vhnt, số 82
11 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - thơ, Xuân Lạc Loài, Ðặng Khánh Vân
+ 2 - thơ, Chờ Em, Thi Thanh
+ 3 - thơ, Chiều Thu Thăm Mẹ, Thái Văn
+ 4 - văn, Một Bài Thơ Một Nỗi Nhớ, Sung Nguyen
+ 5 - văn, Mùa Hè Khó Quên (phần I), Thai Nguyen
+ 6 - nhạc, Về Nhạc Sĩ Lê Thương (phần II), Phạm Duy
gửi bạn,
Không hẹn hò anh trở lại công viên. Anh trở lại thảm cỏ xanh đêm trước. Những sinh viên tuổi như em ngồi học, trẻ con chơi quanh những gốc cây giấ Hoa bằng lăng rắc tím tận bao giờ trên cỏ biếc. Tiếng loa đài đâu đó mặt hồ rộng sóng chạm vào trí nhớ Anh đứng nhìn từng đôi lứa đi qua. Có ai ngồi xuống chỗ chúng mình kia. Chàng trai ấy cùng cô gái ấy. Cô gái ấy đẹp sao giống em đến vậy, và chàng trai run rẩy giống anh sao? Cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào...
(Cỏ Xanh Đêm Trước, Nguyễn Trọng Tạo)
Nếu có lần nào bạn trở về thăm chốn cũ, có bao giờ bạn cảm thấy "cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào"? Có khi chỉ nhìn mầu nắng cũng trông thấy kỷ niệm, có khi một lời hát, một khúc nhạc cũng đủ làm nên tâm trạng, hay một thoáng bâng khuâng...
PCL/vhnt
Xuân Lạc Loài (II)
Lạc bước quanh đây giữa Xuân sầu
Lối mòn thơ mộng tận nơi đâu?
Miên man gió thoảng trong niềm nhớ
Không gian ủ rũ chợt đổi màu...
Khung trời nhuộm tím cánh hải âu
Tà dương khuất lặng giữa bán cầu
Xa xa trong gió cánh nhạn bay
Phiêu bạt về đâu trút nỗi sầu?
Nỗi sầu trong tâm sẽ về đâu?
Cưu mang gánh nặng mộng Xuân sầu
Bên bờ kiu quạnh xin gởi lại
Ngàn giọt long lanh - lệ nhiệm mầu
Xuân '95
DKV
Chờ Em
tôi đã chờ em một buổi chiều
dưới hàng thông nhọc lắm cô liêu
mà sao không đến, em không đến!!?
tôi đã hờn em biết bao nhiêu!
từ đó đến nay đã bao lần
lắm lúc giật mình, vẫn phân vân
hỏi lòng - nếu cố chờ thêm nữa
em có khi nào tìm đến không?
tôi giận lòng tôi đã ra về
nên từ dạo đó tôi mải mê
lên đồi thông cũ từng hôm nhớ
mong người lỗi hẹn buổi sơn khê
tôi bảo - cái ngày em ghé qua
tim tôi chắc chẳng giận em, mà
chỉ nói một câu vương chút trách
Em tôi trễ hẹn quá đi nha!
Tôi vẫn chờ em mỗi buổi chiều...
Trương Nguyễn Thi Thanh
Chị Chi Lan thân,
Ba ngày nghỉ Action de Grace vừa qua dài như ba năm vì không đến sở nên không được đọc VHNT. Sáng nay dò đến sở, việc đầu tiên là nhanh tay bật PC, mau mau vào Netscape, tìm vhnt !!! Nhanh hơn cả bắt phone bồ ( trong mộng).
Ðọc các ấn bản vhnt vừa qua , tôi thấy thật khích lệ và phấn khởi vì bài vở dồi dào và đặc sắc. Nhưng nghĩ lại thì thấy cảm phục và cám ơn các bạn đã đóng góp tích cực vào sự phát triển vhnt, và cũng tội chị Chi Lan, tuy biết đó là niềm vui, hơn nữa, một passion của chị.
Tôi xin góp vài câu thơ sau đây, nếu thấy được, xin chị cho lên vhnt .
Xin cám ơn chị Chi Lan
Thân ái
Chiều Thu Thăm Mẹ
Mẹ ơi con đã về...
Ðường xẫ phải đợi xễ.
Phố đông, người chen chúc
Gặp bạn, vui chuyện quê
Con cũng gặp bác Tường
Bác nhắc chuyện quê hương
Hồ Gươm... ngõ Yên Thái...
Chợ Bưởi... phố Hàng Gương...
Trung Thu này thăm mẹ
Còn nhớ Trung Thu xưa
Mẹ cho đèn con cá
Cùng với bạn nô đùa
Trung Thu này thăm mẹ
Cũng như những Thu xưa
Mẹ nghe mà không nói
Chỉ nghe gió qua mồ.
Thái Văn
Một Bài Thơ, Một Nỗi Nhớ
tặng chị Trâm
Hồi đó, thật là ngẫu nhiên khi mọi chuyện đều bắt đầu bằng "Hồi đó"; bài viết của tôi cũng bắt đầu từ hồi đó. Năm đầu tiên tôi vào trường trung học, tung tăng với nhiều buồn vui lẫn lộn; có lẽ vui nhiều hơn buồn, nên tôi mới tung tăng.
Vui vì cái gì cũng mới lạ: trường lớp thầy cô, những bạn học thật thành thị cao ráo trắng trẻo. Nhưng buồn thì lại không thiếu: nhớ bạn ở quê, chung trường chung lớp 9 năm; chung làng chung xóm muôn đời.
Tôi học lớp chuyên văn chương, nên có đôi chút lãng mạn; có nhiều cái để buồn, để mơ uớc và tưởng tượng. Trong lớp tôi, BT là người giỏi văn nhất; bài văn nào cũng 8/9/10, đều được đọc cho cả lớp nghe.
Có lần BT giới thiệu bài thơ Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm; BT đã làm tôi sững sờ vì bài thơ hay quá. Tôi đã đi tìm những vần thơ như vậy từ lúc rời xa quê, xa chị Trâm.
Chép lại bài thơ để các bạn cùng đọc.
LÁ DIÊU BÔNG
Váy đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
đồng chiều cuống rạ
Chị bảo
- đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
- đâu phải lá Diêu bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị em tìm thấy lá
Chị cười
Xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con, em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt
Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hờị.
Diêu bông hởi
... Ới Diêu bông...
Hoàng Cầm 1959
Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn cái rung đông đầu tiên khi nghe bài thơ Lá Diêu Bông. "Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm hồ dễ mây ai quên."
Ngày chị Trâm đi lấy chồng; tôi thật buồn, lúc ấy tôi đang học đại học năm thứ nhất; học ngành tin học thay vì văn chương. Thì ra bài thơ đã theo tôi năm tháng, cho tới khi chị Trâm đi lấy chồng.
Chị Trâm, một cô gái cùng thôn dịu dàng xinh xắn. Tôi kêu bằng chị vì chị lớn hơn tôi hai tuổi. Cả thời thơ ấu của tôi không khi nào rời chị, hết mùa vui này đến mùa vui khác; trẻ con ở quê tôi không hề dứt các trò chơi. Hồi đó, chị không hỏi ai tìm được lá Diêu bông để chị gọi bằng chồng; nhưng chị đã nhờ tôi tìm cho chị trái mù u đầu mùa vàng rượm; công việc này đâu có dễ hơn đi tìm lá Diêu bông. Vì có trái mù u đầu mùa nào không bị chim ăn. Và tôi tìm được, để hai má chị hồng lên. Sau này, tôi biết được chị đã từng ước rằng khi chị sang tuổi 16, chi sẽ yêu người nào tìm cho chị được trái mù u chín đầu mùa. Tôi xa quê năm 16 tuổi. Chị buồn không nói.
Tôi vẫn là tôi, phong trần và xây đắp sự nghiệp. Trái mù u đầu mùa chứa chan vị ngọt không gọi nỗi tôi một lần trở lại làng quê. Tôi vẫn nhận thư chị thường xuyên, vẫn những dòng thư kể về bà con bạn bè cùng thôn xóm. Tôi ngu si không nhận ra cái bình dị yêu thương nhắc nhở của Trâm.
Mùa hè của năm đại học đầu tiên, tôi về lại quê, chép tặng Trâm bài thơ (1) viết cho Trâm nhưng chưa một lần gởi, Trâm thẫn thờ không nói gì chỉ nhìn ra rặng mù u, mắt nhòa ước. Tôi cũng thẫn thờ nhìn đàn chim bay đi tìm những trái mù u chín đầu mùa. Tháng sáu, Trâm đi lấy chồng, mù u đã chín đỏ cây. Tôi gục vào lòng ngoại tôi khóc ngon lành. "Diêu bông hởi diêu bông... " đoạn cuối của bài thơ, lòng tôi tan vỡ.
Tôi không đủ can đảm để đi tìm mù u chín đầu mùa lần nữa, như trong bài thơ có ai đã đi tìm lá diêu bông. Trong tôi, như vẫn mãi đi tìm, để giữ được tình yêu của chị.
Giờ đây đọc lại bài thơ, năm tháng vẫn còn như cũ. Cuối tháng chín ta rồi, mù u vàng lá. Có trái mù u đầu mùa nào còn ở đâu đây.
Sung Nguyen
Oct-95
(1) Trầu Cau Xanh Thắm
Về quê Ngoại, một chiều xuân
Thẩn thơ bên dậu ngắm chừng cô em
Tóc thề còn xỏa bên thềm
Hỏi ai đã nhận trầu têm mâm vàng
Ngoại anh trầu chín mấy gian
Ơ cô hàng xóm thở than nỗi gì
Bên em anh chẳng muốn đi
Trầu xanh chưa thắm, chỉ vì thiếu cau
Xin em một tiếng vì nhau
Cho trầu cau đỏ, cho đầu thêm xanh,
Cho anh một giấc mơ lành ..
Kìa đôi má thắm sau vành nón nghiêng!
tặng cô hàng xóm quê Ngoại
Mùa Hè Khó Quên
(phần I)
Tiếng đại pháo bay véo và tiếng nổ ầm ĩ làm nhốn nháo mọi người trong trại gia binh bộ Tổng Tham Mưu. Hôm nay có nhà bị pháo trúng, căn nhà bị nát tan để lại một hố sâu đầy gạch vỡ và gỗ cây chồng chất. May mà gia đình ấy đã kịp thời lánh đ#. Ðã nhiều gia đình dắt diú nhau chạy tạm trú đi nơi khác. Nhà tôi bắt đầu hoảng sợ, lo cuốn áo quần và đồ cần thiết để về quê nội tạm lánh.
Quê nội tôi ở vùng ven biển, núi và sóng biển bao chung quanh thị xã, chỉ có một xa lộ duy nhất dẫn ra khỏi thành phố. Thị xã có nhiều đồng ruộng và ao hồ tạo nơi đây một màu xanh tươi và yên tĩnh. Bởi là một thành phố nhỏ, kề cận thủ đô và không có những căn cứ quân sự nên ở đây tránh được cái tai ách của chiến tranh nhưng đôi khi cũng nghe vài tiếng đại pháo lạc nỗ xa xa...
Chúng tôi về đây đã được hơn một tuần và có lẽ sẽ ở cho hết mùa hè hoặc khi đại pháo bớt rơi vào khu gia binh, nhà của chúng tôi. Năm nào cũng thế, tôi được về nội mấy tháng hè để nghĩ mát nên tôi rất quen thuộc thành phố này, ngay cả mấy đứa bạn quê hàng xóm của nội, họ rất dễ thương, chất phát và nhất là họ coi tôi như một vị "đại ca" của tỉnh thành. Mỗi mùa phượng nở tôi về quê mang theo nhiều cái mới lạ của thành thị làm "sáng mắt" đám bạn nhỏ quê nội. Tôi biểu diễn thổi súng trứng cá bằng ống cao su
làm tụi nó phục sát đất. Kể cho tụi nó nghe chuyện sạo rằng tôi thâu phục được mấy tên VC con, như trong chuyện "Mơ Thành Người Quang Trung" của Duyên Anh. Làm bọn nhóc nể tôi hết sức và phong cho tôi là "Nguyên Soái" văn vỏ song toàn.
Chiều nay trời oi bức lạ, tôi cầm quyển truyện của Từ Kế Tường nằm trên võng sau vườn đọc được vài chương thìbắt đầu thiu thiủ ngũ bởi làn gío hiu hiu và bóng mát của tàng cây mít.
- Ê Ðịnh, mày muốn đi bắt cua không?
Cái tiếng oang oang của thằng Tiến làm tôi giật mình tĩnh giấc.
- Cái thằng chó cắn, làm tao bay mất giấc "mộng vàng".
Tiến là tên bạn thân nhất của tôi, nhà hắn ở ngay phía sau hàng dậu đằng sau vườn nhà nộ#. Vì nhà nó nghèo nên học xong tiểu học hắn phải bỏ học để phụ cha nó cày ruộng "thế trâu", bởi mướn trâu cày tốn tiền nên cha con của nó thay nhau làm "trâu" kéo khi người kia đứng trên mũi cày. Nó khỏe và đen thui như con trâu í nên được bạn bè gọi là "Tiến trâu". Nó to con và hiền lắm lúc nào cũng nhe hai hàng răng trắng toát ra cười. Lần này cũng không ngoại lệ, hắn nham nhỡ cười như "trâu" rống.
- Không có công chúa trong giấc ngũ đâu, "Nguyên Soái" ạ!
- Tao mà tìm "nàng" trong giấc mộng à, trên tỉnh thành có một lô xếp hàng đó mậy.
Hắn lại nhe hàm răng ra "nhát".
- Ðược rồi công tử ạ, tao biết mày con nhà giàu, đẹp trai, học dủa mà học giỏi chứ lị. Vậy mày giúp tao chuyện này nhe.
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng ưởng ngực làm ra vẽ "đại ca".
- Chuyện gì nhà ngươi cầu khẩn, hảy nói cho "đại ca" nghe thử xem.
- "Ðại ca" cái cùi bắp - hắn nhỏ giọng lại - tao nhờ mày cua bồ dùm tao thôi.
- Cái... cái gì... - tôi cà lăm khi nghe hai chữ "cua bồ" - ai vậy mậy?
- Ði ra đồng bắt cua tao nói mày nghe.
Mặt trời tụt dần sau đỉnh núi để lại những tia nắng vàng yếu ớt, chúng tôi ra bờ ao tít cuối làng đặt mấy cái rọ tre có mấy con cá ương để dụ mấy con cua sông. Dòng sông trong làng chảy từ chân ngọn núi qua thôn và đổ vào ao này trước khi chảy ra biển, dọc theo ao có rất nhiều lục bình và hoa sen. Ðặt xong mấy cái rọ tôi tìm một bóng cây nằm đợi tên Tiến trâu nói chuyện "tình tương tư".
- Ê Tiến! mày muốn cua con Chung Vô Diệm nào vậy?
- Mày không biết đâu. Con bé ở chỗ khác mới đến, nghe đâu cha mẹ nó đã bị lạc đạn chết khi chạy giặc từ Trung vào#.
- A! mày lợi dụng con gái đơn côi để dụ dỗ hả?
- Nói bậy, nó đang ở với bà ngoại nó kế bên nhà mày đó.
- Mày nói bà Tư đó hả. Sao tao không có nghe nói bả có con cháu gì cả.
- Tao đâu có biết, chắc ở miền Trung xa quá mà.
- Vậy mày muốn tao làm gì giúp chớ? Ðưa thư dùm mày hả?
- Mày viết thơ dùm tao thôi, mày biết đó tao đâu có biết viết văn thơ đâu.
Tối hôm ấy tôi châm bình trà ngồi hí hoáy thảo một bức thư tình lâm ly "rùng rợn" cho Tiến trâu. Sau khi xé hết nữa quyển tập 50 trang tôi hoàn tất lá thơ tạm gọi là mùi mẫn. Tiến "trâu đen" kiểm duyệt xong gật đầu khen rối rít. Hai đứa chẳng biết làm sao để trao cho cô bé hàng xóm. Tôi mới đề nghị đợi cô bé ra vườn tôi sẽ dùng sáo thổi gọi Tiến sang để đưa lá thư sang bên ấy. Ðợi chờ cả buổi trưa mới thấy một cô bé trong nhà bà Tư ra phơi áo. Tôi lay gọi tên "Trâu đen" dậy chỉ chỉ qua bên ấy.
- Ê! "trâu đen" dzậy mậy, coi công chúa lọ lem của mày xuất hiện kìa.
- Suỵt! mày nói nhỏ thôi, đừng gọi tao là "trâu đen" chứ, cái thằng ó đâm.
- Ồ! xin lỗi nhé "hắc ngưu" đại ca#.
Tiến đấm nhẹ tôi một cái, thọc tay vào túi áo tìm lấy lá thư, hắn bối rối không biết làm sao đưa thư sang cho cô bé khi cô bé đang xoay lưng về phía chúng tôi. Cô bé chăm chỉ giũ mấy cái áo đem phơi trên hàng dây không để ý tới tôi và Tiến. Bất chợt Tiến vo tròn lá thư dang tay ném mạnh qua hàng dậu trúng ngay chân cô bé.
- "Cái Nhài" ơi, con phơi xong áo quần chưa?
Bà Tư bước từ trong nhà ra ngoài hiên. Tiến hoảng sợ co giò chạy tuốt ra sau vườn chui qua nhà hắn. Cô bé xoay người xuống nhặc tờ giấy vo tròn bỏ vào túi áo bà ba nhìn sang bên tôi. Tim tôi đập như trống làng, hai chân cứng ngắc như đồng trụ. Tôi muốn bỏ chạy như Tiến nhưng một sức mạnh vô hình nào thu hút tôi không thể nhúc nhích được. Khuôn mặc nhỏ tròn xinh xắn của cô bé với đôi mắt nai to đen long lanh và đôi môi bé nhỏ thấm hồng, hiện ra như một câu chuyện cổ tích, tưởng chừng như một xê dịch nhẹ nhàng sẽ làm biến tan vào giữa không gian. Cô bé cắn môi và mỉm cười, một nụ cười duyên dáng vô ngần....
- Cháu Ðịnh, cháu về nghĩ hè đó hả, chừng nào cháu lên tỉnh thành lại.
- Dạ... .Dạ... không lên nữa... Ủa, mà không, khi nào hết pháo kích cháu về.
Tôi trả lời bà Tư xong như tĩnh giấc mộng, chạy vào nhà như chôn giấu tội lỗi của trần gian hệ lụy. Cả tuần tôi không dám ra ngoài hiên ngồi thổi sáo hay nằm đọc truyện dưới tàng cây mít. Tôi thật bối rối lo âu, nhỡ cô bé hiểu "nhầm" cái thư kia là của tôi thì thật là xấu hổ. Cái thằng "trâu đen" thiệt là hại bạn, mấy hôm nay nó phải ra đồng hái lúa nên cũng vất vã không có rảnh rỗi để mà nghĩ chuyện "tình vô duyên" của nó, để tôi đây lãnh đủ cái tội "tầy trời". Sau một tuần "trốn tránh" tôi ở nhà buồn "rớt mồng tơi" nên dạo bộ đến chùa ở xóm vườn làng bên. Càng đi gần đến Niệm Phật Ðường hàng cây sầu đông thêm xum xê, dầy đặc che mát lối đi. Tôi cứ liên tưởng mình là Từ Thức lạc đường đến thiên cảnh và hy vọng sẽ được gặp tiên nữ đẹp tuyệt vời. Tôi đi ngang cổng chùa qua hồ sen có phật bà Quan Âm cầm cành liễu giũ nước cứu rỗi chúng sanh. Tôi ngồi bên bờ hồ nhìn những hoa sen nở đỏ thắm bổng nhớ đến đôi môi đỏ "nào đó". Thật là "tội lỗi", tôi tự kết tội mình, và nhặt viên sỏi nén vào mặt nước để xoá tan đi những ý nghĩ "côn đồ", mà không phải, "mơ hồ" mới đúng. Xin phật bà tha cho tội "bất
chính" và phù hộ cho con... gặp được "nàng". Tôi đi sâu vào vườn của chùa dưới hàng cây bồ đề rợp mát. Tôi nhớ mỗi lần về tỉnh thành, tôi thường hái rất nhiều lá bồ đề ngâm nước để lá mục đi chỉ còn lại "xương" và lấy màu nhuộm lên đem ép vào tập vỡ, làm mấy đứa em họ tôi rất thích, chúng thường rủ mấy cô bạn đến để chiêm ngưỡng "nghệ thuật" và đòi "tạm mượn" cất gi Tôi ước gì "cô bé" cũng thích để tôi sẽ tặng cho
"nàng".
- Tụi bây ơi, đừng cho nó về. Chặng đường nó lại đi#.
Tiếng reo la "vô duyên" ngoài cổng chùa lôi tôi ra khỏi mộng tưởng. Chắc mấy thằng "cao bồi" con kiếm chuyện với ai đây, tốt hết là đi về ngỏ sau chùa, không thôi lại mang vạ lây vào thân. Hôm nay không có Tiến trâu, lại không mang theo "vũ khí" súng trứng cá thì chỉ có nước ốm đòn. Nghĩ thế tôi băng qua hàng bồ đề định "chuồn" ngỏ sau tẩu thoát.
- Ê! bảo nó cởi đồ rồi cho về nghe tụi bây#.
Bỗng có tiếng con gái khóc nức nở, và tiếng hét ầm ỉ cùng tiếng cười nham nhỡ của đám con nít nhu côn. Tôi chùng bước muốn quay lưng trở lại nhưng vẫn sợ bị no đòn nên còn do dự. Tôi nhớ hồi ở tiểu học, học công dân, đạo đức, thầy giáo thường dạy phải giúp đỡ kẽ yếu, bây giờ gặp đám "mắc dịch" ăn hiếp con gái tôi thấy thật nhẫn tâm
làm ngơ. Tôi hít một hơi dài vào lồng ngực... "lép", cảm thấy can đảm lên và tin tưởng vào chính nghĩa cùng mưu trí của mình. Tôi quyết định quay trở ra cổng chùa. Tôi thấy
có bốn tên nhóc con xoay quanh một con bé đang ngồi gục đầu vào đầu gối khóc rưng rức. Chỉ có một tên bự con hơn tôi, còn ba đứa kia cũng khoảng tôi mà thôi. Tên bự con chỉ vào con bé nói:
- "Hoa lài cấm bãi cứt trâu
Cho còn không lấy có đâu anh thèm"
Hai tiếng "hoa lài" như một ngọn lửa đốt nóng sức mạnh và can đảm của tôi "sôi sùng sục". Tôi mạnh dạn bước đến trước tên bự con và ung dung nói với hắn:
- Sao tụi bây ỉ đông đi hiếp đáp một con bé, không biết nhục hay sao#?
Cả đám, bốn đứa cười ồ, một cách lố bịch, dễ nghét.
- Ê! có thằng anh "khùng" đòi cứu "con hiểm" nè tụi bây ơi.
- Bộ mày là "chồng" nó sao mà lo dữ dzậy.
- Bắt nó hôn con nhỏ đi rồi cho tụi nó về nghen tụi bây.
- Bộ mày muốn chết chung với con nhỏ sao mà nhiều chuyện.
Tiếng cười, tiếng nói thô tục của đám "du đảng con" làm hai lổ tai tôi nóng rang. Kinh nghiệm mấy chuyện đánh lộn với đám "bụi đời" của Duyên Anh cho tôi biết muốn "dằn mặt" bọn chúng phải hạ tên to con trước. Bất chợt, chẳng nói năng chi tôi đấm một qủa "đấm thôi sơn" hết "mười hai thành công lực" vào mặt thằng to con nhất và còn "đốn" luôn cái chân của nó. Bị tấn công bất ngờ tên to con ngã lăn như cây bị đốn, mặt nó ụp xuống đất dính đầy cát và máu. Không bỏ lở thời cơ tôi "song phi" cho hai tên "tả hữu" hai cước, cả ba đều nhào lăn xuống đất. Tên thứ tư có thời giờ phòng bị nên khi tôi chưa kịp bò dậy đã bị hắn chòm đến ôm lăn dà#. Hai tên bị đá khi nãy không đau lắm nên "quạo" lên, chúng nhào đến đánh đấm, đá tôi túi bụi. Con bé hoảng sợ qúa khóc thét lên chạy vào chùa kêu cứu inh ỏi. Còn tôi chỉ thấy "hoa đăng" chập chờn tứ phía, bụi bay mù mịt, mình mảy đau dầm. Có lẽ ba đứa nó đánh tôi đã mỏi tay, mỏi chân nên đứng lên dìu thằng to con đi ra khỏi cổng chùa. Tôi vẫn còn nằm dưới đất "nghĩ mệt" cho đến khi con bé chạy trở ra, mếu máo:
- Chết chửa, anh Ðịnh à, không có ai trong chùa hết. Anh có sao không, anh có cần đi nhà thương không?
Tôi lồm cồm bò dậy, xua tay, mỉm cười méo xệch:
- Không sao đâu, chỉ đau "chút xíu" thôi.
- Ối! trời ơi, miệng anh chảy máu rồi, mắt anh bầm tím, tôi hại anh mất thôi.
Con bé lại thút thít, thì ra là "nàng tiên" trong mộng hàng xóm của tôi, "cái" Nhài lấy khăn tay vội lau máu chảy từ chổ tét trên môi tôi. Tôi có cảm giác đau đớn nhưng thoải mái lạ
lùng. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ, cô bé thật trắng và hơi xanh xao. "Cái" Nhài bé bỏng và mong manh như một thiên thần hạnh phúc với những giọt nước mắt long lanh, ngậm ngùi như thầm khẽ nói "cám ơn anh hùng của lòng em."
(xem tiếp phần II)
Thai Nguyen
Về Nhạc Sĩ LÊ THƯƠNG
Phạm Duy
(phần II)
Một nhóm ca nhạc sĩ mà tôi chẳng cần phải nêu tên ra đây, ghen tị tài nghề đã đành, lại có ý tranh thương trước sự kiện chúng tôi quá thành công trong một ngành nghệ thuật đã trở thành thương phẩm hay thương vụ. Trước khi trở thành ca nhạc sĩ, trong khi mọi người đi kháng chiến, họ là những thanh niên ở lại trong thành và cộng tác với Pháp, nói thẳng ra là làm mật thám cho Phòng Nhì (Deuxième Bureau). Chính phủ (gọi là quốc gia) được thành lập thì mấy người này được chuyển qua làm việc trong Sở Công An Nam Phần, lúc đó nằm trong tay Mai Hữu Xuân, Trần Bá Thành. Các ca nhạc sĩ làm nghề Công An không được Đài Phát Thanh và hãng làm đĩa hát mời hát nhiều. Nếu họ đứng ra tổ chức Ðại Nhạc Hội, đụng độ với chúng tôi, buổi diễn của họ sẽ vắng khách. Muốn triệt hạ chúng tôi, không khó gì cả, những ca sĩ kiêm công chức công an này bèn vu ngay cho chúng tôi là Việt Minh nằm vùng! Thế là vào một ngày cuối năm 1951, Lê Thương, Trần Văn Trạch và tôi được cảnh sát công an tới nhà, còng tay đưa lên xe cây bít bùng chở về khám Catinat. Tôi không hiểu vì sao chúng tôi không bị chụp bao bố vào đầu như những người bị bắt khác vào thời buổi mà những lính kín ở bót Catinat đem sự khủng bố của họ ra để đối đầu với sự khủng bố của Việt Minh. Chúng tôi bị giam tại cái khám nổi tiếng ác liệt này trong 120 ngày. Từ ngày bị bắt cho tới ngày được thả, đối với ba anh chàng nghệ sĩ, không có một bản án ghi tội danh và một buổi hỏi cung nào cả !
Khám Catinat nổi tiếng ác liệt vì nó là một phòng giam không rộng lắm nhưng Công An Nam Phần nhốt khoảng gần một trăm người vào đô Trong phòng giam, ở bên ngoài hàng chấn song sắt, luôn luôn có "thầy chú" (coi tù) thay phiên ngồi canh những người bị giam. Suốt trong 120 ngày ở đây, ba anh em nghệ sĩ chúng tôi - cũng như mọi tù nhân khác - phải làm màn thoát y thường xuyên vì phòng giam nóng như lửa đốt. Mấy ngày đầu thấy ngượng nhưng dần dà nhìn các bạn tù ở truồng... tôi phì cười! Xưa nay quần áo thường che dấu những chỗ ít mỹ thuật nhất của thân thể. Bây giờ những bộ phận xấu xí của đàn ông được phô ra. Trong tháng đầu tiên tôi căm tức mấy "thầy chú" vì họ hay văng tục với người bị giam nhưng trong hai tháng sau thì tôi thương hại cho họ! Chắc họ làm nhiều điều lầm lỗi trong kiếp trước nên bây giờ suốt ngày họ bắt buộc phải ngồi nhìn "sinh thực khí" xấu xí của chúng tôi. Người Việt Nam thường hay tốc váy, tốc quần và chìa hạ bộ ra để chửi nhau. "Thầy chú" nhìn chúng tôi cởi truồng như vậy là nghe chúng tôi chửi thầm đấy! Ban ngày cũng như ban đêm, vì phòng giam chật cứng, mọi người đều phải thay phiên kẻ đứng người ngồi. Chỉ người già yếu mới có chỗ để nằm co chân mà ngủ. Chỗ được quây lại làm cầu tiêu là chỗ rộng rãi nhất và được dành cho những người vừa bị tra tấn nằm nghỉ. Một người tù già - được phong là "ngục vương" vì vào tù ra khám thường xuyên, đang nằm ở bót Catinat chờ ngày ra đảo - cho tôi ưu tiên tới ngồi dựa lưng vào bức tường của nơi phóng uế đó, mùi phân trộn với mùi máu và mồ hôi của khám Catinat sẽ ám ảnh tôi rất lâu. Sau này, khi được đọc tập thơ Hoa Ðịa Ngục của Nguyễn Chí Thiện, tôi rung động rất nhanh với câu thơ:
Chỗ tôi nằm sáu mươi phân chiếu rộng,
Giữa hai người một hủi, một ho lao...
...
vì tôi chợt nhớ tới một ngày trong 120 ngày bị giam giữ ở cái khám này, ngồi bên cạnh một người vừa bị tra tấn, được chở xuống khám lúc nửa đêm, sáng hôm sau anh ta là một xác chết. Ðã làm quen với sự khủng bố ngay từ thời Cách Mạng mới thành công và trong thời gian đi theo kháng chiỦên, tôi không sợ hãi khi nghe thấy tiếng la hét của những người bị tra tấn bên cạnh phòng giam. Nhưng khi trèo lên vai bạn tù nhìn qua khung cửa sổ có chấn song sắt, thấy những nữ tù nhân được dẫn vào phòng giam gần đó thì tôi mủi lòng, nghĩ rằng những thiếu nữ kia có thể bị làm nhục ngoài sự tra tấn thông thường. Tuy nhiên, trong những ngày nằm khám Catinat, tôi không buồn rầu hay đau khổ! Tôi chỉ nhớ con vô cùng và chỉ lo cho Thái Hằng, chắc chắn đang quá lo lắng vì chồng bị bắt và không được thăm nuôi. Không một lúc nào tôi cho rằng mình đang bị lâm nguy cả! Hình như đa số người Việt Nam thuộc thế hệ tôi là lớp người "ngu ngơ trước sự nguy hiểm" (người Pháp gọi là inconscient du danger). Giống như lúc đi kháng chiến, chưa chắc tôi là người can đảm lắm đâu! Tôi hồn nhiên đi vào cuộc chiến vì chưa bao giờ ý thức được sự hiểm nguy hay sự dễ chết trong chiến tranh. Bản năng tự vệ trong con người chỉ mạnh lên khi đã biết mùi nguy hiểm. Thế giới được nếm mùi Thế Chiến Một và Thế Chiến Hai rồi nên rất sợ xẩy ra Thế Chiến Ba.
Trong lần bị bắt giam ở Cà Mâu vào năm 45, vì không có chuyện gì ghê gớm xẩy ra nên tôi không lo sợ trong lần bị bắt vào năm 1951 này. Ngày bị Tây bắt ở Cà Mâu, tôi còn thấy đó là một vinh dự. Nay bị thứ người "quốc gia"(*) mà tôi cho là tay sai của Pháp) bắt giam thì có gì là nhục nhã để tôi phải đau buồn hay thù hận nhỉ? Nhất là lý do để bắt ba nghệ sĩ này được thúc đẩy bởi sự cạnh tranh bất chính của vài đồng nghiệp "chó săn" và là sự dằn mặt của Công An Nam Phần đối với những người đã soạn bài hát cho Việt Minh. Tôi sẽ nhớ mãi một điều: đừng bao giờ chờ đợi ở những người "quốc gia" như phe nhóm Mai Hữu Xuân có một chính sách tốt đẹp nào đó đối với văn nghệ sĩ.
Nếu t ôi biết mùi bót Catinat và không bị khiếp đảm thì có nhiều người bị bắt giam ở bót này, khi được thả ra thường hay làm tăng huyền thoại khủng bố của nó nên cái tên bót Catinat đã gieo một sợ hãi lớn trong lòng người dân Saigon Chợ Lớn. Vào thời đó, những người đi chơi hay có công việc phải đi trên đường Catinat, khi tới trước mặt bót, không ai dám đi trên lề đường cả! Kể cả dưới thời Ngô Ðình Diệm sau này, khi bót Catinat trở thành địa điểm của Bộ Nội Vụ, người đi trên hè đường bên này vẫn còn bị ám ảnh bởi tiếng tăm của cái bót cũ nên đều muốn lảng qua hè đường bên kia.
Sự bất hạnh đến với tôi vào năm 1951 bị niềm lạc quan cố hữu trong tôi đánh tan đi, nhưng hai anh bạn Lê Thương, Trần Văn Trạch có vẻ mất tinh thần. Ngay sau đó họ tránh làm mọi sự có tính cách khiêu khích chính quyền và về sau, khi thấy tôi soạn tâm ca, tâm phẫn ca và tục ca, nhớ lại chuyện cũ, họ khuyên tôi phải nên "giữ mồm giữ miệng". Nhưng tôi là kẻ tuy cũng biết sợ súng nhưng luôn luôn giả vờ mắc bệnh điếc tai! Bây giờ phải nhắc lại chuyện xưa trong một cuốn Hồi Ký, tôi chỉ muốn nhớ tới bài học quý giá trong một xã hội tiêu thụ: phải tránh gây nên sự tranh thương bất chính nơi những người tự coi là địch thủ của mình. Ðừng bao giờ tạo cho họ cái cảm tưởng mình làm vỡ nồi cơm của họ. Ngoài ra tôi còn muốn ngỏ lời cám ơn tiếng chuông Nhà Thờ Ðức Bà đã an ủi tôi rất nhiều trong suốt 120 ngày tôi bị giam giữ. Tôi còn muốn đưa ra một lời chê bai Pháp thực dân và tay sai của họ là những kẻ thiếu óc thẩm mỹ vô cùng! Ai lại giữa thành phố Saigon hoa lệ, ở một khu được coi là thanh lịch nhất nước, trên con đường nổi tiếng về các khách sạn to lớn, về các cửa hàng lộng lẫy khiến cho trai tài gái sắc đua nhau lượn phố, nhất là trước mặt ngôi thánh đường vĩ đại và tôn nghiêm... mà lại duy trì một cái khám giam người chật chội, bẩn thỉu, hôi thối như vậy !
(*) Vào lúc này, Pháp thừa nhận Việt Nam độc lập và thống nhất. Trên danh nghĩa, tôi từ bỏ Việt Minh để về với "quốc gia", dù còn là quốc gia trong Liên Hiệp Pháp.