thơ.
Tôi đi giữa Sài Gòn
Lòng vô tư như lòng người khách lạ
Ðêm tháng sáu trời mưa tầm tả
Nhưng hồn tôi trong sáng vô cùng
Những hận thù, oán ghét, thủy chung
Rồi sẽ qua đi tất cả
Tối mai nầy tôi sẽ đi xa
Ðến một nơi tôi chưa hề đến...
Cái tan nát, cái bi thương của thế hệ tuổi trẻ miền Nam được anh diễn tả bằng hình ảnh rất đơn sơ, rất nhẹ nhàng, rất cụ thể nhưng hầu như nói lên hết được nỗi bi tráng của một cuộc phế hưng.
Bạn bè nay chẳng còn ai
Dăm đứa ở lại đạp xích lô
Dăm đứa về quê làm ruộng
Có đứa dường như đã vượt biên
Có đứa bỏ mộng làm thầy để đi bán sách
Phượng, bây giờ chắc đã có chồng
Nước Mỹ xa xôi chẳng còn gì đáng nhớ
Những ước mơ xanh và một thời mộng đỏ
Sẽ vàng hoe theo những tháng năm quên
Trời Sài Gòn tháng sáu mưa đêm
Như những nhát dao chém xuống đời vội vả
Tôi ra đi dặn lòng quên tất cả
Những hẹn thề toan tính thuở hoa niên
Bốn phương trời lưu lạc một bầy chim.
(trích trong Ðêm Cuối Ði Qua Trường Luật)
Những ước mơ xanh và một thời mộng đỏ Sẽ vàng hoe theo những tháng năm quên
Ôi tôi đã đọc đi đọc lại những câu thơ nầy trong một trạng thái ngẫn ngơ. Ðố ai trong số chúng ta không tìm thấy chính mình trong những câu thơ trên với một trạng bàng hoàng thê thiết của một kẻ ra đi một phương trời vô định.
Tôi xin đọc thêm bốn câu thơ của Trần Trung Ðạo:
Ôi quê hương bao giờ tôi trở lại
Ði giữa ngày không sợ bóng đêm đen
Trong giấc ngủ không xích xiềng réo gọi
Câu thơ tình chỉ viết để yêu em.
(Giấc mơ nhỏ của tôi)
Nếu tôi có một ước mong về Trần Trung Ðạo đó là sẽ được đọc những bài thơ tình của anh, thú vị biết bao "câu thơ tình chỉ viết để yêu em." (trích từ bài nói chuyện về thơ TTÐ của nhà văn Trần Doãn Nho)
Vâng, tôi cũng như người bạn cùng một thời của tôi. Được ngồi lại Sài gòn để uống thật say rồi chết đi cũng được. Và cũng được trở lại Sàgòn, bình yên để làm thơ yêu em. Cám ơn Trần Trung Ðạo đã cho tôi niềm ước mơ ấy. Và cũng cám ơn Boston với những con tim kỳ diệu. Nếu không có những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn sẽ không có Trần Trung Ðạo. Có phải vậy không, anh Trần Trung Đạo?
Trần Hoài Thư
ÐIỂM PHIM : THE PREACHER'S WIFE
Thoạt nhìn cái tựa phim thấy cũng thường, "Vợ người giảng đạo", chắc lại là phim về tôn giáo chứ gì, ồ, có gì mới đâu? Nhưng liếc vội qua dàn diễn viên, tôi mới có chút quan tâm, nào là Denzel Washington, Whitney Houston, Lionel Richie... Có lẽ không ai lạ lẫm gì với anh chàng diễn viên da đen điển trai Denzel Whashington này. Anh dã đóng nhiều phim từ License to Kill (1984), A Soldier's Story (1984), Philadelphia (1993)...và mới đây nhất là phim Courage under Fire (1996). Còn Whitney Houston thì khỏi phải nói, cô đã được mệnh danh là Diva trong làng nhạc, đã tập tễnh đóng phim qua Perfect (1985), The Body Guard (1992, đóng chung với Kevin Costner và hát bài I always love you), và Waiting to Exhale (1995). Còn Lionel Richie, anh chàng ca sĩ nổi tiếng với bài Hello thập niên '80...
The Preacher's Wife chỉ là tái bản của phim The Bishop's Wife, một phim của hãng Carey Grant Grant năm 1947. Qua phim này, khả năng diễn xuất của ca sĩ Whitney Houston và Denzel Washington đã được xác nhận. Sự duyên dáng của Washington đã trải dài cuốn phim trong đó một Angel (Washington) đã giúp đỡ người giảng đạo (Vance) và vợ ông ta (Houston) trải qua những giây phút khắc nghiệt của đời sống và hạnh phúc gia đình.
Henry Biggs, người giảng đạo, là một người bận rộn, quá bận đến nỗi ông thường bỏ bê vợ con. Trong khi ông bận đi thăm những người trong họ đạo trong nhà thương, làm việc ở những bếp ăn từ thiện, và đấu tranh với các nhà phát triển đất đai để giữ cho hà thờ được tồn tại, thì ông đã không nhìn thấy bà vợ Julia của ông. Khi người con trai của ông Jeremiah phải xa người bạn thân nhất vì người bạn này bị gửi tới một nhà nuôi trẻ, Henry thậm chí không hề nhận thấy là có một vấn đề gì. Luôn luôn là "Chúng ta sẽ bàn về điều này sau nhé" nhưng thật ra những vấn đề của ông càng ngày càng chồng chất. Vì vậy khi Henry tình cờ yêu cầu Dudley, một người đàn ông to lớn ở trên lầu giúp đỡ, ông đã nhận được sự giúp đỡ của một thiên thần đã từ lâu chờ đợi trở về quả đất để giúp đỡ ai đó cần giúp đỡ.
Mặc dù có sự nghiêm túc trong khi dàn dựng những tình tiết, The Preacher's Wife vẫn có những cảnh vui, hài và đẹp mắt suốt cuốn phim. Thật bất bình khi nhìn Dudley cố gằng thuyết phục Henry anh ta là một thiên thần ( xảy ra trong nhiều cảnh). Mối liên hệ giữa Washington và Edmund (cậu bé đóng vai con trai người giảng đạo) thật là đầm ấm. Chính hai người này đã tạo ra những giấy phút tuyệt nhất của cuốn phim. Về mặt tình cảm, khi Dudley cố gắng thuyết phục Henry về những gì có thể bị mất mát, anh đã làm quả tim của Julia rung động. Nhưng tình tiết này không bao giờ trở nên rẻ tiền hay có tính cách đe dọa,; nó chỉ làm cho cuốn phim thêm nhẹ hàng và tò mò đôi chút.
The Preacher's Wife đã cố biến vài tư tưởng cổ trở thành mới, cũng như đã biến một phim cổ điển trở thành hiện đại. Những tình tiết đã trộn lẫn rất hay thành câu chuyện chính và cho chúng ta toàn cảnh về cuộc đời của Henry. Ông ta đã trải qua hầu hết những gì mà nhiều người trong chúng ta trải qua, cũng như đã giải quyết chúng y hệt chúng ta. Có thể nói The Preacher's Wife có tạo hứng và phản ảnh đúng những gì xảy ra trong đời thường.
Tóm lại The Preacher's Wife là một phim hay. Tất cả diễn xuất đều được điểm A. Phim đáng được xem nhân mùa Giáng sinh này.
Nguyễn Tiến Dũng
The Preacher's Wife: US (1996), 117 phút
Ðạo diễn: Penny Marshall
Tài tử: Denzel Washington, Whitney Houston, Courtney B.Vance, Loretta Devine, Jenifer Lewis, Gregory Hines, Justin Pierre Edmund, Lionel Richie.
Giáng Sinh Cali nhớ Giáng Sinh Sài Gòn
Chỉ còn vài ngày nữa là Giáng sinh rồi. Thật là lẹ Mới đó mà đã một năm nữa trôi quạ Tôi còn nhớ như in trong đầu cái đêm giao thừa Tây, nằm dài trên cái couch coi bà con ở New York countdown, rồi coi múa lân Việt Nam của đài truyền hình Saigon mà bây giờ lại sắp hết một năm nữa rồi.
Tôi thích nhất cái không khí của tháng 12 nhất trong năm. Có lẽ tại vì có cái không khí của ngày lễ hay là nghĩ đến gần 2 tuần không phải đi làm mà vẫn có lương không biết. Sáng mở mắt ra, không khí lành lạnh buổi sáng cứ giữ tôi lại trong 2 cái chăn ( 2 cái tại một cái lạnh quá, tôi phải trùm 2 cái một lúc cho ấm). Thiệt là một cực hình nếu phải chui ra ngoài chuẩn bị cho một ngày mới. Tôi thường cố gắng làm biếng nằm dài ra nghe thêm vài bản nhạc từ cái radio alarm trước khi "nghiến răng" dũng cảm ngồi dậy. Những lúc nằm như vậy, tôi lại nhớ đến những ngày Giáng sinh ở Sàigòn thân yêu.
Vào khoảng tháng 11, 12, không khí Saigon trở nên mát lạnh hơn, những vạt nắng vàng chiếu qua kẽ lá hình như dài ra và không còn gay gắt như vài tháng trước đó. Không ai bảo ai, mọi người đều cảm thấy cái không khí của ngày lễ cuối năm đang dần dần tràn ngập trong lòng. Ngoài đường, người ta ai cũng trở nên dễ thương hơn trong những cái áo lạnh đủ màu vừa lấy từ trong tủ ra sau bao nhiêu tháng chờ đợi.
Tôi, cũng như bao nhiêu đứa trẻ khác, háo hức mong đợi ngày lễ. Chẳng phải vì đó là ngày Chúa Giáng Sinh vì gia đình tôi không phải đạo Công giáo nên tôi không rành lắm về lịch sử của ngày lễ, nhưng thử hỏi có đứa trẻ nào mà không thích ngày "Noen" ch Tôi thích nhất là la cà qua những cái sạp bán những cái thiệp Giáng sinh đủ màu sắc trước mặt nhà thờ Tân Ðịnh. Hồi nhỏ thì chỉ thích coi, lớn lên tí thì mua gởi cho thầy cô,bạn bè vặ"bạn" :)). Ðó là buổi sáng hay buổi chiều. Ðến tối thì còn đẹp hơn khi những người bán những cây thông bắt đầu bật những dây đèn xanh đỏ chớp chớp. Cónhững loại đèn còn có nhạc nữa chứ. Cho nên tôi và mấy đứa nhóc đứng coi và nghe hoài không biết chán. Chưa hết, nhiều người còn chế ra đủ loại đồ chơi cho ngày lễ. Tôi nhớ là tôi rất thích cái ông già Noel bằng bìa, có sợi dây sau lưng, khi kéo, 2 chân 2 tay đưa lên đưa xuống, miệng thì cười toe toét. Có năm tôi về nhà bắt chước làm nhưng khi làm xong, cái hình không có đẹp như của người ta in nên tôi liệng bỏ. Gần đó, người ta còn bán những cái tượng nhỏ xinh. Thôi thì đủ hết: đức Chúa trong máng cỏ, Thánh Giuse, Ðức Mẹ Maria, 3 ông vua gì gì đó, rồi thăn`g bé chăn chiên với đàn chiên, hay cái hang đá với ngôi sao chiếu sáng trên cao. Nhắc đến hang đá, tôi không bao giờ quên được một kỷ niệm dễ thương mà tôi không bao giờ quên được. Tôi nhớ năm đó tôi còn học trường Lasan Taberd, hình như là lớp 2 hay 3 chi đó. Trong trường có tổ chức thi làm hang đâ Còn nhỏ xíu mà, làm sao làm được. Tôi nhờ ông anh lớn làm dùm ( hihihi ăn gian mà). Ông anh kế tôi, học hơn một lớp cũng nhờ làm dùm luôn.
Thế nhưng ông lớn tôi là lính chứ không phải là nhà nghệ thuật cho nên ông anh tôi dùng dây kẽm bẻ lại thành cái sườn hang đá và... giấy bóng đỏ từ hộp bánh xu xê đám cưới làm hang đâ Xong đâu đó, ra ngoài chợ mua mâý cái tượng nhỏ mang về bỏ vô trong hang đá đỏ (không biết gần hang belem có núi lửa không mà đá đỏ vậy). Thế là xong, tuị tôi mang vô nộp. Mặc dù học khác lớp nhưng khi chấm điểm, mấy ông sư huynh trong trường bảo đảm biết ngay có 2 cái hang đá đỏ là cùng một tác giả. Tại vì giữa cả trăm cái hang đá làm bằng bìa cứng, bao ximăng xám, 2 cái hang đá của anh em tôi nổi bật với màu đỏ và còn bóng nữa chứ. Giống y như 2 hộp bánh cốm đám cưới. Tôi còn nhớ một ông sư huynh cười hỏi tôi sao cái hang đá của tôi đỏ vậy. Tôi không nhớ là cái hang đá đỏ hạng gì nhưng không bao giờ tôi có thể quên được cái kỷ niệm này.
Những ngày học cuối năm tự nhiên nhẹ nhàng hơn và vui hơn. Thầy cô không có khó như mọi khi. Thông thường ngày cuối cùng trước khi nghỉ lễ, thầy cô giành ra 1, 2 giờ cuối để cho học sinh liên hoan. Thường là trao đổi quà và văn nghệ. Dịp này cũng là dịp học sinh chúng tôi tặng thiệp để cám ơn thầy cô đã dạy dỗ chúng tôi. Tôi còn nhớ, mỗi học sinh làm một món quà rồi để lên bàn thầy, chúng tôi bốc thăm để đổi. Còn nhỏ mà nên làm gì có tiền mà mua quà, chúng tôi sáng chế đủ thứ quà. Quà của tôi là bỏ đầy đậu phụng rang trong một cái hộp, ở ngoài dán giấy viết "coi chừng mở ra nó nhảy mất đó". Hahhaha, làm một cô bạn được món quà đó không dám mở vì nghĩ ở trong là thằn lằn. (Nói đến đây, tôi nhớ đến một người bạn tên Trung Dũng học chung ở Lasan Taberd, tặng tôi một ông già Noel bằng bông gòn , bỏ trong một cái bao giấy dầu màu đỏ lúc ra về trước cổng trường. Tôi không còn gặp lại Dũng sau 75. Ước gì Dũng đọc được cái này và cho tôi biết, có thể 2 đứa không còn nhận ra nhau sau bao nhiêu năm nhưng tình bạn sẽ mãi tồn tại trong tôi.)
Ngày 24, đường xá đông nghẹt người đi chơi. Người lớn thì lái xe máy, con nít thì lái xe... chân. Chả biết đi đâu nhưng tôi cũng xin Mẹ tôi đi với bạn. Thường thì chúng tôi đi bộ lên nhà thờ Ðức bà coi náo nhiệt. Người ta ném bông giấy lên đầu nhau, đội mấy cái nón xanh đỏ, đeo mũi giả dài ra hay là thổi mấy cái kèn toe toe. Ngoài đường thì mấy anh chàng lạng xe qua lạng xe lại biểu diễn. Người ta đi đông ơi là đông và vui cũng thật là vui.
Hồi còn nhỏ, ba mẹ tôi nói muốn cái gì thì viết thơ cho Ông già Noel xin. Tôi tin thật, viết xin một cái máy bay. Cái thơ thì bỏ dưới gối ngủ. Ðến ngày Noel thì thấy gói quà có tên tôi, mở ra là một cái xe hơi nhỏ. Tôi buồn quá, hỏi Mẹ sao con xin máy bay mà ông già Noel cho xe hơi. Mẹ tôi nói chắc máy bay hết rồi nên ông già Noel cho xe hơi đó. Tôi cũng tưởng thiệt, và quên ngay cái máy bay mà chơi với cái xe mới. Sau này lớn lên tôi mới biết khi tôi ngủ, Ba Mẹ tôi lấy cái thơ ra coi chúng tôi muốn gì rôì đi mua, nhưng ngày lễ, đồ chơi mắc quá nên phải mua loại khác cho chúng tôi. Thật là tội nghiệp cho Ba Mẹ tôi.
Qua đến đây, lo vận lộn với đời sống, tôi cũng mong đợi ngày lễ Noel nhưng không phải là để có quà mà chỉ là để nghỉ xả hơi sau cả năm mệt nhọc. Ðồng thời cũng là lúc tôi hồi tưởng đến những kỷ niệm dễ thương thuở nhỏ. Và để cảm thông được với Ba Mẹ tôi khi đi mua quà cho tôi hồi nhỏ, bởi vì tôi sẽ phải mua quà chỗ..15 đứa cháu. Gia đình tôi là big family mà, nên cháu đông lắm. Ba Mẹ thì chắc chắn là phải mua rồi, mấy đứa nhóc cũng vậỵ Còn anh chị em thì... hạ hồi phân giải.
Hồi ở Việt nam, tôi rất thích ngày Noel bên đây: tuyết trắng rơi, đèn màu khắp nơi với những thứ đồ chơi đủ loại. Nhưng qua đến đây, tôi mới biết là không có gì có thể bằng được ngày lễ Giáng sinh ở Việt nam. Ở quê hương, cái gì cũng đẹp hơn, dễ thương hơn và hồn nhiên hơn.
PTN
12/19/96
Mùa Ðông Viễn Xứ
Người con gái mặc chiếc áo choàng dài phủ ngang đầu gối. Chiếc khăn che gió cuốn vòng chung quanh cổ màu đỏ sẫm kết hợp với màu xanh lá cây của chiếc áo choàng tạo nên màu quen thuộc của mùa Giáng Sinh. Ðôi mắt nàng đang nhìn về khung trời xa vắng, thăm thẳm như mong chờ một điều gì thầm kín. Vài áng mây trời treo lơ lửng trên mi mắt làm cho đôi mắt của nàng có sức quyến rũ, hấp dẫn lạ thường, dù rằng nó thấp thoáng một chút buồn. Tuyết rơi thật nhiều và điểm một vài đốm trắng trên mái tóc đen mượt mà của nàng. Dường như mùa đông đã về trong bức tranh " Mùa Ðông Viễn Xứ ".
Người hoạ sĩ một tay cầm bút hoạ, ngón trỏ của tay kia đặt lên gò má, uốn người qua uốn người lại ngắm nhìn tác phẩm của mình. Ðầu nàng gật gù nhè nhẹ như tỏ vẻ hài lòng về tác phẩm của mình. Ðám mây đen che khuất mặt trời vừa bay qua. Cái bóng đen của tôi bỗng in trên bức tranh của nàng. Nàng giật mình quay lại bắt gặp tôi đang đứng sau lưng ngắm bức tranh của nàng. Nàng ấp úng hỏi:
- Anh cũng thích tranh ? Anh thấy thế nào, có đạt mức của một tác phẩm không ?
Tôi còn chưa kịp kéo hồn về nên bật miệng:
- Tôi thích lắm. Bức tranh thật tuyệt vời, nhưng...
Nàng quay trở lại nhìn bức tranh:
- Nhưng không được đẹp, có đúng không ? Anh chỉ khen để an ủi tôi phải không? Cám ơn thật nhiều ý tốt của anh.
Tôi cố giải thích:
- Không đúng như cô nghĩ đâu. Bức tranh về mùa đông của cô đẹp lắm, nhưng phải chi cặp mắt của cô gái trong tranh đừng đượm nét buồn thì hay biết mấy.
Nét mặt nàng bỗng vui hơn một chút:
- Tranh thì có thể đổi được anh ạ với đôi tay của một người hoạ sĩ, nhưng tác phẩm thật ở đời qua nét họa của Thượng Ðế e khó mà đổi được. Anh có thể bắc thang lên hỏi ông trời giùm tôi có đúng như thế không?
Tôi mỉm cười thua cuộc:
- Cô hỏi là như đã trả lời vậy. Tôi cũng như cô, chúng mình không thể đi ra khỏi quỹ đạo của định mệnh được. À nè, rất tiếc tôi không có mang theo tiền, nếu không tôi sẽ mua bức tranh này của cô.
Nàng bịm môi cười khẽ:
- Anh chẳng có óc khôi hài tí nào. Giá như anh có tiền mang theo, anh trả bao nhiêu?
- Tôi sẽ trả đúng với giá cô muốn bán.
- Vậy anh sẽ không thể mua được bức tranh này?
- Cô chê tôi nghèo?
- Không phải vậy, mà là bức tranh này không bán.
- Không lẽ cô không sinh sống về nghề này?
- Cũng không phải vậy, vì đây là bức tranh đầu tay.
Tôi theo nàng bước vào cửa tiệm bán tranh. Trên tường treo đầy những bước tranh đủ mọi sắc thái. Có những bức mang từ Việt Nam qua, thường là mang tính chất tình tự quê hương. Có những bức tranh của các họa sĩ bên này sáng tác. Mỗi bức tranh là một tác phẩm ý nghĩa, nhưng đối với tôi, một người không biết nhìn tranh thì bức tranh nào có nhiều hình vẽ, nhiều mầu sắc có lẽ là bức tranh tôi sẽ thích. Cửa tiệm chỉ có hai người làm việc, một người đàn ông trạc tuổi và nàng. Trong lúc người đàn ông đang bận tiếp khách, tôi lại tò mò:
- Cô làm ở đây ?
- Dạ không phải, tôi học ở đây. Ðây là cửa tiệm của ông bác. Hằng ngày đi học về, tôi ghé ngang đây giúp ông và lúc nào vắng khách ông ấy chỉ cho tôi vẽ tranh. Nhà anh có bức tranh nào không?
Nghe câu hỏi của nàng, tôi hơi xấu hổ không muốn trả lời nhưng rồi cũng thành thật:
- Không có tranh, mà chỉ có rất nhiều lịch treo tường.
Nàng như đi guốc trong đầu của các chàng độc thân thường thích treo có lịch hình các tài tử Hồng Kông trên tường:
- Anh mê coi phim hay anh mê các tài tử ?
- Tôi mê cả hai. Còn cô, cô có thích xem phim không?
- Có lẽ còn mê hơn anh nữa. Tôi ước gì được là một tài tử dù chỉ đóng vai phụ.
Trời đã chập choạng tối. Tôi vội chào và bước ra về. Tiếng máy xe nổ, tôi chợt nhớ ra mình hỏi nhiều chuyện mà quên mất không hỏi tên nàng. Dọc đường lái xe, tôi không nghĩ nhiều về người con gái mà tôi mới gặp tình cờ, nhưng tôi suy nghĩ miên man về bức tranh nàng vẽ nhiều hơn. Nó khơi dậy trong tiềm thức tôi một vòm trời mùa đông đầy nhung nhớ và kỷ niệm. Tôi ước gì bức tranh đó hiện diện trong cuộc sống của tôi. Tôi sẽ ngắm nhìn nó mỗi buổi sáng thức dậy với ly cà phê bốc khói trên tay. Tôi cũng muốn tìm nơi nó một chút êm ái, dịu dàng sau một ngày học hành mệt mỏi. Tôi chưa có tình yêu, nhưng nếu tôi được quyền chọn lựa mùa để gởi gắm mối tình đầu, thì chỉ một mùa đông sẽ đơn độc đứng trong danh sách. Tôi yêu mùa đông lắm, nhất là những lúc ngồi bên song cửa sưởi ấm nhìn tuyết rơi. Và mỗi khi tuyết rơi, tôi ước gì dồn được hết những cánh " bông gòn " đang bay bay đó vào trong cái lọ để dành cho mùa hạ. Nhưng cụm mây đen trên đỉnh đầu che mặt trời lại và như muốn nói với riêng tôi:
- Này bạn nhỏ, chỉ có một Thượng đế mà thôi !
Tôi bước vào lớp học đông nghẹt của ngày khai giảng niên học mới. Cái ngày đầu bao giờ cũng đông thế, nhưng chỉ vài tuần lễ sau là các học sinh sẽ "drop" dần dần. Trong giờ điểm danh, tôi nghe bà giáo sư gọi tên một học sinh Việt Nam lơ lớ, têu tếu "Băng Trinh". Người thiếu nữ cất giọng trả lời nghe rất quen thuộc làm tôi chết đứng người. Tôi như người từ hành tinh khác vừa rớt xuống đất. Bóng dáng nàng giống quá. Ðúng là cô hoạ sĩ tôi gặp mấy tháng trước đây. Tôi không còn trả lời được khi bà giáo sư gọi tên tôi, mà chỉ giơ tay lên vẫy cho bà biết rằng tôi hiện diện. Sau giờ học, tôi đi nhanh ra cửa đứng đợi. Vừa thấy bóng dáng nàng nhấp nhô trong đám đông, tôi lấy hết can đảm gọi:
- Băng Trinh!
Nàng ngẩng đầu lên hướng về nơi phát xuất tiếng gọi. Tôi đưa tay lên vẫy. Ra khỏi đám đông, nàng đi về phiá tôi và ngạc nhiên chào:
- Chào anh. Anh cũng học ở trường này sao?
Tôi cảm thấy thật sung sướng trong lòng:
- Tôi học chung lớp với cô đó. Tôi đến hơi trễ nên ngồi ở cuối lớp. À này, tôi có thể mời cô đi uống nước được không ?
Nàng từ chối đúng như dự đoán của tôi:
- Cám ơn anh rất nhiều. Trời đã khuya và lại mưa lớn, Băng Trinh phải về. Hẹn anh một dịp khác vậy. Chúng mình học chung lớp sẽ còn gặp lại nhau mà.
Hai chúng tôi đi về phía bãi đậu xe. Nàng hỏi tôi:
- Xin lỗi, Băng Trinh chưa được hân hạnh biết tên anh ?
Tôi hơi luống cuống vì ảnh hưởng từ cái bất ngờ trong lớp mang theo:
- Tên tôi hả? À, tôi tên là Bình.
- Cái gì Bình ?
- Thôi đừng hỏi tên đệm của tôi, quê mùa lắm!
- Có sao đâu anh. Cái tên thôi mà.
- Cô đừng cười nghe. Là Lục Bình.
- Tên anh nghe êm đềm lắm. Hình như Băng Trinh có nghe qua cái tên này trong một bài hát hay câu ca dao Việt Nam nào đó?
Nàng không hỏi thêm nhưng tôi tự nguyện giải thích về lai lịch cái tên của mình. Ông bà nội tôi vốn là nông dân, chân lấm tay bùn. Khi mẹ tôi gần sanh tôi, ông bà nội tôi có lên chơi gọi là để bà nội giúp đỡ mẹ tôi trong lúc mới sinh nở. Cha tôi hỏi ý kiến ông nội tôi nên đặt tên cho cháu là gì? Trong lúc ông nội còn đang suy nghĩ, thì ba tôi nảy ra ý nghĩ đặt tên là Bình. Ông nội tôi nói: "Hay lắm đó ! Ðặt tên cho nó là Lục Bình (tên một loài
bèo trôi sông có bông màu tím rất đẹp). Vừa giải thích đến đây thì bước chân nàng cũng dừng lại bên chiếc xe đang tắm mình dưới mưa. Nàng quay nhìn tôi từ giã:
- Cám ơn anh đã tiễn Băng Trinh ra xe. Hẹn gặp anh ngày mai.
Tôi đưa tay vẫy và đứng nhìn theo chiếc xe mất hút dưới làn mưa dầy đặc. Gió thổi mạnh và mưa vẫn rơi như thác đổ. Quần áo tôi ướt sũng nước. Tôi run lên cầm cập không biết có phải vì mưa bão hay cơn mưa tình vừa tràn ngập tâm hồn tôi ?
Thế là chúng tôi đã quen nhau gần một mùa mưa. Tôi, từ một kẻ yêu tranh bất đắc dĩ nay cũng đã biết thưởng thức tranh qua con mắt nghệ thuật. Nàng đã chỉ cho tôi biết cách xem tranh để tìm ra ẩn ý của tác phẩm. Những lúc bên nàng không có chuyện gì để nói thì tranh là đề tài ăn khách nhất. Trong căn phòng của tôi, những tấm lịch có hình các tài tử dần dà được thay thế bởi những tấm hình của nàng và những bức tranh mới lạ. Trong những bức tranh mà tôi đã có dịp xem qua thì dường như bức tranh "Mùa Ðông Viễn Xứ" của nàng có một sức hấp dẫn lạ thường. Thế nhưng, bức tranh thì nàng không bán mà người muốn mua lại chưa có thể tự ý xin.
Tiếng chuông điện thoại reo. Tôi cầm máy lên nghe. Mới sáng sớm cuối tuần mà không biết ai gọi chi sớm thế. Ðầu dây bên kia, giọng nói quen thuộc của Băng Trinh vang lên. Tôi ngồi bật dậy không chút uể oải. Nàng nhờ tôi sáng nay ra tiệm của người bác để làm thay thế cho nàng vì bị bệnh. Tôi hơi vẻ lo âu hỏi lại:
- Băng Trinh bị bệnh có nặng lắm không? Ðã uống thuốc gì chưa?
Nàng bình tĩnh trấn an:
- Băng Trinh chỉ bị nhức đầu, cần nằm nghỉ ít tiếng sẽ
hết.
Lần đầu tiên trong đời, tôi đi làm thế cho một người khác nhưng lại cảm thấy như là một niềm vui. Tôi làm hết khả năng như làm cho chính mình vậy khiến ông bác Băng Trinh rất hài lòng. Sáng sớm, tiệm chưa có khách. Tôi đi ngắm từng bức tranh. Một bức một vẻ. Tôi có dịp thưởng thức cả một vườn hoa nghệ thuật trong tầm mắt. Tôi chợt nhận ra sự thiếu vắng của một bức tranh quen thuộc. Tôi hoảng hốt đưa mắt tìm khắp mọi nơi nhưng chẳng thấy đâu. Còn một chút hy vọng nơi nhà kho. Tôi chạy vào nhưng hoàn toàn thất vọng. Tôi tiếc hùi hụi khi nghĩ đến nó đang được treo trên tường của nhà một kẻ khác. Không thể nào nàng lại đem bức tranh đó bán đi. Tôi gọi điện thoại cho nàng để hỏi về bức tranh ấy, nhưng tôi chỉ nghe những tiếng kêu đứt quãng đầu dây.
Sau giờ tiệm đóng cửa, tôi lái xe chạy thẳng tới nhà nàng nhưng nàng đã đi vắng. Tôi trở về nhà với một tâm trạng não nề. Mở cửa bước vào, tôi giật mình khi đèn trong nhà bật sáng. Căn phòng khác được trang trí lộng lẫy. Băng Trinh, các em tôi và đám bạn bè cất tiếng hát lớn:
"Happy birthday to you..."
Tôi ngạc nhiên đến chảy cả nước mắt. Hôm nay là sinh nhật của tôi. Mọi người thì nhớ, còn tôi thì quên bẵng đi mất. Tôi lên tiếng cám ơn mọi người. Ðứa em gái nhí nhảnh của tôi lên tiếng:
- Có người đứng sau lưng anh kìa !
Tôi quay lại. Người thiếu nữ với chiếc áo choàng màu xanh, chiếc khăn che gió màu đỏ sẫm đang nhìn về khung trời xa thẳm từ một vị trí ngay ngắn trên bức tường phòng khách. Sau nhiều lần "lãnh hội" cách xem tranh từ Băng Trinh, tôi lần này nhìn ra một điều nơi bức tranh. Người thiếu nữ Việt Nam sống trên đất khách vào một mùa đông tuyết phủ. Ðôi mắt nàng đang nhìn về phương trời quê hương xa thẳm. Nơi cuối chân trời lờ mờ một mái nhà xưa, một ngôi trường cũ bên con sông uốn khúc. Trên dòng sông, những đám "lục bình" đang trôi theo dòng nước tựa như dòng đời vẫn chảy.
Chân Mây