vhnt, số 98
2 November 1995
Trong số này:
+ thư ngỏ / vhnt
+ 1 - thơ, Buổi Chiều, Lý Hồng Văn
+ 2 - thơ, Lời Tự Tình, Bùi Thanh Hà
+ 3 - thơ, Ðường Hoa Gió Nắng Áo Phương Đông, Luân Hồ Triệu
+ 4 - tùy bút, Những Cảm Nghĩ Rời Mùa Thu, TP Nguyễn
+ 5 - phiếm luận, Áo Dài, Chời Ơi !, Ðỗ Trung Quân/Dung Nguyen
+ 6 - biên khảo, dịch Chinh Phụ Ngâm - phần 2, Dương Hùng
+ 7 - truyện ngắn, Người Em Nuôi (part 1), Cuong Quach
Bằng bút chì đen
Tôi chép bài thơ
Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng
Tôi chép bài thơ
Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng
Tôi đốt bài thơ
Từng phút từng giờ
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi không
(Bao Giờ, Bùi Giáng)
Cảm hứng đến từ tình cảm hay tri thức? Có thể một trong hai, hoặc có thể cả hai đều cần thiết cho kẻ sáng tác. Nhưng nếu không có ngôn ngữ, thì tình cảm hay tri thức cũng không thể bộc lộ chiều sâu của suy nghĩ. Ngôn ngữ gồm cảm xúc và tri thức, làm nên văn chương sáng tạo. Văn chương là một bộ môn nghệ thuật khá gò bó trong ngôn ngữ, nhưng lại vô cùng mở rộng phóng khoáng với khả năng sáng tạo khai mở cho mình một chân trời riêng tư, mới mẻ của suy nghĩ. Kỹ thuật của sáng tạo là vô kỹ thuật. Nền thi ca Ðức mở đường cho một chiều hướng thơ tự do, trong đó có Goethe, Rilke v.v... Thi ca Việt Nam của ta có Bùi Giáng, có Tô Thùy Yên, có Thanh Tâm Tuyền... mở ra những chân trời thật lạ trong ngôn ngữ.
Cảm xúc có thể truyền đạt qua ngôn ngữ khác được không, điều này vẫn còn là một đề tài tranh luận muôn thuở. Ðã đành tri thức có thể truyền đạt qua ngôn ngữ khác được. Còn cảm xúc? Thì ta cứ hãy cứ thử xem...
vhnt dự định ra một số đặc biệt về thơ dịch của các thi sĩ tên tuổi thế giới thi ca hiện đại, như Robert Frost, Rimbaud, Walt Whitman... Mời bạn đọc sưu tầm những bài mình thích, dịch ra Việt ngữ cho mọi người thưởng thức. Có thể đây là một ý định hơi thử thách, nhưng hề gì, thơ hay ở ý, không chỉ ở lời. Hay là, bạn viết những đoạn phê bình bài thơ nào ưng ý nhất?
Chúc bạn một ngày mùa thu nhiều cảm hứng, để đọc và sáng tác.
thân ái,
PCL/vhnt
Buổi Chiều
Buổi chiều lững thững trôi ngang
Như em tiểu thuyết vẽ ngang mi sầu
Tưởng rằng nắng sớm làm sâu
Trở mình tỉnh giấc ngọn sầu phất phơ
Chỉ trong một phút như tơ
Chính thiên thu ấy xoá mờ dấu son
Mưa rơi làm chĩu lối mòn
Dấu chân dẫm nát vòng tròn thuở xưa
Làm chi đến một cơn mưa
Anh đi biền biệt cho vừa lòng nhau
Ðâu phải một phút lao xao
Mà em rủ tóc làm màu tang thương
Ðau chi cơn mộng dị thường
Vài ba năm cũng chán chường nhau thôi.
Lý Hồng Văn
Lời Tình Tự
Lời trần tình đó
Ai gửi cho ai
Vang trong giấc mộng
Thổn thức đêm dài
Lời tự tình đó
Trong thoáng đam mê
Lung linh ẩn hiện
Một chút hương thề
Lời tuyệt tình đó
Khép kín trong tay
Bao nhiêu ước hẹn
Tan thành khói mây
Lời tạ tình cuối
Xin trả cho nhau
Can tâm đón nhận
Trọn niềm đớn đau
Bùi Thanh Hà
Denver, Colorado 10/95
Ðường Hoa Gió Nắng Áo Ðông Phương
Tôi vẫn mơ về những nẻo đường
Nẻo đường ngâm nắng ấm quê hương
Hương thơm hoa cỏ tan trong gió
Gió lộng tung tà áo đông phương
Luân Hồ Triệu
Những Cảm Nghĩ Rời Trong Mùa Thu
Ở Cali, mùa thu thường đến chậm. Cuối tháng mười, hàng cây gần chỗ tôi ở bắt đầu ngã vàng. Cuối tháng mười một, lá bắt đầu rơi. Tháng mười hai vẫn còn lá bay lả tả trong nắng vàng trong và cơn gió lạnh buốt, hoặc những chiếc lá đẫm mưa rải trên mặt hế Tôi gọi đó là chút mùa thu của riêng tôi trong một góc trời Cali.
Đến Oregon, mùa thu là một hiện hữu trầm mặc và thơ mộng. Màu sắc của mùa thu, từ màu vàng nhạt đến nồng, nâu đỏ đến nâu úa, nổi bật trên nền trời mây nặng. Sương mù trên tàng cây, mây che ngang đỉnh núi, lá vàng lăn trên mặt đất hay vùi lên nhau dưới cơn mưa nhe. Mùa thu êm ả, dịu dàng, cho nên mưa cũng phơ phất. Đôi khi, đứng giữa rừng thu, tôi nghe hơi ẩm len vào da, không rõ là mưa hay hơi sương, hay chính mùa thu đang ôm choàng lấy mình trong vòng tay lạnh mát.
Năm ngoái, lịch khoảng tháng 9,10 của một người bạn tôi là hình mặt hồ với rừng cây nhuộm vàng xa xa và đám lá úa bập bềnh trên gợn sóng. Tôi đã ngắm bức ảnh say mê đến nỗi bạn tôi giữ lại tờ lịch đó tặng cho tôi. Ở Oregon, bờ hồ mộng đến với tôi như nàng kiều nữ bước ra từ trong tranh. Hàng cây in hình thu xuống mặt hồ lặng như mặt gương, bóng núi xa xa long lanh trên ánh nước. Trái tim tôi quên mất một nhịp đập. Mùa thu đằm thắm bên hồ, không gian im vắng tô đậm thêm nỗi cô đơn...
Trên con đường ra khỏi phi trường Oregon, hai con ngựa ghép bằng cành cây cúi xuống thảm cỏ xanh mượt dưới chân. Vào freeway, mùa thu đã hiện ra trong tầm mắt, và tôi nhủ thầm: chắc mình sẽ yêu Oregon mất. Và tôi yêu thật. Yêu sương mù mang mang trên mặt sông Columbia buổi sáng sớm, yêu thác nước uốn quanh triền núi xanh rêu, và yêu khu rừng thu trải dài như vô tận, những chiếc lá lao chao trong cơn gió nhẹ và lăn tăn trên mặt đường như níu gọi những vết xe qua. Yêu cả tia nắng tinh quái lúc ẩn lúc hiện như đang chơi trò ú tim. Trong mùa thu Oregon, nhịp đời như dừng lại, tư tưởng đi vắng, chỉ những cảm giác bềnh bồng trôi như sương khói.
Về Cali lúc 6 giờ chiều, nắng đã phai, những phiến mây trời giăng qua khung trời xanh ngát. Hàng cây trên lối ra phi trường vẫn xanh tươi. Mùa thu ở Cali sao bỗng thành nhạt nhẽo như bình trà chờ khách đến nguội.
Bạn tôi ở Oregon hỏi tôi có muốn/có ý định/ có sẽ dời về Oregon định cư không (chắc hẳn bạn tôi đã nhìn thấy gương mặt si-tình-mùa-thu của tôi, hay đinh ninh như rất nhiều Oregonians khác là "Oregon đi dễ khó về"). Tôi không biết. Tôi sợ rằng Oregon và tôi chỉ là "có duyên mà không nợ" mất thôi.
Kết thúc bài viết lung tung này, xin chép lại một bài thơ chợt nhớ đến khi lái xe qua những triền đồi Oregon:
Cảm Xúc Thu
nhìn lên cuối dốc sương mù
vàng trong chiếc lá mùa thu một mình
nhìn xuôi xuống vực ân tình
nghe lời gió gọi bên ghềnh cô đơn
nhìn quanh đời: những mỏi mòn
nhìn ra trước mặt: vẫn còn thiên thu...
Hoàng Hoa
TP
Bài viết này để cám ơn những người bạn đã quen hay mới gặp ở Oregon tôi có dịp trao đổi một vài câu chuyện: anh Thiết, anh Trọng, anh Thượng, anh Bình, Tuấn, chị Vinh, anh Chính, Mai và nhất là Thu cùng ông xã và Andy.
Áo Dài! Chời Ơi!
viết nhân chiếc áo dài Việt Nam của Trương Quỳnh Mai đăng quang ở Tokyo
Chị là bạn cũ thời nhỏ ở cùng nơi tôi ở, thời cả hai lê la nghịch đất trước sân nhà. Chị về thăm nhà cùng với con trai mười tám tuổi nói tiếng Việt cũng "bết" như tôi nói tiếng Tây. Chị hỏi:" SàiGòn có gì cần đi xem?" Tôi lúng túng bởi hiểu người bạn cũ không hỏi vũ trường, karaoke hay những nơi ăn uống sang trọng, những thứ mà ở nơi chị cư trú chẳng lạ gì. Nhưng tôi kịp nhớ chỉ hai ngày nữa là có thể có cái để chị xem: " Sáng sớm ngày mốt (5-9) chị ra đường với tôi."
Buổi sáng ngày thành phố khai trường dù cơn mưa sầm u nhưng những ngả đường dường như được thắp sáng bởi áo dài trắng. Thằng con mười tám tuổi của chị kêu lên thảng thốt. Ðấy cũng là câu tiếng Việt hiếm hoi mà nó nói được:" Mom!Áo dài, chời ơi!" Ðúng rồi, đấy là thứ áo mà nó thỉnh thỏang bắt gặp mẹ mặc trong những ngày lễ tết ở nơi tuyết trắng.
oOo
Tôi suốt đời tự biết sẽ không bao giờ làm nổi câu thơ về chiếc áo dài bởi đã phải ngả nón trước N.S. trong câu hỏi: Có phải em mang trong áo bay... Hai phần gió thổi một phần mây... Hay là em gói mây trong áo... Rồi thở cho làn mây trắng bay... Linh hồn của tà áo, những gì tinh tế nhất đã là những câu thơ ấy. Món nợ một bài thơ áo dài với báo Phụ nữ TP. HCM từ năm 1989 vẫn còn nguyên đấy. Trong cuộc thi hoa hậu áo dài lần đầu tiên của cả nước, chị tổng biên tập báo Phụ Nữ đã nói với tôi: "Anh làm một bài thơ nhé.". Tôi lắc đầu, bài báo thì có, thơ thì thôi vậy.
oOo
Chiếc áo dài giờ đây đã trở nên quen thuộc với đời sống, nó đã qua thăng trầm của những lần bị "cải biên" hiểm nghèo như năm 1971, những thiếu nữ SàiGòn ra phố với áo dài và quần pát ống voi cứng còng, rồi áo dài cài nút giữa trước ngực, áo dài hở lưng... Nhưng cuộc "lật đổ" không thành công. Chở gió đi theo, quyến rũ, khêu gợi một cách kín đáo, kiêu sa kín đáo. Áo dài vượt qua mọi lật đổ, mọi "biến cố" để tồn tại như tự thân đã là một nét văn hóa mềm mại nhưng hùng mạnh, có thứ trang phục nào trẻ mãi không già như nó. (Người già mặc áo dài vẫn còn được chở gió đi theo đấy nhé!) Có thứ trang phục nào mà thi ca, hội họa, nếp sống phải tự tìm đến như chiếc áo dài, có phải vì thế chính vì nó đã phản ảnh phần nào một nét tâm hồn dân tộc...
oOo
Phượng cầm-tên gọi này không có thật cho một lọai đàn Việt Nam nhưng tôi thích gọi thế khi nghe câu chuyện của chị Phương Oanh, một người mang nền âm nhạc ấy rải khắp châu Âu với cái tên nhóm Phượng ca. Học trò Việt Nam rất nhiều, học trò mắt xanh tóc vàng cũng không ít. Ðàn tranh đấy thôi, nhưng vì sao cây đàn mỏng manh ấy, cũ kỹ ấy đã lọt hẳn vào chương trình giảng dạy của một nhạc viện lớn nhất nhì nước Pháp? Lại có kiên quan đến áo dàỉ Câu chuyện khởi đầu từ một lời châm biếm:" Âm nhạc dân tộc của xứ bà là thứ để chưng trong viện bảo tàng, khi cần mới đem ra lau chùi cho sạch sẻ..." Một ông tây nói thế với chị-người giảng viên khoa đàn tranh trước đây của Trường Quốc Gia Âm Nhạc ở SàiGòn- khi chị đã định bỏ nghề lúc sống ở trời Tây, đã định yên phận gia đình. Một năm sau, Phượng ca của chị ra mắt, cố mời cho được vị khách năm ngóai đến xem. Cái gì cần đến đã phải đến, sau buổi trình diễn người khách cũ kinh ngạc:" Sao hay, đẹp, trẻ trung đến vậy! Tôi xin lỗi bà!" Còn khán giả nói rằng :" Âm nhạc, thiếu nữ, tóc mây và áo dài..." Ðấy là tất cả những gì để "sửa sai" một lời nói châm biếm rằng chỉ để chưng trong viện bảo tàng. Áo dài! Lại áo dàị Phượng cầm không thể thiếu mái tóc xõa ngang lưng và một đôi tà phơ phất gió. Xưa cũ không có nghĩa là "già", văn hóa dân tộc tồn tại bởi vì nó "trẻ" "lẳng lơ" như tranh "Hứng dừa" cũng có tuổi trăm năm chứ sao. "Áo dài! Chời ơi!"
Ðỗ Trung Quân
TTCN 17-9-1995
Dung Nguyen sưu tầm
BALLAD OF A WARRIOR'S WIFE
(part II)
by ÐẶNG TRẦN CÔN and ÐOÀN THỊ ÐIỂM (1705-1746) [*]
tentative English translation by Dương Hùng
- early arctic snow 1995 -
HARDSHIPS AND PERILS
Since your departure for war,
where are you taking a rest at night?
the battlefields are desolated,
windswept and full of miseries.
Freezing winds carve your facial traits,
deep water wears off your horse;
with drum as pillow, sađle as blanket,
do you pass the night on white sand
or on green mounts of moss?
When Han troops retook Bạch Thành [11]
or Hồ armies probed Thanh Hải, [12]
mountains jag up high, passes break low,
staggering up and down.
Thick mountain dew dribbles in the evening,
water rushes down deep canyon;
armored combatants sadden
and yearn to be home.
Could the Emperor be aware?
From vast deserts to border outposts,
years in military campaign and hardship
shape warriors' portraits.
Dangers after dangers, snow after storm,
the combatants climb high
look at layers of interlacing clouds,
despair sweeps their hearts.
Chàng từ khi vào nơi gió cát,
Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến điạ nhường bao!
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu , ngưạ nản chân bon.
Ôm yên , gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe thế núi gần xa,
Ðứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi , buổi chiều như giội,
Nước lòng khe, nẻo suối còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn hải thì miền Tiêu quan.
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong;
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương.
My husband, you depart from the south-east,
where does the operation lead you to?
from ancient time, warriors value their life lightly
like shrubs and grass.
Devoted to the Emperor and the country,
how many combatants do survive? for how long?
the moon sadly hangs over mount shaped graves,
the wind soothes unknown tombs near Phì River.
Dead warriors' souls roam with the howling wind,
the moon illuminates survivors' faces,
dead or alive, portraits are drawn,
memorials celebrated at home.
As war rolls on, the landscape returns to normal,
passersby shed tears for the dead,
combatants grow old in battlefields,
Ban Siêu [14] only came home
when his hair grew white.
Armed with a long sword, riding combat horse,
does my husband cross the winđhowled deserts
or moonlit forests?
does he face hissing arrows in lađer attacks against forts?
Hundred different roads lead to military prominance,
harship after hardship, when can you rest?
How can I open my heart to you?
I am home bound, you at the horizon.
Chàng từ sang đông nam khơi nẻo,
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu ,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh ơn dầy từ trước ,
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo,
Bến Phì gió thổi điù hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai giàruổi chiến trường,
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên;
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên treo đầu ngưạ, giáo lan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi;
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
oOo
MISSED HOMECOMING DATES
Sequestered at home is my fate,
is your destiny drifting with the clouds?
we long to be together, like fish and water,
instead, we are like rolling water and roaming clouds.
You are born nobleman,
I never dreams of beeing warrior wife;
mountains and rivers now separate us,
sadness sinks in.
When we got married, you were a young literati,
charm brought us love and happiness;
now divided by borders and mountains,
how can we share our emotions?
At departure, orioles did not yet greet spring,
You promised to come home next spring with the cuckoos;
summer passes, and spring returns
with sparrows singing in the front porch.
When you left,
early winter plum flowers were still wind shy,
homecoming you said, could be when cherry blooms,
spring has gone, and spring comes back. [15]
Lũng Tây mountain [16] was where we should meet,
from early morning, I just wait,
only falling leaves;
at dark, only the birds crowed.
You asked me to be met at Hán Dương bridge, [17]
in evening, I saw no one;
the breeze hesitantly folded my dress,
rushing tides flooded the sea shore.
News, I do receive, but you do not return;
green moss has covered the willow tree
and blanketed the front yard;
sadness and sadness trail my steps.
Letters arrive frequently, but you do not come,
sunshine after sunshine fade my screen,
days after days,
your promises do not hold true.
Since the day you have gone,
nenuphars has blossomed thrice,
does chrysanthemum bloom
at remote outposts, in battlefields?
I am in distress.
Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng vay?
Những mong cá nước vui vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh-phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn?
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thôi hôm những sầu.
Chàng phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan sơn dể cách hàn huyên sao đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về, ước nẻo oanh ca;
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông;
Nay đào đã quyến gió đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ xờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Thư thường tới, người chưa thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương;
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
Tiền sen này đã nẩy là ba;
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài.
oOo
FAMILY DUTIES
All warriors have families at home,
aging parents, and lonely wives:
Mothers' with white hair, and the young children
are yearning for their care.
Standing by the doorway,
your parents are waiting for homecoming;
Our young child is waiting at meal time for chewed rice.
In good time or in hardship, I am your parents' son,
With books by the lamp, I am our child's father.
I serve our parents and guide our son,
by myself with all my attention.
For years, I miss you so much,
Spring comes and goes, winter comes and goes.
Since we are separated, is it three or four years ?
sadness multiplies, burdens clutter,
I wish you were nearby,
to confide my sufferance.
Precious hairpin and a mirror are my weđing gifts,
so often we together looked at the mirror,
Whom should I trust to send them to you?
so you do know how much I miss yoe?
Everyday, I touch our weđing ring,
and the jade hairpin I get since my young age;
To you, who should bring them?
so you remember our love.
Tình gia thất nào ai chẳng có ,
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương;
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì .
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa ,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm;
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam ,
Dậy con đèn sách, thiếp làm phụ thân .
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ '
Nỗi quan hoài mang mễ biết bao ;
Nhớ chàng trải mấy sương sao ,
Xuân từng đổi mới, đông nào có dư !
Kể năm đã ba tư cách diễn ,
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang ;
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay .
Thoa cung Hán thuở ngày xuất gía ,
Gương lầu Tần, dấu đã soi chung ;
Cậy ai mà gửi tới cùng ,
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư .
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghiá ,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi ;
Cậy ai mà gửi tới nơi ?
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân.
(to be continued)
[11][12] Names of two towns in China; this allusion derives from one of Lý Bạch (Ðường dynasty) poem:
Hán hạ Bặch Ðăng thành
Hồ khuy Thanh Hải khúc
Cổ lai chinh chiến điạ
Kỷ kiến hữu nhân hoàn.
tentative translation:
Han (troops) seized Bach Thanh
Ho (barbarians) probed Thanh Hai
Since ancient times
How many warriors do come back from battlefields?
[13] Bến Phì: a river bank in China; when the Tống armies defeated Bồ Kiên troops, corpses stacked as high as hills.
[14] Ban Siêu: a poor scholar in China; he joined the armed forces and succeeded in military career. When he finally came home, he was 80 years old, hair all white.
[15] orioles, cherry flowers: symbols of spring plum flowers: winter
[16] Lũng Tây: a mountain range in China
[17] Hàn Dương: a bridge in Cam Túc province, China.
Thân chào tất cả các bạn:
Câu truyện dưới đây được dựa theo người em nuôi thật sự của tôi. Còn những lời đối đáp và tên tuổi thì tôi đã thay đổi để cho có vẻ vui nhộn, chứ thật ra em của tôi tuy có khờ thật, nhưng không đến độ như tôi đã tả trong câu truyện đâu. Và cũng xin các bạn hãy bỏ qua những lời lẻ nếu như có vẻ quá thấp, vì ngày xưa còn nhỏ, đó chính là lời lẻ của những kẻ hay phá phách như tôi vẫn thường dùng, cám ơn các bạn.
Người Em Nuôi
Ông nội tôi ngày xưa ở bên Tàu, đã ở trong một vùng thật xa xôi hẻo lánh, muốn đi ra đến phố cũng phải mất cả ngày đường. Một cái chỗ mà tụi cộng sản Tàu vẫn hay đến vì nơi đó rất xa thành phố, nên đa số những người dân ở đó vẫn còn ngáo ộp và rất dễ bị dụ khị (như mấy cô gái ở dưới quê lên Sài Gòn bị người ta dụ vậy đó), cộng thêm sự an toàn vì quân đội của tổng thống Tưởng Giới Thạch cũng ít khi ghé ngang, bởi vì vùng
đó là vùng khỉ ho cò gáy đâu có chấm mút được gì, ghé ngang mà chi cho thêm khổ phải không các bạn!!!?
Ông nội tôi đã lo xa, sợ ba tôi một ngày nào đó sẽ bị tụi cộng sản dụ dỗ (y như bây giờ mình sợ con gái mình bị dụ dỗ vậy đó) gia nhập đảng cộng sản, nên ông tôi đã đành phải ra đi bỏ lại nhà cửa ruộng vườn cho bà nội và bác tôi để qua Việt Nam lập nghiệp, với hy vọng sau khi ăn nên làm ra sẽ về rước cả gia đình sang VN sau. Ðó là năm 1946, lúc đó ba tôi vừa được 16 tuổi. Cũng nhờ ơn trên đã phù hộ, nên ông nội tôi đã an cư lạc nghiệp ở Ngã Sáu Cây Ðiệp trong Chợ Lớn. Việc làm ăn buôn bán của ông, ngày càng phát đạt, nên ba tôi cũng được sung sướng lây. Ba tôi chỉ tối ngày lo đi học và đi chơi, khi nào kẹt lắm ông mới phụ giúp việc nhà chút đỉnh. Cũng vì cái tính thích đi chơi nầy, mà ba tôi đã gặp lại mốt số bạn đồng hương của ông cũng đã tị nạn qua VN. Trong số nầy tôi nhớ có bác Lưu ( họ Lưu ), sau nầy vẫn thường hay đến nhà tôi chơi và đã để lại hai đứa con trai của ông cho ba tôi làm con nuôi.
Ðể cột chân ba tôi đừng đi chơi nhiều nửa, ông nội tôi đã xuất một chiêu thật độc đáo, đó là quyết định đi cưới vợ cho ba tôi, mà không cần phải hỏi đến ý kiến của con mình. Người vợ đó chính là má của mười chị em chúng tôi sau nầy. Mà nghĩ cũng hay thật, ngày xưa cô dâu và chú rể đâu có quen nhau trước đâu, vậy mà những cặp vợ chồng như thế vẫn mặn nồng thấm thiết lắm chứ bộ. Hãy nhìn cái đại gia đình của chúng tôi là các bạn thấy liền. Tôi có tất cả là mười lăm chị em, nhưng có 5 người đã chê trần gian chật hẹp, nên đã ra về với chúa khi tuổi còn nhỏ xíu. Rồi vào năm 1955 ông nội tôi chợt nhớ đến Trung Quốc, nên đã quyết định về quê để rước bà và bác tôi sang. Nhưng hỡi ôi ! Lần ra đi đó là lần đầu tiên về lại quê hương và cũng là lần chót của ông. Theo như lời ba tôi kể lại thì ông nội tôi, sau khi về đến quê đã bị tụi cộng sản Tàu bắt và mang ra đấu tố. Ông đã bị chúng kêu án xử tử bằng cách nhốt trong lao và bỏ đói. Ông tôi chỉ được uống nước cầm hơi và sau sáu ngày thì ông đã kiệt sức, ngươì ông đã bị sưng lên thật to và chết trong tù. Tụi cộng sản thật là dã man, xem mạng sống con người như là con vật, muốn bắt, muốn giết lúc nào là tuỳ ý chúng. Ðúng là cái lủ vô thần, bán khai!!! Tôi sau nầy có về lại bên Trung Quốc (1994), đã gặp lại bác tôi và tôi có đề cập đến sự việc nầy, thì bác tôi đã bồi hồi và xác nhận điều đó là sự thật.
Sau khi ông nội tôi mất, ba tôi bị bắt buộc phải lo lắng đến vấn đề sinh kế, ông đã xoay đầu nầy, trở đầu kia và rồi mọi chuyện cũng tạm qua, gia đình tôi cũng đã được an cư lạc nghiệp ở Cam Ranh. Trong thời gian nầy, mấy đứa em tôi vẫn đều đặn được má tôi sản xuất hằng năm để tặng cho ba tôi. Ba tôi dược má tôi tặng nhiều con cái quá, nên ông đã có tóc bạc rất sớm và bị hói khi tuổi vẫn còn trẻ trung.
Rồi thời gian qua dần, mấy chị em tụi tôi cũng lớn lên theo ngày tháng. Năm tôi lên lớp đệ Ngũ, thì gia đình tôi có một thay đổi nhỏ, số là trong khi gia đình tôi có cuộc sống tương đối tạm đủ, thì trái lại gia đình bác Lưu vẫn tiếp tục xuống dốc vì làm ăn thua lỗ một cách thê thảm. Một hôm bác Lưu từ dưới quê ( Ômôn, Năm Căn ) lại nhà tôi chơi, có dắt theo hai người con trai của bác. Sau khi trò chuyện với ba má tôi cũng hơi lâu, bác Lưu đã từ giã đi về và để hai người con lại cho ba má tôi. Tôi lại tự nhiên ( cái nầy
còn tự nhiên hơn người Hà Nội nửa ) có thêm hai thằng em (nuôi) trai nữa. Tuổi nhỏ dễ bắt bạn với nhau và nhất là thằng con lớn của bác Lưu cũng cùng tuổi ( dê ) với tôi, nên
sau một hồi ngượng ngập lúc ban đầu, tụi tôi trở thành thân thiện với nhau. Tôi đã hỏi nó:
- Ê, hai anh em mầy là con của bác Lưu, vậy tụi mầy tên gì và học lớp mấy rồi?
- Tao tên Chánh còn em tao tên Phụ, tao đã nghỉ học lâu rồi, còn em tao thì vừa nghỉ một năm nay, vì ba má tao không có tiền cho tụi tao đóng học phí.
Sau khi nghe nó trả lời, tôi nghỉ thấy bác Lưu hay hay làm sao, khi bác có thằng con trai đầu lòng là bác đã vội nghĩ ngay đến giòng họ tổ tiên của mình, và bác đã chọn đặt tên cho thằng con trai lớn của bác là Chánh với ý nghĩa là chánh hiệu cháu đích tôn của giòng họ và thằng nhỏ là Phụ.
Tôi hỏi tiếp:
- Vậy chứ mầy nghỉ lâu rồi là bao lâu?
- Tao học xong bậc tiểu học thì bắt đầu nghỉ luôn.
Tôi ngày đó còn nhỏ và ham chơi, đâu có biết thế nào là tội nghiệp cho kẻ kém may mắn hơn mình. Tôi lại cười vui vẻ và nói thêm với hắn :
- Vậy thì sướng quá rồi, khỏi phải đi học, khỏi phải làm bài vỡ và tha hồ mà chơi, lạng quạng lớn làm đại úy nữa đó.
Thằng Chánh nghe xong chẳng những không vui mà còn xịu mặt xuống một đống, tựa như cái bánh bao thiu vào buổi chiều vì nó tưởng tôi ngạo nó, rồi nó bỏ tôi ở dưới nhà dưới và chạy lên lầu một mình. Trong bửa cơm tối hôm đó, ba tôi gọi tất cả chị em chúng tôi lại đông đủ và tuyên bố:
- Bác Lưu đã nhờ ba, má nuôi hộ hai đứa con trai của bác vì gia đình của bác đang gặp phải vận xui, làm ăn thua lỗ tùm lum, các con từ nay phải xem hai đứa con của bác Lưu như anh em một nhà vậy biết chưa?
Ba tôi sau khi dứt lời, ông quay sang nhìn anh em thằng Chánh rồi nửa đùa nửa thật nói tiếp:
- Hai con cứ coi như trong nhà của hai con và nếu có đứa nào ăn hiếp hai con thì mét chú, chú sẽ cho đứa đó ăn bánh tét nhân mây đã đời luôn.
Nghe ba tôi nói xong câu ấy, chúng tôi tất cả cùng cười rộ lên, không khí lúc đó trở nên ấm áp, vui nhộn hơn. Tôi thấy thế nên lên tiếng hỏi ba tôi :
- Ba à, còn cách xưng hô thì sao, ai lớn hơn ai?
- À, ba cũng quên mất, thằng Chánh bằng tuổi con nhưng nhỏ hơn vài tháng thành thữ nó phải gọi con là anh, còn những đứa khác ngoại trừ chị con, đều phải gọi là anh Chánh nghe chưa. Còn thằng Phụ thì nhỏ hơn thằng Quyền nhưng lớn hơn con Kim, thì tụi con cứ tính theo đó mà phân chia ngôi thứ.
Tối hôm đó, sau khi ba má tôi đã đi ngủ, chị em chúng tôi họp lại với nhau bàn về chuyện nhà tôi có thêm hai ngươì con. Sau một hồi nói tới nói lui, tôi nẩy ra một ý kiến là đặt tên lóng cho hai anh em thằng Chánh. Thế là cả bọn nhao nhao lên để đặt tên, tôi sau cùng phải lên tiếng:
- Ê, mình phải nói nhỏ thôi, chứ không ba thức dậy ổng lấy chổi lông gà lên ổng thưởng cho bây giờ.
Thế là những tiếng ồn ào dịu bớt lại và tôi sẳn đó tiếp luôn:
- Anh em thằng Chánh họ Lưu, vậy bây giờ mình thêm chữ lót là Manh thì nghe hay lắm đó.
Chị tôi và tất cả các em tôi đều cười rú lên ủng hộ, ngoại trừ mấy đứa em còn nhỏ quá chưa biết gì thì vẫn im lặng.
Tôi lại phải một lần nữ a lên tiếng bảo mọi người phải cố giữ cho nhỏ tiếng, rồi tôi dơ tay vỗ vào ngực mình như thể đang đóng tuồng trên sân khấu và ngâm lên theo kiểu hát tuồng Hồ Quãng:
- Ta là anh nên ta là Lưu Manh Chánh và mi là em nên mi là Lưu Manh Phụ.
Sau khi nghe xong, cả bọn chúng tôi cười rũ người ra như là một lũ điên.
(còn tiếp)
Quách Cường
Calif. 05/20/95