vhnt, số 76
5 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - Tình Thư Số Hai, thơ Hồng Phấn
+ 2 - Mặc Niệm, thơ CN và NTP
+ 3 - Về Một Bài Thơ Của Ðổ Trung Quân, tạp bút Phùng Nguyễn
+ 4 - Thơ Nguyễn Trãi, Ng. Phi Khanh / Don Do
+ 5 - Chuyện của Bằng - Phần 2, truyện ngắn Lãng Tử Nhân
Tình Thư Số Hai
Một sáng hôm nao, rất đẹp trời
Dáng em hiền dịu, bước lên ngôi
Buổi ấy, bụi hồng anh trót vướng
Mà nghe, nhung nhớ những đầy vơi
Những lá tình thư gởi đến em
Không xanh màu mực lúc chưa quen
Nâng niu, em nói: thơ màu phấn
Âu yếm, anh cười: như mạch tim
Còn nhớ hôm nào gọi đến em
Loáng thoáng nghe lầm giọng ai quen
Ngây thơ em gọi tên người khác
Anh buồn chẳng muốn nói thật tên
Hồng Phấn
Mặc Niệm
Người đi xây mộng công hầu
nỗi buồn bút gẫy, nghiên sầu em mang
tình ra mực thấm dịu dàng
mà sao loang lỗ đời hoang phế nầy.
CN
Thơ-phòng tơ nhện chăng dây
Ðìu-hiu cô-quạnh từ ngày quan-sang
Tiếng thoi đưa vẫn nhịp-nhàng
Sao nghe tịch-mịch vắng chàng ngâm-nga
NTP
Commentary:
Anh chàng chắc còn trẻ nên chưa hiểu chữ tri-túc há, răng mới bỏ đi rứa...
Công-hầu khanh-tướng làm gì?
Ðời không tri-kỷ, lắm khi bẽ-bàng
Mũ cao, áo rộng thênh-thang
Ấm sao bằng aó của nàng đan anh
Minh-châu dẫu ngọc liên-thành
Ngàn vàng khôn đổi tình anh với mình
Có nhau lúc nhục, lúc vinh
Ấy chân hạnh-phúc, đương sinh cõi trời
NTP
03Oct95
Về Một Bài Thơ Của Ðỗ Trung Quân
tặng BV ở một nơi gọi là Mặt Trời
Trong số bốn người đang ngồi ở cái bàn nhỏ thì hết ba người là dân HO. Cả ba đều mới đến Mỹ trong vòng một năm. Trên bàn lỏng chỏng mấy lon bia khui dở, mấy đĩa thức ăn, và mấy bịch "chip." Trước đó, câu chuyện xoay quanh vấn đề ăn ở, học hành của đám con cái, xe cộ, bảo hiểm, trợ cấp.., những việc tầm thường mà vô cùng quan trọng đối với mấy tay sồn sồn vừa chân ướt chân ráo đến cái xứ sở rộng lớn và giàu có này. Rồi người chủ nhà vào phòng lấy ra cây đàn guitar cũ xì đưa cho Huân. Huân không phải là HO, anh đến Mỹ đã khá lâu. Nhân có công việc ở Nam Cali, anh ghé Santa Ana thăm người bạn nối khố của mình, tên HO chủ nhà vừa đến Mỹ khoảng sáu tháng nay.
Căn bếp nhỏ xíu bỗng dưng xôn xao hẳn lên. Lẫn trong tiếng lục huyền cầm là những bài hát một thời Huân ưa thích. "Mờ trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng..." rồi "Nơi phía Nam, giữa núi mơ.." rồi "Chiều hành quân qua những đồi sim..." Những bài hát đưa Huân về một giai đoạn của quá khứ anh không muốn nhắc nhở. Rồi một người trong bọn bỗng dưng cất tiếng ngâm thơ. Tiếng vổ tay đồng loạt nổi lên khi anh ngâm đến những lời cuối của bài "Tây Tiến" của Trần Quang Dũng. "Ai đi Tây Tiến mùa Xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi..." Cứ như một lời trăn trối.
Huân đề nghị ông bạn mới quen ngâm tiếp một bài thơ nữa, "Bài nào mà anh thích nhất," Huân nói. "Bài Học Ðầu Cho Con, " ông bạn trả lời, chắc như đinh đóng cột.
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo bảo phải yêu
Quê hương là gì hở mề
Ði xa ai cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Trẻ thơ con thả ngoài đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè
Quê hương là vòng tay ấm
Con về ngủ với mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Quê hương là vàng hoa lá
Là hồng tím dậu mồng tơi
Là đỏ đôi hàng dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
(Bài Học Ðầu Cho Con - thơ Ðỗ Trung Quân)
Huân ngồi đó, trông ngu ngốc, xấu xí với những giọt nước mắt lăn dài trên má. Vậy mà chẳng có ai cười anh. Một niềm hạnh phúc xót xa chợt đến, tràn ngập tâm hồn Huân. Ðã lâu lắm rồi mới có người kể cho anh nghe về cái quê hương ngàn trùng một cách dịu dàng như vậy. Và cũng đã lâu lắm rồi anh mới có dịp biểu lộ xúc động của mình một cách tự do như vậy. Huân biết mình không còn trẻ nữa. Vào một ngày cuối tháng Tư cách đây hai mươi năm, anh, người lính tròn hai mươi lăm tuổi, lặng lẽ chứng kiến sự kết thúc của một cuộc chiến tàn khốc mà anh đã dự phần và đã gởi lại ở đó một phần xương da máu thịt của mình. Rồi một thập niên trong đọa dày, trong vô vọng, trong hỗn mang của của thời cuộc, anh ngồi nhìn thời gian đẩy mình trôi tuột đi xuống con dốc đời
tăm tối. Ở ngay trong lòng quê hương, mà sao thấy vô cùng xa lẫ Huân ngơ ngác hỏi mình, "Có phải quê hương, có phải tổ quốc của ta không?" - cũng như nhà văn trẻ Trần Vũ có lần cay đắng "Yêu làm sao được tổ quốc của kẻ khác!" (Tùy Bút Xám - Trần Vũ).
Rồi lại một thập niên trôi qua, nơi xứ người. Những bức thúc của đời sống trong một xã hội thực dụng làm nhạt nhòa đi những kỷ niệm về cái đất nước ỏ bên kia Thái Bình Dương. Cũng có đôi lần Huân tự hứa hẹn sẽ về lại một lần. Còn gia đình, còn bè bạn. Còn những nơi chốn đã từng có một chỗ đứng trong trái tim anh. Nhưng lời hứa chưa từng là một ước nguyện. Cho đến hôm nay. Bởi vì "quê hương mỗi người chỉ một" nên
Nếu chỉ được một lần để gọi
Giữa quê người xin gọi lớn Việt Nam!
(Nếu - thơ Trần Trung Ðạo).
Phùng Nguyễn
10.95
Hai bài thơ sau đây không biết tựa đề là gì; tôi nghe người cô ruột đã gần 80 tuổi đọc lại theo trí nhớ. Bài thơ này cùng với nhũng bài thơ khác như Chiêu Hồn Nước, được phổ biến rộng rãi trong giới sĩ phu Viêt Nam vào đầu thế kỷ lúc phong trào aí quốc đã dâng cao, điển hình như Nguyễn Thái Học, Sào Nam Phan Bội Châu. Nghe nhũng vị lớn tuổi kể lại những gian nan nguy hiểm của những kẻ đã hy sinh, những ác độc của quân Pháp, Nhật, và đọc lại nhũng giòng thơ sau thấy bùi ngùi. Tôi chép lại để các bạn hữu đọc và nếu có biết thì sủa vì chỉ ghi lại từ trí nhớ và không biết ai viết và đã có in lại ở đâu chưa vì tôi chưa từng gặp ở một quyển sách nào. Nếu bạn nào tìm ra xin cho biết và cám ơn trước.
Đỗ Danh Đôn sưu tầm
Bối cảnh bài thơ này là lúc Nguyễn Trãi đưa cha là Nguyễn Phi Khanh bị đi đầy ở bên Tầu, phải biệt ly ở ải Nam Quan.
Lời Nguyễn Phi Khanh nói với Nguyễn Trải:
Cửa Nam Quan cha con ly biệt
Gạt lệ sầu thảm thiết mấy lời
Đến đây đường xá xa xôi
Cha con ta hãy tạm ngồi nghỉ chân
Con hỡi con con đừng khóc lóc
Thói nữ nhi con học sao đang
Khóc mà chết lũ tham tàn
Khóc mà đem lại giang san nước nhà
Khóc như thế mới là nên khóc
con hãy nghe tơ tóc lời cha
Con ơi trong nỗi nước nhà
Trông vào đau ruột nói ra nghẹn lời
Vua thì cứ vui nơi cấm địa
Chẳng nghĩ gì đến chuyện thương dân
Đất đai bỏ mất dần dần
Năm châu mé Bắc đem quân về Tầu
Quan thì cứ như sâu như mọt
Chỉ ngày ngày đục mọt mãi dân
Làm cho hao tổn cùng bần
Mặc thây nòi giống giữ phần vinh hoa
Dân còn có lo xa chi nữa
Chỉ cơm rau lần lữa qua thì
Mặc đời suy thịnh an nguy
Thương chi đến nước nghĩ gì đến dân
Họa vong quốc lần lần từ đó
Quân Chu Minh mới tỏ đường sang
Một phen sung đột phũ phàng
Mây che thành quách khói tàn giang san
Giống Hồng Lạc sảnh đàn tan nghé
Ngưu cẩu kia sâu sé mặc dầu
Giết người lấy của thiếu đâu
Vua quan vất vả thuế sưu nặng nề
Kẻ tai mắt cam bề tôi tớ
Cõng rắn về để vớ gà nhà
Mưu cầu hai chữ vinh hoa
Còn như hai chữ nước nhà thờ ơ
Cha thương nước lòng tơ bối rối
Luồn cúi người học thói không quen
Nên người đem bụng ghét ghen
Bắt cha năy phải qua miền Bắc Kinh
Đường nghìn dặm gập ghềnh len lỏi
Tấm thân già càng nói càng thương
Con kìa non nước Nam phương
Non Nùng khói uất sông Thương mạch sầu
Con trông đó có đau không nhỉ
Con hỡi con con nghĩ làm sao
Nước non ta tự đời nào
Giống Hồng chung một máu đào với nhau
Con phải giữ trước sau cho trọn
Bắt chước gì nhũng bọn chi chi
Đem thân vào lặy ra qùi
Cân Đai áo mão ra gì mày râu
Thân nô lệ thân trâu thân ngựa
Có vinh gì mà cứ khuênh khoang
Con nên lấy đấy làm gương
Mà đem tâm huyết mà thương nước nhà
Dù nguy hiểm sông pha chớ ngại
Chí tang bồng mới phải là trai
Phải nên gắng sức đua tài
Đường văn lối võ dùi mài cho tinh
Con kìa trông chốn non xanh nước biếc
Thiếu chi người hào kiệt tài năng
Rủ nhau thề một tiếng rằng
Thành sau quyết phá cho bằng mới thôi
Được như thế ăn ngồi mới thoả
Nước non nhà chung chạ hôm mai
Còn non còn nước còn dài
Còn trời còn đất còn nòi giống ta
Cha nay đã tuổi già bóng hạc
Con hỡi con đương trạc thanh niên
Khuyên con lập chí cho bền
Trả xong thù nước là đền ơn cha
Cha dù có non xa nước thẳm
Chút tàn hồn khỏi ngậm ngùi oan
Con ơi gánh lấy giang san...
oOo
đây là lời Nguyễn Trãi thưa lại với cha:
Chốn lữ thứ lời cha vừa ngỏ
Con thoạt nghe châu rỏ hai hàng
Cúi đầu lạy trước sân đàng
Lời ngu kể lể lòng vàng sét son
Con từ lúc theo đòi đèn sách
Lời cha truyền cha vạch con ghi
Chữ sỉ là chữ chi chi
Sỉ thì phải nhục, nhục thì tính sao?
Lời giáo huấn tự bao đời đó
Đến bây giờ mới rõ lượng trên
Lạy cha con dẫu ngu hèn
Cũng vâng dạ bảo để đền cao sâu
Sót vận nước bể dâu gặp buổi
Quân Chu Minh dở thói tham tàn
Rồng Tiên tôi tớ một đoàn
Cỏ cây non nước lầm than hội này
Nôĩ sỉ nhục lấp đầy nhị thủy
Mối oán thù tựa dãy Hoành Sơn
Ngậm ngùi đất khóc trời than
Anh hùng đứng giữa tím gan bất bằng
Ấy ngày trước Bạch -Dằng con tới
Thấy cảnh mầu như gợi lòng đau
Tần ngần đứng lại giờ lâu
Cảm hoài con có đề câu thơ rằng
Giang san hiểm toán bằng thiên thiết (1)
Hào kiệt công danh thử (phả) địa tằng
Lạy cha con dám quyết rằng
Hồng Bàng còn giống Bạch Đằng còn gương
Xin hết sức đảm đương chèo chống
Vì non sông của giống nòi ta
Bao nhiêu nợ nước thù nhà
Lâng lâng rửa sạch mới là cam tâm
Xin cha bớt lòng căm dạ thảm
Phân làm con đâu dám sai lời
Cha nay yên hưởng tuổi trời
Ngẫm mà xem cái cuộc đời ra sao
Cha nay đã phải vào Kinh Bắc
Mối sầu này rằng rặc khôn tan
Giang san ới hỡi giang san
Vì ai gây dựng nên cơn cớ này...
Nguyễn Phi Khanh mất trong khi bị đầy ải ở bên Tầụ Nguyễn Trãi ỏ lại giúp Lê Lợi thống nhất được nước Nam.
Theo mấy người lớn tuổi kể lại, trong khi đi tìm minh quân, Nguyễn Trãi có đến gặp Lê Lợi ỏ ngoài của ghé nhìn vào thấy Lê Lợi đang chặt thịt và bốc ăn một mình, ông hơi chán nản bỏ đị Có lẽ không tìm được ai, ông quay lại phục vụ cho Lê Lợi đánh đuổi được ngoại xâm.
Truyền thuyếc còn kể Nguyễn Trãi dùng một mẹo để động viên dân chúng bằng cách sai lính dùng mỡ viết vào lá cây chữ "Lê Lợi Vi Quân, Nguyễn Trãi Vi Thần". Kiến rừng ăn vào lá cây lộ ra ma).t chữ, dân xem đấy rất tin tưởng và nức lòng tham dự trong công cuộc giải thoát nước nhà ra cảnh ngoại xâm.
Anh Dương Hùng và các bạc có nhắc đến Nguyễn Trãi và Thị Lộ và tại sao Nguyễn Trãi bị chết thảm. Cô tôi có kể lại là sau này ông bị mất chức trở về dạy học. Một hôm nằm ngủ thấy một người đàn bà có mang vào lạy khóc và năn nỉ xin tha tội chết. Giật mình tỉnh dạy ra vườn thấy đám học trò đang chặt cây để làm thêm phòng học và thấy một con rắn. Đám học trò đuổi theo để giết, nhớ lại giấc mơ, Nguyễn Trãi cản nhưng không kịp, con rằn bị chặt mất đuôi. Trở lại phóng ngồi đọc sách một lúc ngẩng đầu nhìn lên trần, Nguyễn Trãi thấy con rằn đó và những giọt màu nhỏ xuống trang sách. Lau không kịp, ông nhìn lại và màu đã thấm qua ba trang giấy. Ông lạnh người vì đó là điềm không may. Quả nhiên sau này ông bị tru di tam tộc.
1. Hai câu thơ này bằng chữ Nôm, bạn nào hiểu xin giải thích.
Chuyện Của Bằng
(phần 2)
Chiều hôm ấy Bằng đến nhà bác thật là vui. Sau khi chơi cúp bắt đến mệt lả với mấy anh, Bằng thiếp đi lúc nào không rõ trên chiếc đi văng mát rượi. Tối hôm ấy Bằng thức dậy khi nghe có tiếng người ngỏ cửa. Một người thanh niên đến dẫn Bằng và hai chị đến một căn nhà khác. Bằng không biết nhà này cách nhà bác bao xa nhưng Bằng nghĩ
chắc xa lắm, vì ba chị em phải đi rất lâu và qua rất nhiều chuyến xích lô. Ðã nhiều lần Bằng muốn mở miệng hỏi nhưng hai chị ra dấu im lặng nên Bằng đành thôi. Ðến căn nhà nọ thì trời đã gần sáng, ba chị em phải ở căn nhà xa lạ cho đến trời tối, người thanh niên lại tiếp tục dẫn ba chị em đi. Bằng không hiểu chuyện gì xảy ra nhưng linh cảm cho
Bằng biết là ba chị em đang trên đường nguy hiểm bởi vì họ toàn tiếp tục cuộc hành trình trong bóng đêm. Có lẽ họ đang theo người thanh niên tìm đường vượt biên ra khỏi nước vì Bằng biết có mấy người bạn cùng lớp tự nhiên bỏ học mà các bạn khác cho là họ đã vượt biên tìm đường tự do. Những ý nghĩ đó làm Bằng lo sợ và bực tức. Bằng sợ vì có nhiều người vượt biên bị bắt bỏ tù, có người chết đắm! Còn Bằng uất ức vì mẹ và hai chị đã dấu không cho Bằng biết trước. Như thế Bằng không được ôm mẹ lần cuối ra đi mà không biết có ngày nào trở lại. Bằng muốn quay lại không đi nữa nhưng cái nhìn sắc bén của người thanh niên làm Bằng chùn bước, vả lại ngay cả hai chị của Bằng cũng không biết họ đang ở đâu.
Ba chị em được đưa đến một bến đò và lên một chiếc đò nhỏ, đi thật lâu trên một con sông (có lẽ là sông rất gần đầm Láng.) Sau đó họ được chuyển lên một chiếc ghe màu xám không lớn lắm. Chiếc ghe rất thấp chở nhiều người trên đó tưởng chừng mạng ghe gầm ngập cả nước sông vào. Một thời gian sau, Bằng nghe những tiếng cãi nhau xôn xao (hình như họ cãi nhau về tiền bạc, giá cả và số người đưa đi hơn dự định) và chiếc ghe quay ngược đầu lại, chúi vào bờ và bỏ mọi người trên ghe xuống bờ sông đầy bùn sình. Nhiều người sợ quá la khóc ầm lên, nhiều người to tiếng chưởi lên inh ỏi. Bằng và hai chị đứng trên nửa thước bùn vừa lạnh vừa sợ đến rung lên cầm cập.
Ðộ nửa tiếng sau, có một chiếc ghe nhỏ tấp vào đón người, ba chị em cũng trèo lên, chiếc ghe chạy chừng 15 phút lại nhập với một chiếc ghe khác lớn hơn. Chiếc này dài và cao hẳn mặt nước, có lẽ là ghe rẽ được sóng biển, chứ không phải ghe sông. Lại cãi nhau inh ỏi một phen. Có mấy thanh niên, có lẽ là trong ban tổ chức, hỏi ai có vàng bạc gì đưa ra hết để trả cho mấy tài công chuyển người để được đưa ra thuyền lớn. Bằng nghĩ chắc lại có người ăn "hôi " nhét thêm người vào chuyến đi. Sau một lúc lâu họ đuổi hành khách trên ghe lớn dồn vào chiếc nghe nhỏ ban đầu. Chiếc nghe nhỏ đã chở đầy người dưới cabin bây giờ cộng thêm hành khách ngồi phía trên chạy dài từ trước mũi cho đến đằng sau ghe. Hai chị của Bằng chiếm được một khoảng trống đằng mũi ghe bảo Bằng nhảy sang. Bằng khó khăn lắm mới nhảy sang được chính giữ mui ghe. Người đứng, kẻ ngồi chen chúch nhau hỗn độn làm Bằng muốn ngạt cả hơi thở. Vừa mệt vì 2 đêm không được ngủ, vừa giận hai chị không cho Bằng biết trước chuyến đi để giã từ mẹ lần cuối, Bằng ngồi lì trên nóc ghe không chen ra phía trước mũi. Họ tiếp tục chuyển người trên ghe lớn xuống chiếc nhỏ đã đầy nhóc người... Chiếc ghe bắt đầu chao động, nghiên qua ngửa lại. Họ đưa một chị (khá "to ") lên ghe. Sức nặng của chị ấy làm chiếc ghe nghiên qua quá nhiều, nước tuôn vào ghe và chìm ngay tại chỗ. Bằng đứng trên mui ghe rất gần chiếc ghe lớn, như một bản năng sinh tồn của con người Bằng nhảy nhanh vội qua chiếc ghe lớn...
Những tiếng "THÉT" hãi hùng vang lên khắp mặt nước! Tiếng người trên ghe kêu réo thân nhân trên chiếc ghe bị đắm. Tiếng cầu cứu những người trên chiếc ghe đang chìm nhỏ dần theo tiếng sóng nước và màng đêm dầy đặt. Bằng cúi xuống, vói nhìn theo biển đen tìm chiếc ghe bị đắm, gào thét gọi tên hai chị. Nước mắt và tiếng kêu gào của
Bằng chìm theo sóng gió. Bằng thét gọi cho đến khi không cònnghe được tiếng của chính mình, cổ Bằng khô rát, mắt Bằng nhòa lên vì lệ và sóng nước... Những người cứu vớtđã trở lên ghe. Chiếc ghe chìm quá nhanh làm nước xoáy mạnh và vì quá tối nên không thấy rõ để cứu tất cả. Tất cả những người ngồi dưới cabin thật tội nghiệp đã chìm sâu vào lòng nước với chiếc ghe. Tuy Bằng và hai chị ở vùng biển nhưng không biết bơi nhưng nghe nói biết bơi cũng vô dụng vì nước xoáy quá mạnh, có vài người bơi thật giỏi cũng bị nước cuốn đi...
Bây giờ, Bằng không còn người thân nào ngoài người anh họ đã lên thuyền trước một ngày để phụ mấy ông tài công. Lúc trước Bằng nghe mấy bạn cùng lớp đã vượt biên và
gởi thơ về cho biết cuộc sống tự do và tiến bộ khoa học ở nước ngoài, Bằng mong có một ngày nào đó có cơ hội như các bạn. Cơ hội đó Bằng đang có nhưng Bằng không muốn nữa, Bằng muốn mẹ Bằng, muốn hai chị của Bằng. Bằng sợ vô cùng sự mất mát lần hồi những người thân yêu của mình. Nhưng Bằng không biết làm gì khác hơn là trôi theo định mệnh. Lênh đênh trên biển hơn một ngày, có lẽ đã ra hải phận quốc tế, họ thấy vài chiếc tàu hàng ngoại quốc. Ai cũng vui mừng vẫy gọi nhưng tất cả tránh đi mặc cho chiếc thuyền khốn khổ lưu vong.
Ðến trưa ngày thứ hai, có một chiếc thuyền đánh cá rượt theo và bắn đuổi. Tất cả người trên thuyền của Bằng sợ đến phát khóc, ai cũng chắp tay khấn nguyện đấng thiêng liên mà họ tôn kính. Thật là một cái phúc sau bao lần hiểm họa, chiếc thuyền hải tặc bỏ cuộc sau một thời gian rượt đuổi... Lương thực và nước uống của họ đã gần cạn. Họ lại thấy một chiếc tàu buôn ngoại quốc. Mọi người nhốn nháo vui mừng như người sắp chết duối vớ được chiếc phao, có người cởi áo trắng làm cờ vẫy gọi, có người đốt đuốc làm tín hiệu. Chiếc tàu dầu ngừng lại cho lương thực, nước uống và dầu rồi họ lại bỏ đi. Ðêm đó, tàu của Bằng thấy một dàn khoang dầu với mấy ống khói cao phun đầy khói lửa. Mấy người tài công bàn thảo có nên cặp đến hay không nhưng cuối cùng họ quyết định tiếp tục đi vì những làn sóng to đập mạnh vào mấy gốc bê tông sắt, nước tung cao trắng xóa, làm người tài công ngần ngại lo sợ chiếc ghe vỡ tung trước khi an toàn neo vào chân dàn khoang.
Sáng ngày thứ ba, thuyền đến hải phận Singapore. Gặp tàu hải quân của Singapore ai cũng hân hoan tưởng đã kết thúc cuộc hải trình nguy hiểm. Sau một thời gian bàn thảo la lối, tàu hải quân Singapore kéo đuổi ra khỏi cửa biển thật là bi đát. Một thất vọng vô cùng não nề đè nặng trên mỗi khuôn mặt của những người vong quốc... Chiếc thuyền tiếp tục cuộc hành trình trong phương hướng mơ hồ, mờ ảo. Ðến chiều hôm đó họ thấy được một hòn đảo xa xa. Theo mấy ông tài công thì đây có thể là gần mấy quần đảo Coo Coo của Mã Lai. Chiếc thuyền ghé vào, mọi người nhảy xuống lội vào bờ. Mấy người cảnh sát Mã Lai dùng súng hăm dọa, bắt rời khỏi đảo. Ðã mấy ngày lênh đênh trên biển cả với bao sóng gió nguy hiểm, giờ đây được đặt chân lên mặt đất, không ai muốn xuống thuyền nữa. Nên tất cả nhắm mắt làm lì với đám cảnh sát Mã Lai. Sợ họ đổi ý nên mấy người tổ chức và tài công bàn tính phá thuyền để tránh bị bắt buộc rời đảo.
Sau 2 ngày. họ được ghe chở qua đảo Paula Tanga để làm thủ tục tị nạn. Tuy Bằng ở đảo chỉ có hai mươi mốt ngày nhưng đó là những ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời Bằng. Nơi đây mỗi buổi sáng Bằng ra đứng trước cái cầu xem mấy chiếc ghe cặp bến, đón nhận những người tị nạn mới đến với hy vọng sẽ có gia đình của mình trong đô Nhưng sự đợi mong chỉ là hoài vọng, hai chị của Bằng đã đi một nơi rất xa... mà có lẽ họ sẽ gặp được ba của Bằng! Trong những ngày ở đảo Bằng mới nhận biết được, thấy được những cái giá quá đắc cho hai chữ "Tự Do "mà bao người phải trả:
Tự do ai trả bao thế hệ?
Quê hương sao mải vẫn u mê!
Mầm xanh sao nỡ chôn đất lạnh
Máu hồng ai rưới thấm biển xanh.
*
Thắm thoát mà đã hơn 10 năm. Mười năm mà Bằng hằng mong đợi từng ngày được gặp lại người mẹ hiền yêu dấu. Mười năm Bằng đã sống khô cằng thiếu tình thương gia đình như cây xanh thiếu nước. Hôm nay, cây khô đã được tắm mát, sự mong chờ mòn mỏi đã đến, giấc mơ của Bằng sắp thành sự thật. Bằng quẹt nước mắt mĩm cười cho hạnh phúc mình sắp có.
Lãng Tử Nhân
(thân tặng người bạn cùng quê, Bùi Huy Bằng)