vhnt, số 112
5 December 1995
Trong số này:
1 - Hai Mái Tóc..............................................thơ, Lộc Quy
2 - Loreley Dị Khúc......................................thơ Heinrich Hein, Phan Lê Dũng
3 - Phố Xưa Vắng Quá Một Bàn Tay...........thơ, Chinh Dinh
4 - Tiếng Tru Người Dừng Lai.....................thơ, Nguyễn Xuân Thưởng
5 - Cybèle.....................................................thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường/DMN
6 - Ấn Tượng Austin......................................tùy bút, TP Nguyen
7 - Văn Hóa Dân Tộc Không Có Công Thức.....diễn đàn, Sơn Nam/Dung Nguyen
8 - Trần Anh Hùng với "Cyclo".........điện ảnh, hay Tiếng Ru Địa Ngục.....Thụy Khuê/PCL
Hai Mái Tóc
Mai mốt Mẹ về tóc đã bạc
gặp Ngoại ôm tròn nỗi nhớ thương
Hai mái tóc trắng đời lưu lạc
dòng sông quen một tiếng hát buồn.
Con sông kể chuyện xưa đời Ngoại
khóc theo chồng từng buổi loạn ly
con từng đứa một bầy thơ dại
Ngoại truân chuyên cả tuổi xuân thì.
Rồi đời Mẹ khóc buồn thiếu phụ
cuộc chiến tàn Bố biệt chân mây
Ngoại hôm sớm làm tàng cổ thụ
với cháu, con chiu chắt từng ngày.
Sông muôn kiếp không hề chảy ngược
Mẹ theo chồng; theo Bố, con đi
Ngoại đứng khuất sau hàng râm bụt
cả trời Nam tiếng khóc thầm thì.
Ngoại vẫn sống dòng đời bất hạnh
con sông buồn, mảnh đất cha ông
Mẹ thay tóc xứ người hiu quạnh
trắng như xưa, dáng Ngoại trên đồng.
Lộc Quy
The Loreley Loreley Dị Khúc
I wonder why I am so weary Sao ta vạn nỗi lo âu
What 's making me so depressed Ưu tư, sầu não tự đâu muộn phiền?
It must be the tale of old and dreary Hẳn là dị tích tương truyền
That 's keeping my mind quite obsessed. Hóa thân chuyển nét thành niềm ưu tư
The air is cool, night is sinking Gió nhẹ dạt dào, đêm dần hạ
And quietly 's flowing the Rhine, Trên sông Rhine giòng nước âm thầm
The tops of the mountains are blinking, Ðỉnh núi xa ánh xạ quang kỳ lạ
In purple-red sun setting shine. Mặt trời chiều tím thẫm, chói lòa
There 's sitting high in the light Trên thinh không giữa vùng nhật xạ
A maiden so beautiful, fair Một nữ đồng trọn vẻ thanh tao
Her jewels are glistening bright Trang sức trân kỳ lộng lẫy
She combs her gold shimmering hair. Ðang chải tóc vàng óng ánh như sao
Her comb is of most precious gold, Chiếc lược vàng tỏa màu vàng rực
She 's combing and singing so sweet Nàng chải tóc dài, giọng hát vụt cao
Bewitching young fishers and old Âm thanh hoang tưởng, ngọt ngào
Their hearts start to quiver and beat. Miên man ngư phủ, ba đào ngất ngây
There 's a man in his boat on the river Kìa trên sông bóng chàng ngư phủ
He cannot but listen and stare, Ðang sững sờ trong dị điệu ngọt ngào
A longing is making him shiver Chơi vơi tiếng hát thanh tao
Look out, the rock's ledge, oh beware! Mặc thuyền chuyển hướng trôi vào đá nhô
I fear there 's a crash, the boat sinking, Ta sợ thuyền đụng đá ngầm sẽ vỡ
The man will be swallowd and gone, Và chàng ngư phủ bỡ ngỡ sẽ chìm sâu
And that melodious singing Hỏi thuyền gặp nạn vì đâu
The Loreley will have done Loreley dị khúc vẫn câu tương truyền
Heinrich Hein Phan Lê Dũng
Phố Xưa Vắng Quá Một Vòng Tay
gởi Sài Gòn
của những chiêm bao náo động một thời...
Phố và em. Phố và tôi.
Vẽ lên giấy trắng, vẽ bồi hồi nhau.
Em ra với phố xuân thì
Hẹn nhau đầu ngõ vô vi, tôi chờ.
Phố này một chút viễn vông
Cho tình kia những chiêm bao xa gần.
Nhìn quanh quất một trời buồn,
Gió bay trong mắt, bụi mù tóc xưa.
Phố hư Phố thực. Phố rời.
Có em và phố, đôi lời nhớ quên.
Phố từ tâm. Phố rộng lòng.
Mưa bay từ chốn long đong tôi về.
Phố không. Phố tịnh. Phố buồn.
Có tôi và phố, chia muôn năm sầu
Một lần lòng rét căm căm
Tôi nghe im lặng của ngày cách xa.
Phố tôi xưa. Phố vô thường.
Phố xa tôi đứng bên đường ngóng trông
Phố ngày em khóc mênh mông
Tôi nghe im lặng của lần lệ rơi.
Dạo trên cung bậc ngậm ngùi
Tôi đi giữa phố, em vui độ nào?
Mưa bay xoá cả bóng hình
Bước chân từ dạo một mình tôi hay.
Trời say say và lòng buồn
Mưa xiên qua phố, mưa luôn một đời
Nghe từ tấc dạ chơi vơi
Vài dây ký ức buộc hời hợt qua.
Phố sương trong. Phố sa mù.
Sương tôi ký ức. Mịt mù giọng xa.
Về ngồi giữa phố hư vô
Giấc mơ nào có đẩy xô tháng ngày.
11.30.1995
Chinh
Tiếng Tru Người Dừng Lại
giữa cuộc hành trình dài
người dừng lại
lạnh lùng trên sườn đá dốc thẳng
sâu thẳm
bốn phía mây giăng
cất tiếng tru thảm khốc
tiếng nặng như treo đá
kéo chìm mất hút sau mây mù dưới chân
cuồn cuộn sôi
dư âm cao vút
rúng phân tử thành muôn đợt sóng
lao thẳng ra không gian
chạm vào các hành tinh
hành tinh nhỏ lệ
tiếng tru không tắt
tiếng tru ngân dài
ngân ngược chiều thời gian bốn ngàn năm
đất nước điêu linh
giải oan cho loài dân thống khổ
nén hương trên bàn thờ tổ cháy bừng
tiếng tru ngân dài
ngân theo chiều không gian
về chấn lạnh thịt da nứt rạn
theo vết thương xoáy lốc hút sâu vào tâm thức
nỗi đau của người của vật
kẽ nứt khép kín
chất đau hóa thành củi đốt
sáng mạch tâm
tiếng tru lồng lộng.
bốn phía mây tan
sườn núi biến mất
vực thẳm biến mất
người bước chân lên những đỉnh núi
tiếp tục cuộc hành trình
Nguyễn Xuân Thưởng
Tối nay nghe anh PtÐ đọc bài thơ này nghe hay quâ Post lên để các bạn cùng thưởng thức.
LIF :*)
trích đăng trong "Tuổi Trẻ Chủ Nhật" 26/11/1995
Cybèle
Năm xưa thời tuổi trẻ ngang tàng
Ta hát vang bài tình ca trong gió
Gửi trời đất giữ riêng ta nỗi nhớ
Ta khắc tên em trên gốc cây thông
Rồi ta đi mê mải phong trần
Qua tháng năm mịt mờ đạn khói
Giấc ngủ rừng nơi đầu sông cuối núi
Lại hiện về gương mặt đẹp như hoa
Lại hiện về trên những núi non xa
Trái táo hồng in dấu môi để lại
Mái tóc bồng của một thời con gái
Gió thổi tung trong màu phấn thông vàng
Mới thôi mà giòng sông thời gian
Ðưa ta về giữa hai bờ lau trắng
Một mình ta với mùa thu im lặng
Ta lang thang tìm lại cội thông già
Có ngờ đâu rừng ấp ủ giùm ta
Nét tên em dưới mũi dao ngày nọ
Và những gì em cho ta năm tháng cũ
Chìm trong cây thành một vết thương sâu
Gió cuồng lên hoang dại thuở ban đầu
Ta lại hát như là thời trai trẻ
Bài tình ca qua một đời dâu bể
Bay tìm em không biết tận phương nào...
Huế, 11-1995
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Ấn Tượng Austin
Tôi đã đến Austin bốn lần.
Lần thứ nhất, Austin cuối tháng một trời xám, mưa dầm, ũ rũ như chú mèo ướt. Tôi nghĩ "không có gì đặc biệt", và hững hờ từ chối vài bước chân đi thăm Mt.Bonnel vì sợ mưa và gió lạnh.
Lần thứ hai, Austin cuối tháng ba vẫn còn trời xám và mưa đôi khi, nhưng những đóa hoa blue bonnet và những loại hoa dại khác đang nở lấm tấm trên cỏ xanh dọc lối đi. Tôi nghĩ "không có gì đặc biệt", và miễn cưỡng đi theo ông anh qua những con đường nhỏ đan qua đồi bên dòng sông.
Lần thứ ba, thay vì rời Austin sau một hai ngày, tôi ở lại Austin ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đầu tháng mười một, thời tiết thay đổi như chong chóng, như thể ông thần khí hậu Austin muốn cho tôi thấy hết những vẻ đa dạng của mình. Đã nghe danh cái tính vui giận bất ngờ của thời tiết Austin, tôi đã cẩn thận mang cả áo len dầy lẫn mỏng. Thế mà mấy hôm ở Austin, hôm nào tôi cũng bị ông khí hậu làm cho hụt chân. Mưa rồi nắng, nóng rồi lạnh, ngột ngạt rồi gió lộng. Tôi nghĩ "khó chịu tệ", và than phiền về tất cả mọi thứ, từ những con đường nhỏ nhiều ngã tư đến cô bạn gái đã hẹn tôi ở một nhà hàng mà chính cô không biết nằm ở đâu (?).
Trong ba ngày mệt mỏi đó, một buổi chiều, người bạn đồng sở đưa tôi về lại khách sạn sau một ngày dài làm việc. Không khí ẩm âm ấm, mây mù che ngang bầu trời hoàng hôn. Nổi lên giữa làn sương mây trắng đục đó là mặt trời màu đỏ cam. Tôi chưa bao giờ thấy buổi hoàng hôn như thế. Không có những tia nắng chiếu nghiêng nghiêng, bùng lên rực rỡ như thể nuối tiếc, không có màu hồng tím hay đỏ cam lan từ cuối chân trời. Chỉ có mặt trời chìm trong mây khói, lạnh lẽo và thờ ơ. Con đường chạy dài, có hàng cây lối cỏ ven đường nhưng vẫn trông khô cằn khắc khổ lạ thường. Tôi bỗng nhớ những tàng lá mượt mà của Cali...
Mỗi buổi tối, tôi trở về căn phòng trên tầng mười hai trong một khách sạn bên giòng sông. Tắt hết đèn để tránh ánh sáng phản chiếu trên khung cửa kính, tôi hé tấm màn cửa, nhìn xuống mặt sông yên lặng phía dưới. Những toà buiding bên kia sông lấp lánh ánh đèn, chiếc cầu bắc ngang sông đã bắt đầu vắng xe qua lại. Ở trên cao, tôi không nhìn thấy đàn dơi nghe nói vẫn ngụ ở dưới chân cầu, cũng không thấy những con chim màu đen đậu quanh khách sạn kêu ầm ỹ lúc ngày và đêm lẫn vào nhau. Màn đêm huyền ảo mang đến một chút bí mật, môt chút che dấu gợi nỗi tò mò mơ hồ...
Lần thứ tư, giữa tháng mười một, tôi trở lại Austin, ngại ngùng và không hứng thú. Tôi chuẩn bị đương đầu với những ngày mưa gió thất thường, với những con đường lạ lẫm của Austin. Trên phi cơ, tôi hay chọn ghế gần cửa sổ, để đôi khi nhìn ra khung trời bên ngoài hay tò mò ngắm mặt đất xa tít phía dưới, chẳng bao giờ biết mình đang ở đâu nhưng cũng thích suy đoán tí ti :).
Mệt mỏi, tôi ngủ gà gật trên phi cơ, nhưng choàng dậy lúc sắp hạ cánh. Trong nắng, Austin phía dưới xanh mướt màu cây cồ Dòng sông Colorado uốn mình qua thành phố, những cánh buồm trắng điểm trên mặt nước xanh ngọc lấp loá ánh nắng. Không thấy nhà cửa san sát, vì những khu vườn rộng cây lá chắc đã làm khuất khu dân cư. Tôi bỗng thấy mình nghĩ thầm: Austin dễ thương đấy chứ?
Austin giữa tháng mười một thật đã dễ thương một cách... thất thường :). Trong bốn ngày tôi ở lại, thời tiết ấm, nắng đẹp, gió nhẹ. Buổi chiều, hoàng hôn đến trễ hơn ở Cali, tôi bắt gặp bầu trời nhuộm màu hồng tím. Màu hồng dịu nhẹ vương lên những vách đồi xẻ đôi cho con đường đi qua, trên khu nhà cao nhìn xuống thành phố, trên mặt sông gợn sóng long lanh bọt nước tung theo nhịp chèo uể oải của con thuyền nhàn dụ Buổi sáng, nắng ửng qua tấm màn mỏng che khung kính phòng gọi tôi dậy. Bờ cỏ xanh ngoài hiên khách sạn quyến rũ bước chân. Tôi bỏ phòng họp và ánh sáng nhân tạo để theo lối mòn bên đồi, đi trong nắng, lắng nghe tiếng chim vọng ra từ đâu đó trong vòm cây vừa chớm vàng theo mùa thu trễ muộn.
Ngày cuối cùng, tôi đến Mt. Bonnel. Nắng và lá đùa nhau thành nhưng đoá hoa rơi đầy trên những bậc thang lên đỉnh. Dòng sông vẫn bình thản trôi, một cô gái ngồi một mình tư lự, cặp tình nhân dắt tay nhau vui đùa trên dốc. Và tôi, vẫn như bao giờ, ngạc nhiên và ngưỡng mộ trước những kỳ quan giản dị và kỳ diệu của thiên nhiên. Trên hai bờ cây xanh, mùa thu đã đến vẽ một vài nét phác. Nắng khiêu vũ trên mặt nước, tung những đốm lửa nhỏ vào tầm mắt. Tiếng cười ròn của đôi người đi dạo. Cơn gió lùa vào trong tóc. Mt. Bonnel không có gì cho du khách đến trầm trồ. Đó chỉ là một nơi chốn trong cuộc sống Austin, cuộc sống chắc cũng phẳng lặng như dòng sông, bình dị như những ngọn đồi chỉ vừa đủ cao để chưa mang vẻ ngạo mạn hay đe dọa.
Austin không có gì đặc biệt. Tôi vẫn nghĩ thế. Nhưng Austin không cần những điều đặc biệt hơn những gì Austin đang có. Tôi mong rằng những công ty kỹ nghệ đang kéo đến Austin sẽ không làm mất đi Austin bây giờ, thành phố dung dị hiền hoà như những đóa blue bonnet nở mỗi đầu xuân.
TP Nguyen
Văn Hóa Dân Tộc Không Có Công Thức
Văn hoá dân tộc là danh từ trừu tượng, cũng như bao nhiêu danh từ hạnh phúc, ấm no, phồn vinh, tự do. Phải là trừu tượng thì mới là... văn hoá! Ngay đến cách định nghĩa hai chữ văn hoá, dường như chưa ai hoàn toàn nhất trí với ai cả.
Thời vua Tự Ðức, trước khi ta mất nước đã có đủ nào tiên học lễ, hậu học văn, liêm sỉ, công minh, chính trực và thêm lễ hội rườm rà, khăn đen áo dài. Ấy thế mà khi phương Tây đến, ta chịu mất nước vì luân lý đạo đức thờo đó đã mất sinh lực, chỉ còn là danh từ rỗng tuếch. Tuy nhiên chẳng ai xoá được những mặt tích cực của thời phong kiến vì nông dân là người sáng tạo văn hóa; nông nghiệp đã đẻ ra nền văn minh lớn. Nay ta còn đánh giá cao những cung điện, chùa, đình, miếu... và những món ăn, thậm chí cái áo dài, điệu quan họ, nhạc tài tử, ca dao. Bao nhiêu tấm gương bất khuất giữ nước, dựng nước, nhiều chiến sĩ thời "trung quân ái quốc" đã bình thản ra pháp trường. Ta không quên truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung óan ngâm khúc, Lục Vân Tiên... hoặc lệ rước giao thừa, bánh chưng , bánh giầy, cúng rằm tháng bảy.
Sức sống dân tộc ta biểu lộ rõ rệt với khả năng dung nạp và "tiêu hóa" những ảnh hưởng ồ ạt do xã hội tư sản đem đến, đặc biệt thời thực dân Pháp cai trị. Chiếc nhẫn cưới - phải chăng xuất phát từ đạo Thiên Chúa- trở thành phổ biến, thay cho đôi "bông búp" dịp thành hôn. Tuy gắn bó với thói ăn cơm với đôi đũa và chén, ta bày ra được món cơm tấm đựng trong dĩa bàn to của phương Tây;ăn cơm với muỗng, nĩa rất bình thường. Ta thu nhận nhạc mới để rồi sáng tạo ra nhiều bản rất Việt Nam như Con thuyền không bến, Hòn Vọng Phu... Yêu mê kịch nói, ta cũng thử nghiệm thành công việc cải cách sân khấu, với màn cảnh lớp lang qua tuồng cải lương, hoặc từ bản hành văn lần hồi triển khai ra bản vọng cổ. Nhờ giao lưu với các nước láng giềng, lần hồi ta nhận ra những nét lớn của văn minh Ðông Nam Á: thả diều, đua ghe, chiếc xe lôi.
Ta không nên đóng khung mấy chữ "văn hóa, văn minh, văn chương, quốc học" trong phạm vi văn chương thi phú để rồi cãi vã. Tạm hài lòng với quyển biên khảo ra đời rất sớm của Ðào Duy Anh (Việt Nam văn hóa sử cương) ta có thể bổ sung thêm tuỳ thích nào nghệ thuật về cây cảnh, non bộ, trồng lan, nuôi cá cảnh. Năm xưa, một nhà báo đã phỏng vấn ông Lưu Văn Lang, vị kỹ sư đầu tiên của VN du học bên Pháp, để rồi than phiền và chế giễu ông Lưu Văn Lang là người trí thức nhưng mất gốc! Khi hỏi đến Chinh phụ ngâm, ông Lưu Văn Lang trả lời không chút mặc cảm rằng ông chưa hề nghe nói đến tác phẩm đó bao giờ! Nhưng, khi thực dân Pháp trở lại năm 1945, mời ra làm quan to, ông đã trả lời rất khẳng khái, đại ý: "Tôi già rồi, không còn sức lực để làm nô lệ thêm một thời gian nữa." Ý thức sâu sắc về văn hóa dân tộc đã khắc sâu vào ông từ lâu, được dịp bộc lộ ra.
Gần đây, nhạc rock của phương Tây xuất hiện, được nhiều bạn trẻ ưa thích. Ưa nhạc rock, chưa hẳn là bỏ quên văn hóa VN! Nhạc rock đã phổ biến khắp thế giới vì bản chất dân tộc sâu sắc của nó: nhạc dân gian của người da màu châu Phi được phối hợp với dân ca của người Anh đi khẩn hoang, lần hồi mang tính phổ biến sáng tạo thêm.
Ðã là người, khi lớn tuổi, ai cũng sực nhớ đến khung cảnh mà mình đã hưởng từ thuở bé, như hình ảnh cây cầu tre, con trâu ăn cỏ. Văn hóa dân tộc tạm thời bị lãng quên. Nhưng SàiGòn còn nhiều người vui sướng khi ăn tết. Tuồng hát bội, nếu hát giỏi, vẫn được nhiều người ưa thích. Văn hóa dân tộc không mất đi đâu cả, đó là quá trình diễn biến lâu dài, đòi hỏi thời gian dài. Không phải tung ra vài tỉ bạc là "mua sắm" ngay được văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc không có công thức cố định theo kiểu pha chế món gà rút xương, bao nhiêu lạng thịt. bao nhiêu bột ngọt, mấy tép hành, bao nhiêu muỗng dầu ăn... Nước từ nguồn chảy băng ra biển. Ðóa là sự sáng tạo, sự phát minh không ngừng và chính thế hệ thanh niên ngày nay phải lãnh sứ mạng lớn. Người lớn tuổi lắm khi mỉm cười khi xem truyền hình bắt gặp động tác của các VDV xe đạp, khi mặc áo vàng, nghiêng mình bắt tay vị đại diện uỷ ban trao giải thưởng. Bắt với cả hai tay, rất hồn nhiên. Vì theo lệ, người VN khi kính trọng ai thì phải dùng cả hai tay như khi con dâu bưng chén trà mời cha mẹ chồng, như học trò ngày xưa được thầy gọi thì khoanh tay trước ngực, trình tập vở cho thầy với hai tay. Bắt tay với hai tay quả là khó hiểu đối với người phương Tây, nhưng ở nước ta thì khác.
Ðọc qua kinh Pháp Hoa, thấy bốn chữ "bình đẳng đại huệ", hiểu là mọi người, mọi vật đều có phật tính, đều đáng kính trọng. Người tử tù vẫn đáng cho ta thương cảm. Dịp lễ hội, nhiều người già trẻ cầm bó nhang to, sau khi thắp trên những bàn thờ lớn, bèn ra sân đến gốc cây, pho tượng sành sứ, con kỳ lân, mọi nơi đều cắm một nén nhang. Giây phút thiêng liêng mà con người được hòa hợp với chính mình, với đồng bào, với đất nước. Bởi vậy, lắm người cho văn hóa dân tộc là chuyện quê mùa và lẩm cẩm!
Sơn Nam
Dung Nguyen sưu tầm
Trần Anh Hùng với "Cyclo" hay Tiếng Ru Địa Ngục
Nhà đạo diễn trẻ Trần Anh Hùng vừa đoạt thêm một giải thưởng điện ảnh cho cuốn phim mới nhất của anh tại đại hội điện ảnh Bruxelles ngày 22 tháng 10. Ðó là giải Golden Sperm (Tinh Vàng). Bài viết sa u đây của Thụy Khuê được trích trong tạp chí Văn Học số 115, trong mục "Ghi Chép" của Nguyễn Huy Thạch.
Nếu có người không thích Cyclo của Trần Anh Hùng, chuyện đó dễ hiểu. Trần Anh Hùng là một đạo diễn thực hiện cái tương phản của đời sống trong mức độ sâu xa nhất mà điện ảnh Việt Nam chưa thể thực hiện được. Và điện ảnh Tây phương cung cấp phương tiện để hoàn tất: Ðiều kiện tài chính và phong cách tự do trong hoạt động sáng tạo, ngoài khía cạnh tài năng của bản thân Trần Anh Hùng.
Tác phẩm tương phản trong cái nghĩa nó nói lên hai khía cạnh: Một bên là niềm yêu mến, dịu dàng, âu yếm, trong đó có tình gia đình, tình cha con, tình mẫu tử, tình đôi lứa - gọi chung là tình yêu - biểu hiện trong Tiếng ru; và một bên là Tội ác. Ðiểm đặc biệt thứ nhì trong phim của Trần Anh Hùng là tính cách nhập nhằng biên giới giữa có tội và vô tội. Một tác phẩm như thế sẽ bị những người muốn định ranh rõ ràng giữa thiện và ác, khó chấp nhận, nhất là khi những giá trị truyền thống từ ngàn năm trước như bà mẹ Việt Nam hiền hậu - Mẹ Âu Cơ - có thể trở thành một thứ Bố già - par rain - trụ trì một băng đảng du đãng, buôn lậu, giết người.
Cyclo vừa là một nhân vật, vừa là phương tiện chuyên chở của Trần Anh Hùng để đi sâu vào Sài Gòn - Hochiminhville - vào xã hội đương thời và có thể cũng là hình ảnh của bất cứ một thành phố lớn nào trên trái đất, có cả mặt chìm lẫn mặt nổi: bộ mặt tươi rói, tỉnh táo, ngây thơ, vô tội ban ngày và bộ mặt đàng điếm, nghiện ngập, giết người ban đêm.
Nhân vật Cyclo như một thứ Faust riêng biệt của Trần Anh Hùng. Một Faust vô tội, vì tình cờ bị mất xích-lô mà phải bán linh hồn cho quỷ. Con đường hành hương của Cyclo xuống địa ngục trải nhiều c ửa ải: cửa ải đầu tiên là bà chủ hãng xích-lô. Một bà mẹ Việt Nam truyền thống mà tình thương đứa con yêu dấu tật nguyền tỏa ra ngào ngạt như những âm hưởng mà chúng ta đã thuộc lòng qua lịch sử, qua thi ca. Mẹ già cuốc đất trồng khoai, nuôi con đánh giặc đêm ngày, trong nhạc Phạm Duy, hoặc Con đi đánh giặc mười năm, chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi, trong thơ Tố Hữu.
Ðấy là mặt phải của tấm mề đai. Mặt trái của mẹ Âu Cơ mà Trần Anh Hùng đưa ra là một thứ mẹ Mìn, mẹ Trùm, mẹ Mafia, mẹ Bố Già, cầm đầu băng đảng giết người, buôn lậu nha phiến. Ðây chỉ là một hình ảnh siêu thực nhưng người xem cũng có thể mường tượng là hình ảnh rất thực của bà mẹ Tấm Cám nuôi hai đứa con, một ghẻ, một ruột, để chúng bắn giết nhau suốt hai mươi năm chưa chán. Trần Anh Hùng dường như đã nắm bắt cả hai tinh thần: dịu dàng, âu yếm và độc ác, giết người trong con người Việt Nam thời đại để chiếu gros plan lên màn ảnh vĩ tuyến tô màu. Chiếu như thế nào?
Sự lựa chọn một diễn viên - Lê Văn Lộc - chưa xuất hiện trước ống kính bao giờ, chứng tỏ Trần Anh Hùng muốn đi sâu hơn nữa trong ý nghĩa ngây thơ, ngây ngô, naif, của con người vừa nhập nghiệp trên hai bình diện: khía cạnh diễn viên và khía cạnh tội ác. Lê Văn Lộc đã phản ánh được thử thách đó. Trên nét mặt của Cyclo là một dấu hỏi khổng lồ và triền miên về các sự kiện đã xảy ra, về hành động của mình và về hậu quả mỗi hành động. Cyclo băng trinh trong hành trình tội ác cũng như người chị của Cyclo, do Trần Nữ Yên Khê diễn tả, cũng băng trinh trong hành trình làm điếm của mình. Cả hai luôn luôn có những cử chỉ vụng dại, những cái nhìn e dè, lấp lửng, không hiểu những gì đã xảy ra và không hiểu chính những hành động của mình. Nhân vật nhà thơ, chủ chứa và xếp băng đảng do Lương Triều Vỹ (Leung Chiu Wui) đóng, là con bài bắt cầu giữa hai thế giới. Anh ta yêu nghệ thuật, biết trọng cái đẹp, trong phòng treo tranh Bùi Xuân Phái - luôn luôn quằn quại trong những suy tư - chảy máu cam trong tâm hồn. Nhưng hành động lại dao búa, sát nhân và thủ phạm. Nhìn xa, nhà thơ cộng hưởng ba tâm hồn: Tú Bà, Sở Khanh và Goethe. Nhìn gần, anh biểu dương cho các nhà thơ xung phong, nhà thơ quyền thê ', mỗi câu thơ là một viên đạn bắn vào kẻ thù hoặc kẻ không thù.
Sự tương phản không chỉ nằm ở trong đầu mỗi nhân vật mà còn nằm trong cách xếp đặt hình ảnh, biểu tượng. Trần Anh Hùng tận dụng những gros plan của mình để đưa ra những hình ảnh đắt gía, giống như nhà thơ tận dụng ý nghĩa của mỗi chữ.
Trong Cyclo có những bối cảnh ăn sâu vào tâm trí người xem, như hình ảnh miệng đứa con tật nguyền của bà chủ xích-lô - luôn luôn mở ra, hớp hớp như miệng cá - và hình ảnh Cyclo - mơ tưởng được đớp cá - Rồi hình ảnh đứa bé tật nguyền thích nghịch sơn, bôi sơn vào người và Cyclo, trong cơn mê sảng vì thuốc phiện đã tắm sơn vào người cho giống đứa bé tật nguyền. Hai bối cảnh vừa nói lên sự thèm muốn yêu thương, đói khát tình mẫu tử của Cyclo, vừa chứng tỏ những bất công trong sự phân phát tình thương giữa người và người, ngoài sự bất công giàu nghèo trong xã hội.
Rồi hình ảnh cái máy bay Mỹ rớt giữa đường phố Sài Gòn và con người sống quanh đó, như chưa hề biết có sự hiện diện của bộ máy chứng tỏ chiến tranh vẫn còn sinh động trong con người mặc dầu không ai để ý đến. Rồi hình ảnh một tay anh chị, vừa giết người, vừa hát bài hát ru ù ơ như để ru kẻ xấu số vào giấc ngủ ngàn thu. Hoặc hình ảnh bà chủ xích-lô vừa quạt vừa hát ru con, lãng đa ~ng trong tiếng ru, bà hạ lệnh thủ tiêu, đánh đập. Ðó là những tiếng ru địa ngục, vừa nói lên sự tương phản sâu xa giữa tình yêu và tội ác, vừa cho thấy sự cộng tác, sống chung hòa bình giữa tội a 'c và tình yêu.
Bên cạnh những cảnh cực kỳ dã man ấy, ống kính xoay về thế giới trẻ thơ, chiếu sáng những khuôn mặt ngây thơ vô tội như để nhấn mạnh thêm sự tương phản hay để gieo một chút hy vọng ở ngày mai, hoặc để nói lên tính cách ngây ngô của con người trong hành trình tội ác của mình.
Tính chất tương phản vừa là một gía trị lớn trong nghệ thuật, đồng thời gây những phản ứng gai ngứa nơi người xem. Thành phần ưa những thành quả tích cực sẽ gai ngứa khi nhìn thấy những khía cạnh tiêu cực mà Trần Anh Hùng đưa ra, coi đó như một hình thức bôi nhọ những giá trị truyền thống như tình mẫu tử, óc tự hào dân tộc, v.v...
Thành phần ít chính thống hơn sẽ cảm thấy ở những hình ảnh bạo liệt này, những gáo nước lạnh, những giọt cường toan nhỏ vào lương tâm chính mình - nếu mình có một lương tâm - khiến mình ghê tở m chính cái đống rác nhầy nhụa trong huyết quản của mình. Sự ghê tởm này chắc chắn sẽ có một giá trị cảnh tỉnh cho những ai cảm thấy phải chia sẻ cái nhìn dịu hiền của người mẹ, lời ru ầu ơ của người cha, và hào quang chiến thắng của mỗi lần xung kích, cho những kẻ không bao giờ được hưởng những tiếng ru, không được ngậm hào quang chiến thắng, thì sự phân phát tình thương sẽ cân bằng hơn, kéo lại phần nào những chênh lệch giàu nghèo truyền kiếp trong xã hội.
Và đó là giá trị đích thực của tác phẩm.
Trong ba giải thưởng điện ảnh hàng năm của thế giới - Oscar, Cannes và Venise - Oscar và Cannes dựa trên những tiêu đề khác. Duy chỉ có Venise lấy nghệ thuật và tư tưởng làm chủ đích. Và những nhà điện ảnh của đại hội đã nhìn thấy giá trị nghệ thuật và tư tưởng trong tác phẩm của Trần Anh Hùng khi họ trao giải Sư Tử Vàng cho người nghệ sĩ trẻ mới bước chân vào nghề với cuốn phim thứ nhì, một sự kiện hiếm hoi trong lịch sử điện ảnh thế giới.
Ðối với người Việt chúng ta, nếu cần có một niềm tự hào dân tộc, thì có lẽ nên tự hào rằng ống kính của Trần Anh Hùng đã đào bới những nỗi đau, những rác rưởi trong xã hội Việt Nam để nói lên cái rác rưởi, cái đau chung của nhân loại ".
Thụy Khuê
trích Văn Học, số 115, Dec. 1995
PCL sưu tầm