vhnt, số 80
10 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - thơ, Nhớ Thu Xưa, Thái Văn
+ 2 - thơ, Soi gương, Cao Quảng Văn/Duc Minh Ngo;
- thơ, Vô Tư, Ðoàn Thạch Biền/DMN
+ 3 - thơ, thư Tạ Anh gửi PCL:
- Girl of My Dream;
- 1 Division Rd., Ta Anh/PCL
+ 4 - thơ, Anh Ði, Ðặng Khánh Vân
+ 5 - truyện, Bông Hồng cho Emily, William Faulkner/PCL dịch
chào bạn,
Trong bóng tối, trong nghèo nàn và đau khổ. Hỡi thần
thơ ca hãy đem cho chúng tôi bó đuốc và lòng tin tưởng Tagore
thân ái,
PCL/vhnt
Nhớ Thu Xưa
Trời xám
vàng bay
Thu lạnh
Gây gây
Mặt trời đâu vắng
Hết mây trắng bay
Lá rơi...
Mãn địa...
Người xa có hay
Một mình
Lặng lẽ
Gió lộng
bên tai
Cõi lòng trống vắng
Tâm tình với ai?
Nước xa
Non cách
Tình xưa...
Ðâu rồi?
Thái Văn
Soi Gương
Bạc rồi nửa sợi tóc xanh
Dẫu không chờ đợi
cũng đành thế thôi
Tôi nghe như có một người
Soi gương
cười với nụ cười triết nhân?
Cao Quảng Văn
oOo
Vô Tư
Em vô tư
Tôi vô tư
Ta vô tư quá!
Làm hư cuộc tình
Thôi đừng giả bộ
Mặt mừng
Khi trong tay bắt
Ðã lừng khừng
Buông
Bây giờ kinh tế thị trường
Em còn giấu được nỗi buồn
Tôi mua
Ðoàn Thạch Biền
trích KTNN, số 186, ra ngày 20/9/95
Ðây là bức thư của cậu cháu trai gửi tôi. TA đã tốt nghiệp văn chương và hiện đang theo học cinematography. Dì cháu tôi có chút thông cảm trong cái nhìn về văn học, dễ chia sẻ với nhau. Xin chia sẻ với bạn đọc 2 bài thơ của TA.
PCL
oOo
Baton Rouge, ngày tháng năm...
Dear dì Lan,
Hello dì, hy vọng mọi chuyện tốt đẹp ở bang "ngôi sao đơn độc" bên ấy. Cháu đang sửa soạn cho kỳ thi cuối khóa, đang bận lắm. Nhưng thay vì học bài thì cháu quyết định hoãn lại khi khác, để viết thư này cho dì đây. Ðây là mấy bài thơ cháu viết cho lớp poetry, cho chương trình ra trường của cháu. Dì đọc rồi cho cháu ý kiến. Mấy bài này liên quan đến cá nhân cháu, chắc dì sẽ nhận ra sau khi đọc.
Sẽ có phần diễn giải ở cuối thư, nhưng dì phải đọc thơ trước đã.
GIRL OF MY DREAM
She smiles - A Silver of Moon that Faults me
Even Earth interrupts itself
Her step, a delicate Incision, corrupts the Soil
The Tread of her fingers Trembles my Soul
In her eyes was no humanity, yet I see myself
She - never, never girl of boundless night and finite sky
Steals me from my world. A Purchaser of Past and Present
Vivisects me in lines of Liquid ice and dusky Fire
She walks amidst my self. There she finds my future
A human place
With piercing ambition, she - Judas of my life
Heel spikes into my foresight, killing the Lust
Sated. She untangles her lines
She - nocturne Child of Dreams
Dissolves
I lay, a mist of Forgetfulness
The convention of my Being strewn about
I find the two worlds of Translucent glass
These I use for eyes
1 DIVISION RD.
The hiss of a car down the greasy street
Into an oblique line of non-existence
I catch the flickering streetlamp quiet
Behind the whispers of the trees
People they surround my solitude
In Platonic caves of light squeezing eaves
I stand on mountainous pavement of desuetude
In a smear of ambiguous darkness
My audienceless soliloquy released
Before the world of 1 Division Rd.
Composed of a croaking toad
Tạ Anh
Phần tự diễn giải thơ mình của Tạ Anh:
Explication of "1 Division Rd."
Okay, this poem is about myself. One night I was feeling pretty down. You know very well that feeling? The feeling that you are very much by yourself, even though there is a million people around you.
Well. The hiss of the car is self explanatory. From my window, I can hear the cars as they go by. Especially in the late, late hours. The loneliness hours. It had rained earlier and I could imagine how the street sort of glistened kind of greasily.
Line two is a reference to myself as a writer. The "oblique line of non-existence". Sometimes I'm scared that I can write my whole life away without anyone understanding or noticing me.
I think you, my dear aunt, can figure out what I meant.
Some minor references:
Platonic refers to platonic relationships, such as friends and such and also to Plato's cave.
My mom lives on Division Rd., I got a letter from her. That's how I got the idea for the poem.
The toad is really me!
***
Girl of my dream
I got the inspiration for this after I had a weird dream one night. This beautiful alien girl visited me in the night and kidnapped my "non-existant" wife and kids. She was going to eat them. The real funny thing was I fell in love with the alien and told her to keep them. She told me she loved me also, but she had to go back to her world. So, she left with my dream family, leaving me by myself heartbroken and with no one to make my dinner.
Well, I rewrote the dream to become an allegory for the poetic muse. The poem is also about the conflict I have between my desire to be Vietnamese and my attraction to Western girls.
Your nephew,
Tạ Anh
Anh Đi
Anh đi nắng ngã phai màu
Hoàng hôn nghiêng bóng cúi chào màn đêm
Anh đi gió thoảng êm đềm
Mây trời vương vấn bên thềm mộng mơ
Anh đi hoa cỏ thẫn thờ
Lá vàng rơi rụng bên bờ quạnh hiu
Anh đi cây lá cô liêu
Chim trời lạc lối mỗi chiều kêu vang
Anh đi bóng nguyệt phai tàn
Khung trời lặng lẽ muôn ngàn sao rơi
Anh đi ong bướm chơi vơi
Vườn hoang sẽ vắng những lời yêu đương
Anh đi dưới ánh tà dương
Hồn thơ trầm lặng bên đường gọi anh
DKV
Bông Hồng Cho Emily
Ngày Emily qua đời, cả phố chúng tôi cùng đi tiễn nàng. Trong số những người đến đưa đám đó, đàn ông đến vì cảm thương thân phận xấu số, hẩm hiu của một người con gái. Còn các bà thì phần lớn đến vì tò mò muốn vào xem bên trong ngôi nhà bí mật đóng kín, ngôi nhà không một ai trong lối xóm dám héo lánh ra vào cả mười năm trời nay. Lúc xưa ngôi nhà từng được sơn màu trắng, là một trong những ngôi nhà đẹp nhất phố nằm giữa khu sang trọng dành cho những gia đình danh gíạ Nhà thật lớn, xây theo kiểu cổ từ thế kỷ trước. Sân thượng và bao lơn trạm khắc những hình tượng, chạm trổ thật mỹ thuật. Ngôi nhà vẫn còn giữ được vẻ uy nghi, lộng lẫy trang nghiêm của một thời, mặc dù thời gian đã phủ nét hoang tàn vì thiếu chăm sóc, chú ý của gia chủ. Bây giờ thì cô Emily đã đi khỏi. Cô đã về nằm cạnh tổ tiên trong khu nghĩa trang trên ngọn đồi lộng gió.
Ngày còn sống, cô là một truyền thuyết, là câu chuyện cho nhiều người bàn tán. Họ nói về cô với vẻ nể vì lẫn với sự thương hại. Nghe nói hồi xưa ông tỉnh trưởng là bạn thân của thân phụ cô. Hai người quan hệ mật thiết thế nào mà gia đình cô được miễn thuế hằng năm. Người ta cũng cho rằng có thể vì thân phụ Emily là ân nhân của thành phố, ông đã cho vay một số tiền để kiến thiết xây cất công sở, nên gia đình cô được đặc biệt miễn thuế. Chỉ có thời ông đại tá Sartoris còn tại vị mới có những vụ "áp phe" kiểu này. Còn bây giờ, chuyện đồn đại như thế chỉ có đàn bà con gái mới tin. Về sau này, khi thị xã có tỉnh trưởng mới và hội đồng tỉnh được thành lập, nhà cầm quyền có gửi thư cho cô đòi nộp thuế năm đầu tiên. Thư gửi cả mấy tháng trời mà không thấy trả lời. Thư thứ hai lại được gửi đi, lời lẽ trịnh trọng yêu cầu cô hồi âm, hoặc đến văn phòng tỉnh bất cứ lúc nào thuận tiện cho cô. Vẫn không thấy hồi âm. Một tuần sau ông tỉnh trưởng phải tự tay thảo một bức thư lịch sự mời cô đến gặp riêng ông bằng xe của tỉnh, có tài xế đưa đón. Thư trả lời với nét chữ mềm ẻo lả, màu mực nhạt viết trên giấy mỏng nói cô không đi ra ngoài, kèm theo thư là tờ nộp thuế chẳng thêm một lời giải thích nào.
Trên tỉnh họp hành sao đó, rồi gửi một ông công chức đến gõ cửa nhà cộ Cánh cửa đã đóng im kín sau ngày cô thôi không dạy lớp nữ công mười mấy năm về trước. Người lão bộc già ra mở cửa. Ông lão dẫn người đàn ông vào một hành lang tối om, ngang qua cầu thang nhìn lên lầu đầy bóng tối hun hút. Mùi ẩm mốc và bụi bặm bay xông ra từ những đồ vật không người động đến. Họ vào phòng khách tối mù m Ðồ đạc trong phòng là loại đồ cổ bọc da, loại đồ quí nhưng kiểu có vẻ nặng nề thô kệch. Ông lão chậm chạp đến bên cửa sổ vén bức màn cho ánh sáng lùa vào. Ánh sáng vừa đủ soi rõ những đồ vật bụi bặm, những vết nứt mốc meo của lớp da bọc ghế và một luồng bụi bay lên xoáy tít trong tia nắng lúc người đàn ông vừa chạm mông ngồi xuống. Ở góc phòng, trên đầu chiếc tủ gỗ mun là bức chân dung bằng sơn dầu của ông cụ thân sinh cô Emily. Cô Emily đến đứng ở ngưỡng cửa. Người đàn ông bật đứng dậy nghiêng người về phía trước sửa soạn đưa tay bắt lấy tay cô và cúi đầu chào cô. Cô mặc chiếc áo dài màu đen, dây chuyền vàng đeo thòng trước ngực. Dáng cô cao lớn, khuôn mặt tròn trắng bệch, nước da bủng như người mắc bệnh lâu ngày không bao giờ ra nắng. Người cô hơi đẫy đà, vóc của loại người ít hoạt động, chậm chạp. Khuôn mặt không chút sinh khí với đôi mắt như hai vết than đen sâu hoắm trên đôi gò má cao. Cô đứng đó như người bất động, lạnh lùng nghe người đàn ông nói mục đích của cuộc viếng thăm. Không thấy cô ra dấu mời ông ta ngồi. Ông ngượng ngập nói trong khi cô vẫn đứng yên ở đấy gần cửa ra vàọ Không khí chìm lắng, ngột ngạt, chiếc đồng hồ kêu tích tắc lúc người đàn ông vừa ngừng câu. Giọng cô lạnh lùng:
- Tôi không thiếu thuế nào cầ Ông Sartoris đã nói với tôi thế. Ông nên đến tòa thị sảnh mà tra lục hồ sơ.
- Chúng tôi đã tra lục rồi, thưa cô. Ông thị trưởng đã gửi thư giải thích rõ ràng về điều này, cô có nhận được thư không?
- Tôi có nhận được thư của người nào đó tự nhận là ông thị trưởng. Tôi đã bảo là tôi không thiếu thuế gì cả mà.
- Nhưng sổ sách không có ghi điều đó, thưa cô. Chúng tôi chỉ làm theo.
- Ðến mà nói chuyện với đại tá Sartoris. Tôi không biết thuế má nào hết.
- Nhưng thưa cô...
- Gặp ông Sartoris mà hỏi.
(Ðại tá Sartoris đã qua đời gần mười năm nay).
- Tôi đã bảo là tôi không thiếu thuế ai. Ông Tobe đâu?
Ông lão bộc lừ lừ xuất hiện.
- Làm ơn dẫn ông khách đây ra cửa dùm.
Cô Emily đẩy được họ ra về, cũng giống như lần trước cô đẩy được đám cha ông họ mười năm xưa về vụ mùi hôi thối. Lúc đó khoảng hai năm sau ngày ông cụ thân sinh cô qua đời và ít lâu sau ngày người tình của cô bỏ rơi cô. Nghe nói họ sắp sửa lấy nhau, rồi về sau tan rả. Sau ngày cha cô chết, cô rất ít đi ra ngoài. Chẳng còn ai trông thấy cô ngoài đường phố sau vụ đổ vỡ đó. Ðàn bà con gái thích biết chuyện người lân la tìm hiểu, nhưng cũng chẳng biết gì nhiều về đời sống chìm lặng trong ngôi nhà trắng âm u bí mật đó. Dấu hiệu duy nhất về sự sống ở ngôi nhà lặng lẽ này là bóng dáng ra vào của lão Tobe, lúc đó cũng chưa hẳn gìa lắm. Người ta thấy ông ta ra ngoài với chiếc giỏ đi chợ và trở về với ít thức ăn. Các bà truyền miệng nhau rằng ông ta cũng lười biếng lắm, chăm sóc nhà cửa vườn tược không được vén khéo nên ngôi nhà nhìn vào như nhà bỏ hoang. Rêu cỏ mọc ngập, khung cảnh âm u thật tiêu điều. Một vẻ hoang phế, lạnh lẽo sao đó. Hàng xóm cũng chẳng lấy làm lạ lắm khi mùi hôi xông nồng quanh xóm. Ðàn ông mà, đâu có biết giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, họ lâu ngày cũng quen với người hàng xóm luộm thuộm này. Nhưng lần này thì mùi hôi nặng lắm. Không phải mùi rác rến lâu ngày chưa dọn, mà là mùi thum thủm khăm khẳm thật khó ngửi.
Một bà hàng xóm khiếu nại với thành phố. Ông thị trưởng Stevens nhăn mặt lắc đầu:
- Chúng tôi biết làm sao được bây giờ, thưa bà ?
- Ông gửi thư yêu cầu cô ấy giữ vệ sinh cho cả xóm dùm.
Người đàn bà tức giận.
- Bộ không có luật lệ gì sao chứ
- Cũng không cần thiết lắm. Có lẽ chỉ là xác con chuột hay con rắn ông gìa làm vườn đập chết mà chưa kịp chôn. Ðể tôi nói với họ...
Vài hôm sau ông tỉnh trưởng lại nghe vài người nữa phàn nàn. Một người hàng xóm đến gặp ông, khẩn khoản:
- Thưa ông, mình phải làm thế nào chứ. Tôi chẳng đời nào muốn làm phiền đến cô Emily, nhưng cứ để như thế này ai mà chịu được.
Tối hôm đó trên ty lại họp bàn. Ông trưởng phòng đề nghị:
- Cũng đơn giản thôi. Chỉ việc gửi cho cô ấy một bức thư cảnh cáo phải dọn dẹp sạch sẽ khu nhà trong một kỳ hạn. Nếu họ vẫn không thi hành...
- Hừm, ông nói nghe hay nhỉ ? (ông thị trưởng nói). Ai lại đi nói vào mặt người đàn bà về mùi hôi của họ!
Nửa đêm hôm sau, có bốn người đàn ông lẻn vào vườn nhà cô Emily như những kẻ trộm rình mò. Họ lục tìm, đánh hơi mùi hôi dọc theo bờ tường và nhà chứa, rồi tung vẩy
bột vôi cùng khắp để khử mùi hôi và trừ nhiễm dịch. Có một cánh cửa sổ còn đèn thắp sáng, họ lần khẽ về phía đó. Cô Emily đang ngồi im bất động trên ghế, mặt cô nhợt nhạt dưới ánh đèn trông như một bức tượng không còn hồn. Họ rón rén lần trở ra đường cái và biến mất vào bóng đêm. Ít lâu sau mùi hôi loãng dần rồi biến mất.
Cả phố bắt đầu thấy tội nghiệp cô, cũng như đã từng thương xót người dì của cô Emily, cô Wyatt già cả điên loạn lúc xưa. Ðàn bà con gái dòng họ Griersons thật là xấu số. Họ có vẻ hơi kiêu kỳ, làm cao hơn là vẻ cao sang thật sự của họ. Chẳng có chàng trai nào trong phố xứng với cô và ngược lại. Người ta nghĩ đến cô như một phong cảnh của thành phố, chỉ để ngắm nghía bàn tán từ xa nhưng không ai nghĩ đến lại gần. Ðến năm cô đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa chồng, người ta có vẻ khó chịu nhưng càng cho rằng họ nghĩ đúng - người như cô chỉ để làm kiểng. G ià rồi mà còn làm cao - Ðáng lý ra cô không nên từ chối nếu có đám nào đến hỏi, mặc dù cũng chẳng biết họ đến với cô vì gia sản của cô hay vì cô thật sự!
Ngày ông cụ thân sinh cô mất, gia sản còn lại cũng chỉ có cái nhà. Lòng người hẹp hòi, đố kỵ lại nhỏ nhen, họ mừng thầm trong lòng và càng có lý do để thương hại cô. Cô mà trở thành nghèo túng, có lẽ cô sẽ cởi mở, hòa đồng với mọi người hơn. Ðồng tiền thiếu hụt trong cảnh bần cùng sẽ cho cô những bài học đáng giá.
Nghe tin ông cụ mất, các bà đến chia buồn và phụ giúp việc ma chay, giúp cô đúng như tập tục và tình láng giềng. Cô Emily ra mở cửa, ăn mặc như thường ngày, trên mặt chẳng có gì là buồn rầu của người có tang. Cô nói cha cô đã chết đâu mà phiền đến các người. Cả ba ngày liền cô đều trả lời với họ như thế rồi bảo họ ra về. Ông mục sư và bác sĩ đến an uỉ khuyên cô để cho họ lo việc tống táng dùm. Cô ngã xỉu không còn đủ sức chịu đựng. Mọi người xúm vào chôn cất cha cô một cách vội vàng cho xong. Người ta không cho rằng cô bất bình thường, mắc bệnh tâm thần hay loạn trí. Hoàn cảnh của cô cô độc chẳng còn một ai trên đời, thì phản ứng kháng cự, sợ mất mát điểm tựa tinh thần của cô cũng dễ hiểu không lấy làm lẫ Chỉ tội nghiệp cho cô Emily đơn độc một mình.
Cô ốm mất một thời gian khá lâụ Ít lâu sau gặp lại, cô gầy hẵn đi và mái tóc cắt ngắn trông như mộy đứa trẻ. Cô xanh xao dáng người thờ thẫn. Mùa hè năm đó thành phố có dự án lát lại con đường dọc lối đi ở phố chính. Một nhóm người lạ từ xa về với dụng cụ, nhân công và máy móc. Người trưởng nhóm tên là Homer Baron, một người miền Bắc to lớn, nhanh nhẹn với giọng nói sang sảng và đôi mắt sáng. Lũ trẻ thích chạy theo nghe Homer chửi thề, quát tháo lũ nhân công và kể chuyện vui cười cho mọi người nghe. Chẳng bao lâu anh làm quen hầu hết mọi người nhờ tính tình cởi mở vui vẻ của anh. Homer Baron lôi cuốn nhiều người với giọng nói vang vang thu hút đó của anh. Rồi một hôm người ta thấy cô Emily đi với anh ngoài phố trên chiếc xe hơi cùng đi xem đua ngựa.
Người ta xầm xì rằng người như cô mà cặp bồ với anh chàng nhân công người miền bắc, thật lạ lùng. Chắc cô chỉ cặp chơi cho qua tháng ngày. Các bà cụ già thì cho rằng
người dòng dõi dù sao họ cũng giữ thể giá của họ, đời naò có ý định thật. Tội nghiệp Emily, nghe nói cô còn họ hàng ở tận Alabama, sao chẳng thấy ai ngó ngàng gì đến cô cầ Bây giờ là lúc cô cần có người giúp đỡ nhất sau cơn khủng hoảng tinh thần vừa rồi. Họ hàng cô chẳng thấy ai về hôm đưa đám ma ông cụ.
Cô là đề tài cho những câu chuyện đầu đường cuối phố. Người ta thì thào: "Tội nghiệp cho Emily". Họ rỉ tai nhau, "Bộ chuyện có thật vậy sao ?", "Dĩ nhiên là thật, còn nghi ngờ gì nữẳ". Những lời đồn đại về cô càng nhiều hơn cùng với những buổi chiều chủ nhật thấy cô xuất hiện ngoài phố với Homer Baron thường xuyên hơn. Dường như họ đang khiêu khích tính hiếu kỳ của mọi người. Emily vẫn ngẫng đầu thật cao đi ngoài phố. Cô chẳng nhìn ai, cũng chẳng nói chuyện với người nào như thể họ không liên can, quan hệ gì đến thế giới, đời sống của cô. Vẫn vẻ lạnh lùng xa cách đó, cô đến tiệm thuốc tây hỏi mua thuốc độc.
- Tôi muốn mua thuốc độc. Cô nói với ông dược sĩ chủ tiệm. Trông cô trạc hơn ba mươi, dáng người thon, gầy hơn lúc trước với đôi mắt đen lạnh lẽo, trang điểm ăn bận
tầm thường như một người đàn bà nội trợ.
- Dạ, cô muốn mua loại nào? Cho chuột hay cho con gì? Tôi nghĩ cô chỉ cần dùng loại... Người bán hàng nhanh nhẩu trả lời.
- Loại nào tốt nhất, tôi không cần biết loại nào.
Ông chủ tiệm nói tên vài loại thuốc độc. Loại này độc lắm, có thể giết một con voi được. Nhưng chắc cô chỉ cần loại cho chuột, để tôi lấy loại này cho cô.
- Arsenic, loại này có tốt không ? Cô Emily hỏi.
- Arsenic ? Dạ vâng. Nhưng cô không cần đến loại này đâu. Lũ sâu bọ thì chỉ cần...
- Không. Tôi muốn mua Arsenic. Cô nói như ra lệnh.
Người đàn ông nhìn cô dò xét. Cô nhìn lại ông. Cái nhìn lạnh lùng không biểu lộ một chút tình cảm.
- Thưa vâng, nếu cô muốn. Nhưng luật bắt chúng tôi phải biết mua thuốc dùng để làm việc gì.
Cô nhìn ông ta, cái nhìn thật sắc thẳng vào mặt khiến ông lúng túng quay đi. Ông quay vào trong, một lúc sau sai đứa nhỏ đem ra cho cô gói thuốc. Không thấy ông chủ tiệm trở ra dặn dò gì thêm. Về nhà cô Emily mở gói thuốc, bên trong có hàng chữ "Giết chuột" viết bên dưới cái hình đầu lâu và những khúc xương hình dấu thập xéo.
Người ta cho rằng Emily chắc có ý định tự tử. Từ ngày cô cặp bồ với Homer Baron, người ta nói chắc cô sẽ lấy anh ta làm chồng. Rồi thiên hạ lại bàn là anh chàng đó thật ra cũng tầm thường như những loại đàn ông ngoài quán rượu: loại la cà, lông bông không có ý định xây dựng gia đình thật sự. Chỉ tội nghiệp cho cô Emily vớ phải thứ ấy. Họ nói sau lưng cô vẻ nghi ngờ những lần cô đi ngoài đường với hắn ta, mặt vẫn ngẫng cao, lạnh lùng cách biệt. Anh chàng Homer đi cạnh cô với bộ vía cắt khéo, đôi giầy da láng bóng và điếu xì gà trên môi, trông thật sang trọng, thật vênh váo.
Rồi các bà bắt đầu dè bỉu. Thật là xấu hổ, đàn bà con gái gì mà không giữ gìn gì cả. Ði với trai ngoài đường phố chẳng thèm đếm xỉa tới ai, chỉ tổ làm gương xấu cho lũ trẻ mới lớn. Các ông thì lờ đi không muốn xía vào chuyện của đàn bà con gái. Người ta xôn xao bàn chuyện cô chỉ một ít lâu, rồi lâu dần cũng không buồn để ý. Họ chỉ còn chờ ngày cô tuyên bố lên xe hoa cho xong chuyện. Một hôm thấy cô ra phố vào tiệm Kim hoàn đặt mua một bộ gương lược bằng bạc, khắc chữ H.B. chữ viết tắt tên của Homer Baron trên từng món. Hai hôm sau có người thấy cô mua một bộ complet đàn ông, thêm một bộ pajama mặc ngủ nữa. Họ sắp sửa lấy nhau, mọi người vui mừng bàn tán.
Rồi người ta cũng không ngạc nhiên lắm sau đó khi anh chàng Homer bỏ đi đâu mất. Con đường xây đã xong và nhóm thợ cũng đã giải tán ít lâu nay. Chỉ có điều Homer bỏ đi đâu bất thình lình làm họ thất vọng. Sao lại có vẻ vội vàng không chào ai lấy một câu. Nhưng người ta lại cho rằng chắc anh vội về thu xếp, báo cho gia đình biết trước khi anh trở lại làm đám cưới với Emily.
Ðúng như mọi người dự đoán, ba hôm sau Homer trở lại. Một người hàng xóm thấy lão già Tobe mở cửa sau bếp cho anh vào lúc chạng vạng tối.
Ðó cũng là lần sau cùng người ta thấy Homer Baron. Cô Emily thì họa hiếm lắm mới thấy cô xuất hiện. Chỉ còn lão nô bộc da đen với chiếc giỏ mây xuống chợ mua đồ dùng thường ngày. Ngôi nhà đóng kín cửa im ỉm. Vẻ âm u, lạnh lẻo chùm lấy căn nhà từ đấy. Một đôi lần thấy cô đứng thấp thoáng ở cửa sổ một lúc, rồi đến cả sáu tháng trời không hề thấy cô ló dạng ra ngoài nữa.
Vài năm sau gặp lại cô, Emily giờ đã già hẵn đi. Dáng mập ra và mái tóc đã ngã mau muối tiêu. Trông cô càng cằn cỗi với vẻ lạnh lùng cách biệt. Cánh cửa nhà cô vẫn đóng kín cho đến một ngày cô tuyên bố mở lớp dậy nữ công và sơn vẽ đồ gốm. Cô đã hơn bốn mươi tuổi lúc đó. Một căn phòng ở dưới lầu được dọn làm phòng học. Lũ con gái và cháu của đại tá Sartoris là những học trò đầu tiên của cô. Họ đến học cô với vẻ miễn cưỡng như phải đi nhà thờ những ngày chủ nhật.
Lũ trẻ lớn lên rồi cũng tản mác đi đâu mất. Không còn thấy đám nhỏ đến nhà cô Emily với phẩm màu và cọ vẽ nữa. Cánh cửa nhà cô lại xếp lại như xưa. Khi thành phố có hệ thống bưu chính mới, họ đến nhà cô để đặt hộp thư và số nhà, cô từ chối không cho họ làm.
Từng ngày, từng tháng, từng năm, người ta vẫn thấy lão da đen ra vào ngôi nhà lẳng lặng với chiếc giỏ đi chợ. Lão đã già và đầu cũng đã bạc, lưng đã còng với vẻ im lìm như chủ nhân của lão. Cứ đến tháng mười hai thành phố lại gửi giấy đòi thuế đến nhà cô. Thư bị gửi trả lại nói không có người nhận. Rồi cứ thế ngày tháng dần qua, cô Emily đóng kín đời cô cũng như đóng kín ngôi nhà âm u lạnh lẽo, không còn liên lạc với đời sống bên ngoài, như một kẻ ở thế giới khác.
Và rồi cô chết, thật lẻ loi đơn độc trong ngôi nhà đầy bụi bậm và đầy bóng tối, chỉ duy nhất có lão Tobe da đen lặng lẽ ra vào. Không ai biết cô bị bệnh từ bao lâu trước ngày cô chết. Lão Tobe chẳng bao giờ mở miệng nói chuyện với bất cứ ai. Cũng chẳng ai để ý, dò hỏi chuyện bên trong ngôi nhà từ miệng lão. Cô Emily chết ở trong một gian phòng nhỏ dưới lầu, trên chiếc giường phủ màn đầy bụi. Ðầu cô bạc trắng trên gối cũ rách vàng khè, ẩm mốc không có chút ánh sáng rọi vào.
Lão Tobe ra mở cửa cho các bà vào bên trong. Họ bước khe khẻ và nói thì thào với nhau, mắt đảo nhanh tò mò nhìn mọi vật. Lão già biến mất vào cánh cửa bên trong. Không ai còn trông thấy bóng dáng lão nữa.
Có hai người chị họ của Emily từ đâu về. Họ đứng ra làm đám táng cho cô ngay ngày hôm sau. Cả phố kéo đến nhìn cô trong quan tài với những vòng hoa chung quanh. Khuôn mặt như sáp giống hệt ông cụ thân sinh cô hồi trước. Các ông già đến với vẻ trang nghiêm hơn. Họ mặc quân phục nghiêm chỉnh, nói chuyện, bàn tán về cô như thể cô đã từng là người cùng trang lứa, là bạn thân của họ. Ðối với họ, họ cho rằng quá khứ không như một con đường nhỏ thu hẹp, mà là một cánh đồng mênh mông ở đó không có mùa đông, chỉ bị cách ngăn, giữ lại bởi thời gian đã vùn vụt qua mau. Họ cũng tỏ vẻ như tiếc thương cô lắm vậy.
Người ta cũng vừa khám phá ra có một căn phòng trên lầu đóng kín cửa không ai ra vào từ bao năm nay. Cửa đóng kỹ lắm muốn vào chắc phải phá tung mới mở được. Mọi người đều đợi chôn cất Emily xong xuôi rồi mới phá mở vào. Cánh cửa bật mở tung với bụi tung bay mù mịt. Một mùi tang tóc phủ trùm, như mùi nhà mồ lạnh lẽo. Bụi phủ cùng khắp căn phòng bày biện như phòng tân hôn. Ở trên tường là một bức màn mỏng màu hồng dịu, đèn chụp cũng cùng màu và trên tủ gương là bộ gương lược bằng bạc đã bị mờ sét không trông thấy rõ nét chữ khắc tên trên mỗi món. Giữa đống đồ trang sức đó là chiếc aó sơ-mi và cà-vạt trông như mới có người động đến. Một lớp bụi còn nổi rõ đánh dấu sự di động của món đồ. Bộ complet đàn ông gấp cẩn thận đặt trên ghế, dưới sàn là đôi giầy da và vớ bẩn.
Người đàn ông nằm lù lù ở trên giường.
Mọi người đứng nhìn cái xác khô nằm ở đó trong tư thế như có người ôm vừa buông ra. Cái xác đã được giữ gìn với một tình yêu vượt thời gian. Tình yêu của người đàn bà phản bội hay đã bị phản bội. Người đàn ông nằm đó như được nâng niu giữa những đồ vật dành cho ông ta, khô rữa trong chiếc aó ngủ rộng che ngoài một lớp bụi vàng ố mục nát, im lìm nhẫn nhục.
Bên cạnh còn một chiếc gối khác, có dấu in lõm của một đầu người mới nằm xuống. Có một người tò mò cúi xuống nhặt một vật gì trên gối. Họ xúm vào nhìn chăm chú: một sợi tóc dài bạc trắng.
Phạm Chi Lan
* dịch theo nguyên tác A Rose for Emily của William Faulkner.