vhnt, số 181
3 May 1996
Trong số này:
thư vhnt.......................................Phan Lê Dũng (guest editor)
T h ơ :
1 - Tuồng tích .....................................................Chinh
2 - Cuối ngày, và tranh của C. ..............Nguyễn Phước Nguyên
3 - Giọt sầu ................................................Chung Trần
4 - Em bé Việt Nam ......................................Christina Trần
5 - Quê hương .......................................Trần Viễn Khách
6 - Elegy to an unwept soldier .........................Nguyễn Quốc Vinh
7 - Tôi không chọn chiến tranh............................Phạm Chi Lan
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Dẫn đến Barbara .................................Phạm Thế Ðịnh
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Gã thợ vẽ ............................................Phan Lê Dũng
10- Nói thầm với đá ......................................Lệ Hằng
Tất cả những gì thực sự hiện hữu đều để lại ấn tượng. Một bản nhạc hay, một câu chuyện sâu sắc, một bức họa, một câu thơ hoặc một sự tiếp xúc "khó quên" trong một khung cảnh nào đó.
Ấn tượng của Văn Cao là về một cõi thiên thai không còn hiện hữu. Ấn tượng của Van Gogh là về nỗi khổ đau bất tận của con người. Ấn tượng của Dostoevsky là về những ray rứt của đời sống và tội phạm. Ấn tượng của Nguyễn Du là sự thăng trầm dâu bể của số phận con người.
Khi những ấn tượng đó được phổ vào các tác phẩm, thì "phần hình" đã rút lui để nhường lại chỗ cho "phần hồn": Các tác phẩm đó trở thành nghệ thuật.
Tháng năm nguyên là một tháng của ưu tư, của ray rứt, phiền muộn. Ðối với người dân Việt Nam viễn xứ, "tháng tư" là một tháng của ấn tượng và tháng năm chỉ vừa đủ xa cho những ấn tượng bắt đầu tạo hình rõ rệt. Tháng năm là một bước ngoặt mà từ đó cả hai ấn tượng cùng lúc hiện hình: Một cái gì sắp qua và một cái gì sắp đến. Cả "cái qua" lẫn "cái đến" đó đều nằm ngoài tầm xoay chuyển.
Tháng năm ở Hoa Thịnh Ðốn chỉ có những cơn mưa bất chợt bên cạnh những cánh hoa rạng rỡ một cách khó hiểu. Khung cảnh ở những nơi khác có thể khác nhưng những ưu tư, ray rứt có lẽ khó thể khác.
Phải chăng chẳng phải vì một sự ngẫu nhiên mà trong số Văn Học Nghệ thuật kỳ này tất cả những bài viết đều mang ít nhiều sự thố lộ về một ấn tượng đã qua hoặc chưa thành hình?
Phan Lê Dũng
Tuồng Tích
(của chị Lan - bài thơ vội, minh họa cho một "Tranh Ấn Tượng" chưa thành hình)
Thời gian
làm tổ
trên mái tóc em,
Rơi xuống bên cửa sổ
Mùa Thu.
Chiếc đồng hồ giáo đường
rũ rượi.
Tóc em ngày mưa ướt.
Không ngày-tháng-năm.
Bài thơ trắng.
Thành phố
cùng em
qua một mùa
Tuồng tích hư không.
Rơi xuống bên cửa sổ
Ðôi mắt khuyết.
Chinh
cuối ngày. và tranh của C.
chiều.
chiếc ghế đá bỏ hoang trên ngọn đồi kỷ niệm. ngồi nhìn xuống cuộc đời nhỏ bé dưới kia, dưới vòm trời mây đen che kín những phần đời không phân biệt.
suối khe hay biển rộng.
tôi không biết.
đêm đen hay mây đen.
tôi cũng không biết.
những hạt nước rơi vào hồn -
giọt sương hạnh phúc?
hạt mưa khổ đau?
tôi cũng không biết.
(hắn hát: Ðôi khi thấy trên lá khô một giòng sông... *)
tôi muốn nói bằng thơ
nỗi buồn lịch lãm.
em - tôi - tình têu.
Tam Vị.
cái chết.
Nhất Thể.
EM! (tôi thét to)
TÔI MUỐN TIN CÁI CHẾT CÓ LINH HỒN !!!!!
(hắn lại hát: Chúa đã bỏ loài người
Phật đã bỏ loài người
này em, em cứ phụ người...*)
đêm.
niềm riêng tan tác.
chiếc đồng hồ mặt người khuất chìm nét thời gian lộng lẫy, tôi tìm hoài trong đôi mắt sâu khoảng thiên đường huy hoàng bóng tối -
EM!
hình dung ra buổi chiều cỏ vàng màu nắng úa nhỏ giọt lên cánh đồng xanh thơ ấu, những ánh mắt nhìn nhau trước khi quay đi, những ánh mắt của niềm đau hoan biệt, những ánh mắt mù lòa căn phần rối loạn, diễm ảo.
chốn tịnh.
ký ức xám.
cành cây niên thiếu đôi hoàng quyên làm tổ ngày xưa đã già và khô cằn, những sắc gai nhọn mọc dài trên tâm tưởng.
con chim lao mình vào -
lời độc thoại sau cùng,
không còn là tiếng hót.
máu đỏ ứa đượm cát vàng.
(hắn lại hát: trên giọt máu cuồng điên,
con chim đứng lặng câm...*)
tôi nhìn đóa hoa tươi màu huyết. nhìn ra tôi.
không.
phải.
có linh hồn.
nhưng em ơi, nếu mỗi thể xác chúng ta có một linh hồn, thì tại sao mỗi linh hồn chúng ta lại không có cho chính nó một thể xác hồn nhiên mạch sống. để tôi thương em, ghét em, nhớ em, quên em bằng tinh vi của từng tế bào mình căng thẳng. để tôi yêu em bằng những hơi thở đầu đời của đứa trẻ sơ sinh không bao giờ biết lớn. để thể-xác- của-linh-hồn-tôi hôn lên thể-xác-của-linh-hồn-em bằng đôi môi chưa hề quen tiếng khóc.
em có biết?
bây giờ là khoảng giữa của đêm-chưa-qua và ngày-chưa-tới.
hắn vẫn hát (nhưng tôi không còn nghe hắn hát).
thơ sẽ nói về tôi
lịch lãm nỗi buồn
bình minh.
nguyễn phước nguyên
giọt sầu...
nầy em có phải đôi lần
dừng chân bên phố bâng khuâng chợt buồn
tơ trời vài giọt sầu buông
trăm năm giọt nhớ khơi nguồn trong tôi
nầy là mắt, nầy là môi
một lần trao gởi rồi thôi dặm dài
trong mơ nếu có kề vai
dẫu buồn tôi cũng cười hoài vì em!
Chung Trần
Em Bé Việt Nam Ở Trại Whitehead
có những ánh mắt làm tôi nhớ mãi
nhìn thấy một lần đau xót đến thiên thu
Ánh mắt em thơ
khao khát
đợi chờ
được một lần tung tăng chạy nhảy
ngoài vòng rào kẽm gai của trại
Ánh mắt em
xa xăm
mãi nhớ về một cõi
có mẹ có cha
có anh có chị
chăm sóc yêu em
chung một mái nhà
Ðôi mắt nâu bé bỏng
u uất
rụt rè
vương đầy bóng tối
có lẽ
em vẫn thấy hằng đêm
biển đen ngòm thăm thẳm
đầy xác người bập bềnh theo sóng
biển hung tàn sâu rộng
cướp mất của em cả những người thân
Này em nhỏ
nhận lấy quà em nhé
cố mỉm miệng cười dù rất nhẹ đi em
để ánh mắt em
có một lần ngời lên rạng rỡ
tiếng cười em nghe nhã nhạc trời cao
dù mai này không biết sẽ ra sao
em bơ vơ hay lưu lạc phương nào.
Những em bé Việt Nam tị nạn
hành trang vào đời với thật nhiều mất mát!
tn
Quê Hương
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Quê Hương của Giang Nam
Quê hương là gì nhỉ
Là những đêm lửa trại
Là những ngày vui ca
Có bạn bè thày cô
Cùng sách vở học trò
Có sân trường nghịch ngợm
Thêm mối tình mới chớm
Mười tám tuổi anh đi
Bạn bè anh bỏ lại
Người yêu anh chưa có
Mẹ già anh chưa lo
Mười tám tuổi anh đi
Làm chiến sĩ vô danh
Trên những vùng giới tuyến
Trên điạ đầu xa xăm
Quê hương là gì nhỉ
Bom đạn rải tơi bời
Cho đất trời đổ nát
Cho thịt xé da xôi
Hai mươi tuổi anh già
Câu yêu chưa từng nói
Mà mắt quyện hơi sương
Những đêm ngày chết chóc
Hai mươi tuổi anh già
Vẫn chiến sĩ vô danh
Trên địa đầu giới tuyến
đếm ngón tay anh sống
Hai mươi tuổi anh già
Làm con bao nhiêu mẹ
Nghĩa phụ dăm đứa con
Phúng điếu vài cô phụ
Quê hương là gì nhỉ
Lốc xoáy nào cuồng quay
Chữ nghĩa nào cứu độ
Sống sót nào vận may
Thêm ba tuổi anh về
Trở thành kẻ thù dân
Học tập anh phải trả
Nợ máu anh phải vay
Thêm ba tuổi anh về
Tuổi trẻ anh đã xa
Anh không hề hay biết
Như kẻ hồn đi lạc
Quê hương là gì nhỉ
Là giai cấp đấu tranh
Là địa chủ công nông
Là nợ máu nhân dân
Quê hương là gì nhỉ
Kẻ bần cùng xơ xác
Người chết dọc bờ biển
Kẻ chết chìm trong sóng
Năm tuổi nữa qua đi
Anh vẫn tù cải tạo
Vẫn lao động vinh quang
Vẫn viết bài kiểm thảo
Năm tuổi nữa qua đi
Anh miệt mài trả nợ
iếp này và kiếp trước
Và trả luôn kiếp sau
Ba muơi tuổi anh mơ
Trở về bên trường cũ
Nhớ laị bóng thày cô
Nhớ lại dáng bạn bè
Ba muơi tuổi anh mơ
Giả vờ tình mới chớm
Ðã trở nên nở hoa
Cho anh làm nhạc thơ
Một ngày nọ anh đi
Không còn ai nhớ tuổi
Về vùng sương khói trắng
Có gạch nối vô linh
Một ngày nọ anh đi
Vào quê hương gần gũi
Có giấc mơ vỡ vụn
Như mảnh đất chôn anh
Kính tặng những người anh
Trần Viễn Khách
(29/4/96)
Elegy To An Unwept Soldier
You, like many heroes,
Have given up your life
To the call of the country.
But there are no laurels
For you, the unwept soldier,
In a struggle without glory.
All is lost
for nothing.
And so you lie here,
A disgrace,
Your sacrifice unsung.
The children,
Sheltered in schools
When you collapsed in battle,
Have never known of you.
They, like merry birds,
Sing, but not for you.
They offer you no flower,
They give you no hymn of praise,
They, who will one day
Join you in oblivion.
You have been but a shadow
Of a life too short,
Of a spring that never came.
And your story swirls
Like withered leaves
In the maelstrom.
The sky sours its peace,
Clouds blacken their faces,
The wind billows its rage,
They, too, turn their back on yoụ
It is not your fault.
It is not their fault.
It is no-one's fault.
It is everyone's fault.
You have no one's pity.
Tears have dried
From the wrinkled eyes
Of a heart-broken mother,
Who, like a marble statue
Hoary in sorrow,
Patiently awaits
A return
That will never be;
Tears have dried
From the ravaged eyes
Of a grief-stricken sweetheart,
Who, like an ethereal flower
Withered in tragedy,
Sadly mourns
A love
That never
Has bloomed.
There is nothing you can do.
There is nothing they can do.
There is nothing anyone can do.
And so you lie here,
Unremembered,
A tale untold,
A soul unpitied,
A voice unheard,
A spectre unseen,
A dream unfulfilled,
A memory unpleasant.
And forever you remain,
A soldier unwept.
Nguyen Quoc Vinh
Tôi Không Chọn Chiến Tranh
Cho những người chiến đấu phương Bắc
Cho những người chiến đấu phương Nam
Cho những người chiến đấu đồng minh rộng lòng hào hiệp -
Cám ơn tất cả đã chiến đấu cho sự tồn tại của tôi
Chợt một phút nào đó tôi đã nghĩ:
Có phải tất cả đã chiến đấu vì chính nghĩa?
Phải chăng những lý tưởng chỉ là ảo tưởng
Khi nó đã không hề phục vụ thật sự cho con người
Chúng tôi, những kẻ sợ hãi sự thống trị
Sợ hãi nô lệ và bạo tàn (lịch sử đã chứng minh điều đó)
Nhưng, làm thế nào chúng tôi lại nô lệ
và thống trị chính mình
bằng tư tưởng bạo tàn và thù hận
Có một cuộc chiến tranh kinh khiếp và dài lâu nhất
cuộc chiến trong lòng chúng tôi
với sự dai dẳng của trí nhớ
(the persistence of memory Salvador Dali nói thế)
không biết xót thương nỗi đau tinh thần thể xác
cuộc chiến đó vẫn còn tiếp tục
chúng tôi vẫn chiến đấu với nó từng ngày không nguôi
Kẻ thù không có hình thể rõ rệt
nó không là xương máu những người đã nằm xuống
hay chủ nghĩa đã thành vô nghĩa với thời gian
Kẻ thù mơ hồ mông lung
như cánh quạt gió mà Don Quixote đã xả thân chém
Không có vết thương nào nặng bằng vết thương bản ngã
Không có nỗi đau nào bằng nỗi đau chà đạp nhân phẩm
Chúng tôi đã xúc phạm nhân phẩm của nhau
mà cái giá khốc liệt của sự xúc phạm
đã tiêu diệt chúng tôi cùng ngã quị
Ðiều nhân bản nhất của con người -
khao khát sự sống và được sống với phẩm cách cùng ý nguyện
Ai cũng muốn hướng về những điều cao đẹp
(theo cái nhìn và cảm nhận riêng tư)
Ai cũng muốn thoát ra khỏi sự tầm thường
và hữu hạn của đời sống
Tôi đã nhìn thấy trong một phút bất chợt
mà anh không để ý che đậy
trái tim nhân tính và khao khát yêu thương
Anh hẳn đã có lúc chùng lòng vì một vài hình ảnh
đôi mắt buồn lặng lẽ của mẹ già,
nụ cười ngây thơ của em bé đánh mất tương lai ...
Tôi quả quyết rằng
trong mỗi hình nhân là một anh hùng
chưa được khai triển
Tôi không nhìn thấy cái đẹp trong tâm hồn anh
vì tôi còn bận đi tìm cái đẹp trong tâm hồn tôi
tôi còn quá bận rộn với chính mình
nên quên mất tha nhân.
Tôi sợ hãi chiến tranh
nhưng tôi đã làm nên chiến tranh
tôi sợ hãi cô độc
nhưng tôi đã rút lòng mình trong cô độc
trong vô cùng có cái tận cùng
trong vô hạn có điều hữu hạn
trong sự sinh diệt của đời sống
tôi đã góp phần vào hủy diệt
bằng hủy diệt chính mình
trong cô đơn và lạnh lẽo của chiến tranh
Làm thế nào tìm thấy bình an
khi tôi vẫn còn khuấy động an bình của người
Làm thế nào trốn tránh chiến tranh
khi tôi vẫn còn nghĩ đến cuộc chiến trong lòng?
Tôi không chọn chiến tranh
Chiến tranh đã chọn tôi
Tôi không chọn cô độc
cô độc đã tìm đến tôi
Tôi không chọn số mệnh
số mệnh đã chọn lựa tôi
Tôi không chọn đời sống
bởi đời sống không phải là điều có thể tự do lựa chọn
Tôi chỉ đang bị bức bách giam hãm trong thân xác này
với những điều hạn hẹp và giằng xé khốc liệt
không thể vùng thoát
Ðiểm danh những khuôn mặt
này ghen ghét, này thù hận
này độc ác, này bạo tàn thống trị
Hãy tháo gỡ những chiếc mặt nạ vàng ố
Hãy phủi sạch những hạt bụi phiền lụy
Hãy từ bỏ những mỹ từ của ngôn ngữ
để chỉ còn giữ lại chữ yêu thương
Hãy đánh thức giấc ngủ mỏi mệt nghìn năm
với cơn mơ đã quá dài
và thức dậy với mặt trời
vừa mọc ở phương Ðông.
Phạm Chi Lan
Dẫn Đến Barbara
Sau một thời gian hoàn toàn không viết được gì, đột nhiên mà những ý tưởng ào ạt trở về để những ngón tay của Hoài lại thèm muốn gõ trên bàn phím PC. Nhưng nếu nghĩ lại thì sự đột nhiên này cũng có thể là một phản xạ có điều kiện, một thứ điều kiện văn hóa phức tạp hơn tiếng chuông rung mỗi khi cho một con chó ăn, tiếng kèn của chiếc xe chữa lửa khi có đám cháy, tiếng còi hụ báo động khi bị oanh tạc, hay tiếng rít của đạn đại bác ngoài mặt trận.
Trời đã trở lạnh vài ngày hôm nay, mùa hạ đã qua, các bãi biển đã vắng, mùa thu đã về, đại học đã bắt đầu cho một niên khóa mới. Mỗi một sự đổi mùa là một biến chuyển tác động rõ rệt trên tâm lý của Hoài, nhất là sự chuyển tiếp từ những ngày nóng nẩy, tạo cảm giác uể oải, thèm gió mát, khao khát yêu, để qua những ngày chớm lạnh, thích co mình trong chăn ấm, cùng nỗi hoài cảm vụt lớn.
Tuy nhiên điều kiện chuyển mùa chưa đủ để gây ra trong Hoài một phản xạ thèm viết, cái tác động lớn nhất hình như nằm ở 1 cuốn sách. Cái cuốn sách mà tình cờ chàng đã làm rớt từ trong kệ khi rút một quyển truyện gián điệp tối qua. Cuốn sách nhỏ bé cũ kỹ to chỉ bằng hai bàn tay mỏng dính đó, đã bắt Hoài phải thắc mắc là chàng đã mua nó từ bao giờ.
Ðó là quyển sách Pháp ngữ được xuất bản bởi nhà in Hachette với tựa "Fables choisies" của La Fontaine. Bìa quyển sách được trình bầy bằng 1 hình vẽ kín trang chữ nhật. Hình vẽ 1 khung kiếng hình bầu dục, dưới khung kiếng là phần chìa ra của cái mặt tủ, trên đó đặt 1 lọ mực mở ra với một cây bút lông cắm vào. Phần dưới mặt tủ là hình vẽ 1 cái bệ hình thang chạm nổi trên gỗ, mang hai hàng chữ "Auteurs Classiques", "Collection René Vaubourdolle" và dưới cùng là tên nhà xuất bản. Không thấy đề tên năm in, nhưng trang trong có đề năm của người đã có thời nắm nó trong tay: năm 1934.
Hoài cố suy nghĩ, vì một "Tuyển tập những bài ngụ ngôn" của Lafontaine như vậy thì khó có thể hấp dẫn được chàng mua từ bất cứ một tiệm sách cũ nào, để theo chàng về nằm trên tủ sách của thành phố Melbourne nàỵ Nghĩ mãi mà không tìm ra tại sao và lúc nào mình đã mua nó, mãi cho đến sáng nay, khi thức dậy lui cui nấu nước pha cà phê và mở cửa hiên sau ra vườn, cái không khí lạnh của buổi sáng tinh mơ đầu thu đã đánh thức dậy cái trí nhớ của Hoài.
Ðúng rồi, Hoài đã mua quyển sách đó vào một ngày đầu thu năm 1978 tại Paris, tại 1 sạp bán sách cũ ở khu phố La Tinh. Sau khi đã dạo chơi ở khu vườn Luxembourg, nhìn thấy 1 vài em bé đi học ngang qua, nhớ lại hình ảnh của ngày đi học đầu tiên mà Anatole France đã tả, suy nghĩ về những ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp trên giới cha anh, suy nghĩ về sự mất ảnh hưởng của nền văn hóa này khi sức mạnh quân sự của Pháp đã giảm ở Ðông Dương, suy nghĩ về hình ảnh ông đồ già ngày xưa của Vũ Ðình Liên đã bị thay bằng những ông thông, ông phán nói tiếng Tây, giỏi văn chương Pháp, và mới đây những ông "đồ Tây" này ở Việt Nam cũng đã bị thay bằng những con người được đúc với tư tưởng Mác Lê Nin, rồi giờ là đến phiên những người Cộng Sản đó đang bị đào thải bởi nền văn minh Coca Cola, dollars...
Trong cái chớm lạnh của một ngày đầu thu năm ấy, Hoài đã đi dạo Paris và suy nghĩ về những vô lý của chiến tranh và thân phận con người. Do đó khi gặp quyển sách cũ kỹ đó bầy bán trên 1 sạp sách cũ, chàng đọc thấy tên của người đã có thời mua nó: "Charles Guthmann". Một cái họ mang âm hưởng Do Thái tại Ðức. Chàng đã bỏ tiền mua ngaỵ Chàng đã bị xúc động bởi 1 cảm giác "đồng bệnh tương lân", một cảm giác kiểu như Thúy Kiều đã khóc Ðạm Tiên vào một ngày hội Ðạp Thanh trong tác phẩm của Nguyễn Du.
Nếu đó đúng là 1 em bé Do Thái ở Ðức như cái tên muốn nói, định mệnh nào đã đưa đẩy đứa bé đó ở Ðức phải qua Pháp vào những năm 30, phải chăng vì tị nạn Quốc Xã của Hitler? Có thể lắm! Và cậu bé Guthmann này có may mắn thoát khỏi sự tàn khốc của những ngày sau đó hay không? Hay đã thành nạn nhân của những lò gaz kinh khiếp.
Và Hoài nhớ lại là khi mua cuốn sách ấy, chàng đã để tư tưởng kéo về hình ảnh một em bé một buổi sáng được người mẹ yêu quí đánh thức, mặc cho bộ quần áo tươm tất, chải tóc cho và để em đến trường với những quyển tập và sách còn mới. Biết bao ước mơ, thương mến và hy sinh mà người mẹ đã đặt vào đứa con. Biết bao công trình của một hệ thống giáo dục đã đổ vào từng quyển sách giáo khoa. Biết bao giờ học mệt mỏi mà đứa bé đã phải trải qua để hiểu và để thuộc những bài ngụ ngôn đô Ðể rồi khi cuộc đại chiến thứ hai xẩy ra, bom lửa đã đốt cháy, hủy diệt...
Hoạt nhớ lại bài thơ "Barbara" của Jacques Prevert đã viết trong tập thơ "Paroles", chàng vào lại phòng, mặc thêm một chiếc áo len, bỏ quyển sách cũ kia lại vào kệ sách, nhồi 1 tẩu pipe, nhớ rất nhiều về Sài Gòn những ngày trở lạnh, Hà Nội tháng ba năm nào cạnh hồ Gươm. Khói thuốc hình như sánh hơn, ở vào một ngày trở lạnh.
Barbara Barbara
Rappelle-toi Barbara Còn nhớ không em Barbara
Il pleuvait sans cesse sur Trời mưa chẳng dứt
Brest ce jour-là trên Brest ngày hôm đó
Et tu marchais souriante Và em bước đi tươi cười
Epanouie ravie ruisselante Nở rộ hân hoan chan hòa
Sous la pluie, Dưới mưa
Rappelle-toi Barbara Còn nhớ không em Barbara
Il pleuvait sans cesse sur Brest Trời mưa chẳng dứt trên Brest
Et je t'ai croisée Và tôi đã gặp em tại
rue de Siam đường Siam
Tu souriais Em nhoẻn miệng cười
Et moi je souriais de même Và tôi tôi cũng nhoẻn cười
Rappelle-toi Barbara Còn nhớ không em Barbara
Toi que je ne connaissais pas Em người tôi không quen
Toi qui ne me connaissais pas Em người không quen tôi
Rappelle-toi Dù vậy nhớ không em
Rappelle-toi quand même Còn nhớ không em
ce jour là ngày hôm đó
N'oublie pas Ðừng quên nhé em
Un homme sous un porche Người đàn ông trú mưa dưới
s'abritait vòm cổng
Et il a crié ton nom Và chàng đã kêu tên em
Barbara Barbara
Et tu as couru vers lui Và em đã chạy tới với chàng
sous la pluie dưới mưa
Ruisselante ravie épanouie Chan hòa hân hoan nở rộ
Et tu t'es jetée dans ses bras Và em đã ngã vào vòng tay chàng
Rappelle-toi cela Barbara Còn nhớ không em điều đó Barbara
Et ne m'en veux pas si Và đừng giận tôi khi tôi gọi
je te tutois em bằng "em"
Je dis tu àtous Tôi gọi thân mật như thế
ceux que j'aime với mọi người tôi yêu
Même si je ne les ai vus Ngay cả với những người
qu'une seule fois tôi gặp chỉ một lần
Je dis tu à tous Tôi gọi thân mật
ceux qui s'aiment những người yêu nhau
Même si je ne les Ngay cả với những người
connais pas tôi không quen
Rappelle-toi Barbara Còn nhớ không em Barbara
N'oublie pas Ðừng quên nhé em
Cette pluie sage et heureuse Cơn mưa ngoan và hạnh phúc đó
Sur ton visage heureux Trên khuôn mặt em hạnh phúc
Sur cette ville heureuse Trên thành phố đó hạnh phúc
Cette pluie sur la mer Cơn mưa đó rơi trên biển
Sur l'arsenal Trên xưởng công binh
Sur le bateau d'Ouessant Trên con tầu chiến Ouessant
Oh Barbara Hỡi ơi Barbara
Quelle connerie la guerre Cái cuộc chiến ngu xuẩn biết bao
Qu'es-tu devenue maintenant Giờ này em đã ra sao
Sous cette pluie de fer Dưới cơn mưa sắt
De feu d'acier de sang Cơn mưa lửa thép máu này
Et celui qui te serrait Và người đàn ông đã ôm
dans ses bras em trong tay
Amoureusement Nồng nàn yêu đương
Est-il mort disparu ou Chàng đã chết biệt tích hay
bien encore vivant còn sống
Oh Barbara Hỡi ơi Barbara
Il pleut sans cesse sur Brest Trời mưa chẳng dứt trên Brest
Comme il pleuvait avant Như trời đã mưa thuở xưa
Mais ce n'est plus pareil Nhưng tất cả đã biến đổi
et tout est abimé hư nát
C'est une pluie de deuil Giờ là trận mưa tang tóc
terrible et désolée kinh hoàng và thê lương
Ce n'est même plus l'orage Còn hơn cả cơn bão
De fer d'acier de sang Của sắt thép máu
Tout simplement des nuages Chỉ đơn thuần là những đám mây
Qui crèvent comme des chiens Rã chết như những con chó
Des chiens qui disparaissent Những con chó trôi mất đi
Au fil de l'eau sur Brest Theo giòng nước trên Brest
Et vont pourrir au loin Trôi đi thối rữa nơi xa
Au loin très loin de Brest Nơi xa thăm thẳm Brest
Dont il ne reste rien Mà chẳng gì còn sót lại
Jacques Prévert Phạm thế Ðịnh chuyển dịch
(25/03/96)
Gã Thợ Vẽ
Hắn vẽ, rồi vò nhăn bức họa, rồi vẽ, rồi lại vẽ. Cho đến mãi chiều nay hắn mới thực sự vẽ cho hắn.
Trước kia hắn là một người thợ vẽ. Ðời sống hắn cũng không lấy gì làm quá khổ cực. Hắn vẽ, và bức họa luôn được trả một giá phải chăng. Hắn bỏ công ra nhiều thì hắn được tiền nhiều, công ít, tiền ít. Trong làng chỉ có hắn là thợ vẽ nên hắn cũng chẳng phả va chạm gì nhiều để kiếm miếng ăn.
Ðối với khách hàng hắn rất lịch sự, hơi lễ phép quá nữa là đằng khác. Có lần một người khách nhờ hắn vẽ dùm con rồng tím để trang trí phòng khách, hắn chỉ hỏi một câu: "Dạ, ông bảo màu tím?" Ông khách gật đầu. Thế là xong, hắn chẳng thắc mắc gì hơn, mặc dầu hắn luôn vẽ rồng vàng.
Hắn vẽ đẹp lạ lùng, có lẽ vì hắn mê vẽ. Gần như bao nhiêu tiền hắn vẽ, đều được hắn dồn vào để mua tranh khác, những bức tranh của những họa sĩ giỏi hơn hắn. Hắn thường ngồi hàng giờ học hỏi kỹ thuật ở những bức tranh này, và sau đó cất bức tranh đi, hắn vẽ lại những đường nét đã in vào óc. Giống một cách dị kỳ! Ngay cả một người sành về tranh cũng khó mà phân biệt được bức nào là bức hắn vẽ Tuy vậy, người nào cũng cảm thấy có một cái gì khang khác giữa hai bức tranh. Cái khác như mập mờ, ẩn hiện ở những đường nét cố định, mà cũng như ở toàn bức hoạ, cái khác, mà những nguời sành vẽ nhất, quả quyết là do từ hồn người vẽ hơn là do thiếu điêu luyện.
Môt điều mà ai cũng biết và đôi khi thắc mắc là sao hắn cô độc quá, không vợ, không con, không bạn mà hình như cũng không cả họ hàng nữa. Nhưng thắc mắc đấy, nhưng rồi quên ngay. "Có phải chuyện mình đâu?" Ai cũng nhủ, vả lại công việc của họ cũng đã choán hết thời giờ để tìm hiểu thêm. Ðối với dân làng hắn không khác gì một cái máy. Họ trả tiền để lấy một bức tranh vừa ý mình, còn cái máy chạy sao mặc kệ. Ngay cả những ngày lễ lộc, cả làng vui vẻ, tấp nập, ai cũng thăm hỏi lẫn nhau trừ gã thợ vẽ. Có lẽ vì những dịp này người cần vẽ nhiều hơn, tranh phải chờ lâu, nên người ta luôn lo về tranh hơn về người vẽ.
Nếu ai cũng thấy gã thợ cô độc, thì chỉ một vài người thấy rằng hắn làm việc suốt ngày. Nào là lo mua màu, thay bút, nào là sửa sang bảng vẽ, và rồi lại phải vẽ liên tục để kịp giao tranh cho khách đúng ngày. "Hắn mê việc". Người ta chỉ nghĩ giản dị có thế.
Ðời sống hắn cứ thế kéo dài. Ngày lại ngày hắn hết vẽ bức tranh này đến bức tranh khác. Hết rồng, cọp, mèo, lại đến sơn thủy, ông câu, hết cảnh trời lên lại cảnh trăng lặn, tùy ý khách muốn. Hắn chẳng bao giờ thắc mắc tại sao người này muốn bức này, ngưòi kia muốn vẽ tranh nọ bao giờ. Hắn chỉ vẽ và vẽ đúng ý khách.
Rồi một ngày hắn nhận thấy có gì khác la. "Ừ, có gì khác lạ chứ", hắn nghĩ. Người ta đã ít nhờ hắn vẽ hơn. Hắn buồn buồn nhận ra là tay hắn đã run, nét vẽ đã không còn chính xác nữa, và khách đã nhờ một ông thợ khác, trẻ, giỏi hơn, mới dọn về làng. Thế là hết. Khách của hắn ngày một thưa rồi dứt hẳn. Hắn bắt đầu sống những ngày tẻ nhạt. Ðôi khi hắn ngồi cả ngày, đầu óc trống rỗng. Nghiệp vẽ thuê đã phũ phàng rời hắn!
Rồi đến những ngày khổ cực. Hắn bán lần từng bức tranh thân yêu chỉ để sống qua ngày. Mới đầu hắn còn lựa bức nào hắn thích nhưng có thể bỏ, sau hắn chỉ nhắm mắt rút đại ra rồi bán. Hắn bán khổ, bán sở, bán như người bán vợ, bán con, hay bán chính thịt mình để sống... Còn ba bức tranh quí cuối cùng. Hắn đã nhiều lần trong đời thầm nghĩ chẳng có gì quý hơn. Hắn đã bọc nylon và vải, cất rất kỹ và cũng chẳng dám xem nhiều vì sợ mất màu, nhưng nay thì bắt buộc rồi. Hắn phải bán để sống. Hắn ngồi đối diện ba bức tranh tuyệt mỹ cuối cùng. Hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần... Bây giờ hắn có thể nhắm mắt và tả không sai từng nét, nhưng hắn vẫn chưa chọn được bức nào để bán trước. Sau cùng hắn quyết định bán cả ba cùng một lúc. Vì gặp người sành nghệ thuật và cũng hiểu tình cảnh của hắn nên trả giá cao. Tiền bán tranh đủ cho hắn sống thêm ba tháng nữa. Rồi sau đó... Hắn còn lại cái giá, vài tấm vải trắng, vài cây bút lông cùn. Nếu túng quá. Hắn không dám nghĩ thêm. Hắn cố ngăn chận những ý nghĩ về tương lai được phút nào hay phút đó.
Hắn bắt đầu sống ba tháng cuối . Ngày lại ngày quanh quẩn trong nhà. Hắn đi, hắn xếp dẹp đồ đạc cho thật gọn, hắn quét nhà thật sạch, hắn rửa ly tách thật bóng, hắn làm bất cứ cái gì để tránh suy nghĩ. Cho đến một chiều qua hắn mới để ý đến tiếng đàn. Cái thằng đánh đàn bên cạnh! Ðồ trời đánh, đồ mất dậy! Tại sao nó lại chơi những bản đàn quái dị đến thế. Ðúng rồi. Nó khinh mình. Nhưng điệu đàn vẫn thế mà? Nó chơi từ bao năm nay cũng những bản này mà? Không, rõ ràng thằng khốn nạn! Cứ cái điệu này, thì khác gì hơn là chửi thẳng vào mặt mình không? Mình phải làm cho nó biết tay. Từ bao năm nay mình nhịn nhục nhiều lắm rồi.
"Ê, thằng mất dậy". Hắn vụt bước qua nhà bên cạnh chửi lớn. "Ông đáng tuổi cha mày nghe con. Tao bán gì mặc xác tao. Ai cho phép mày răn dạy hả? Ðồ trẻ ranh, con nít ngông". Người đánh đàn giật mình nhìn lên nhưng chợt hiểu, chỉ im lặng xếp đàn nhìn lão thợ vẽ già với ánh mắt thương hại. Sau một hồi mạt sát hắn ra về. "H Thế mới đáng kiếp, cho mày chừa cái thói ngang tàng mất dạy."
Về nhà, tự nhiên hắn thấy vừa tức, vừa thương thân. Người hắn như sắp nổ tung. Hắn tìm cây bút, kê vội ba cái giá vẽ, pha mực và vẽ ngay lên một trong vài tấm vải trắng còn lại. Trước hết hắn vẽ cha hắn, mẹ hắn, anh em hắn, rồi làng hắn, bạn hắn. Hắn vẽ cùng một lúc hai ba bức. Một nét cha hắn, rồi vài nét ở làng hắn, rồi lại bước qua vài bước vẽ em hắn. Người hắn chạy qua chạy lai nhanh như con thoi. Hắn hận mình chỉ có thể vẽ được ba bức một lúc. Sau buổi chiều hắn hoàn tất ba bức họa. Nhưng vì xúc động, hoặc vì phải xê dịch nhiều quá, hoặc vì già, hắn hoàn tất ba bức tranh lệch lạc, méo mó đến dị kỳ. Mặt cha hắn như mếu, miệng em hắn hốc ra, rời rạc, làng hắn xiêu vẹo, điêu tàn như một bãi tha ma. Sau vài phút đứng ngắm hắn mím môi giật mạnh các bức vẽ xuống. Hắn muốn vẽ lại từ đầu nhưng chỉ còn lại một tấm vải thôi. Hắn đã vẽ, đã xóa quá nhiều rồi. Làm thế nào bây giờ. Trời ơi! Một ý nghĩ vụt qua óc hắn. Hắn chia tấm vải ra làm mấy chục lần và vẽ từng bức tí hon. Khõ Ðương nhiên, nhưng hắn cố vể Trời đêm tàn dần, đen lụi...
Lục sục tìm được vài mảnh nến vụn hắn thắp cả lên cùng với ngọn đèn dầu lạc đã gần cạn. Hắn vẽ như điên cuồng, thác loạn. Một bức, rồi hai bức... chẳng mấy chốc mà tấm vải đã chi chít hàng chục ô có mực... rồi hắn đang vẽ hắn ngồi đối diện ba bức tranh cuối cùng... rồi... Hắn vẽ thâu đêm, rồi hết ngày hôm sau, rồi đêm hôm sau, cho đến sáng ngày thứ ba khi người ta đập cửa vào thì thấy hắn áp mặt vào giá vẽ, hai tay ôm khư khư hai bên và đã chết từ bao giờ. Nét mặt hắn nửa như cười, nửa như mếu. Một bên má dính đầy mực vẽ từ bức tranh gần hoàn tất.
Phan Lê Dũng
Nói Chuyện Với Đá
Mi quay sang nhìn Long, chiếc răng khểnh bóng ngời, nháy nhó, Long vội vã cười ngay, nãy giờ cô hằm hằm, anh buộc phải làm thinh, một dúm không khí trong lòng máy bay càng ngột ngạt khó thở hơn. Cô bé bướng bỉnh, vụt nhớ "thằng cha khùng" mới đó ngang như cua làm cô bực. Chuyện chẳng có gì, nhưng hai đứa cứ hục hặc nhau hoài. Ðàn ông con trai gì mà tẹp nhẹp, không biết nhường nhịn, không độ lượng, không cao cả, không thâm trầm tế nhị, không ngọt ngào... cả trăm cái không lợn cợn mọc gai trong một gã đàn ông. Cô lạnh nhạt thầm trách mình nhẹ dạ mau quên. Làm hòa ngay, Long lừng, mặt lại phất lên như diều phải giô Ghét. Thấy mặt cô sa sầm, Long tiu nghỉu, nụ cười cầu hòa sượng sùng méo xẹo đi. Những gốc râu lún phún bỗng nổi chứng cộm lên đòi gãi. Long xoa cằm, rồi mân mê thương cảm cho mình, tội nợ chi cứ a vào con nhỏ răng cời, dơ đầu cho nó nện giống thầy chùa an nhiên gõ mõ rồi ngâm nghỉ tụng kinh. Mặt con bé lúc hiền lúc dữ, sao cứ thấy đẹp, thấy huyền hoặc dịu dàng. Làm như cả trời đất thu gọn vào đôi môi kiêu kỳ của nó. Con bé gai ngạnh quá, ước chi ngược thời gian lội vào kiếp trước, biến thành vua, nọc nó ra đét một trăm roi vào cái mông cong cớn khó chịu này.
Mi nghiêng mắt ngó, thấy Long rờ râu mặt buồn thiu nhìn ra ngoài khung cửa nhỏ xíu của máy bay. Mi cười. Long của Mi thơm đủ thứ mùi, shampoo, dầu thơm, bọt cạo râu. Cái mùi Mỹ của Long không ngửi cũng biết. Long lót tót chào đời ở Mỹ. Mẹ của Long dân da vàng, Việt Nam trăm phần trăm, cái mặt Long tạp chủng, ngó hoài chẳng giống ai, mắt nâu buồn sũng, pha thêm màu ngơ ngác, nửa hoang vu rừng rú, nửa địa ngục gian tấ Mũi cao giống bố, chủng loại Viking pha thêm nòi American Indian của bà nội, tóc lại mun quăn tít như chòm râu hải tặc. Chắc giòng bên ngoại, dân vũng biển, Chàm, Miên, Chân Lạp, chuyên ngành cướp biển. Long nói tiếng Việt nghi ngô, nghe ngộ ngộ buồn cười. Hai đứa quen nhau vào một mùa nghỉ hè nào đó, cả hai đều loáng thoáng nhớ như vậy nhưng thỉnh thoảng cũng bày đặt lâm li với nhau chút xíu cho vui chuyện. Lâu lâu thèm về nguồn, Mi lục tủ sách của mẹ, tò mò đọc những truyện tình ngày cũ, thấy thiên hạ nhớ nhau từng li một, này nhé, chàng nhớ tóc mềm, nhớ da thơm, nhớ áo lụa Hà Ðông, khăn voan tím, nhớ rồi yêu, yêu rồi nhớ, ôi thôi tràng giang trong tiểu thuyết, nhớ cả đường đi lẫn ngõ về... guốc gỗ, giày ny-lông khua lộp cộp trong trí nhớ hôi hổi của chàng. Nàng còn da diết hơn nữa, nhớ từng gốc râu nhỏ, từng vết bụi đường lấm lem trên áo, mồ hôi muối bạc phơ mảnh áo trận, bốc mùi, nàng ngây ngất, tóc pha sương trời, nàng cũng rên. Sướng chưa? Chàng với nàng thủa ấy nhàn rỗi thong thả dữ. Chẳng thấy họ lo lắng bill, nợ, việc làm, bankrupt, môi sinh, bệnh tật. Ngay cả lúc nhọc nhằn, đau khổ, họ vẫn cứ rình rang nhớ thương nhau suông đuột, đạo hạnh. Cả một trường thiên, nhiều khi chàng với nàng chỉ kịp thổi bụi cho nhau có một cái, vậy mà họ quằn quại nhớ nhau cho tới lúc sinh thì. Thời bây giờ vật vã, sáng sớm, mắt nhắm mắt mở, sợ trễ giờ, boss đuổi, chạy như ma rượt trên xa lộ, lo kẹt xe, lo người điên người tỉnh hừng chí bắn bừa, mình rủi ro oan mạng như chơi, nhớ nhau đắm đuối như vậy bảo đảm chủng loại người đông đúc này sẽ bể tung bộ nhớ, hô hoán nhau nhào vô viện thần kinh không kịp mặc quần.
Long dò dẫm nhìn Mi. Mèn ơi, không nhìn thì thôi, nhìn nó một cái, điên người. Ðôi mắt nó lạ lùng, anh chưa thấy ai có đôi mắt vừa mướt nhung, vừa tóe lửa, dịu dàng nhưng thách thức cương nghị như đuôi mắt long lanh kỳ diệu này. Thôi đành, khổ sở trăm chiều, dơ cả mạng cùi cho nó nện chan chát vẫn sướng hơn một mình trên không gian lạnh lẽo. Biển đen ngòm bên dưới, cánh bay chao đảo, gió ù ù, động cơ cũng ù ù. Mẹ ơi, lỡ một tẻo teo trục trặc vớ vẩn nào đó xảy ra... Xong! Ma quỉ nào biết nổi, cớ sự chi dưới đáy biển đen ngòm kia? Ở mãi một chỗ, thở mãi một thành phố, buồn ra chán vào, mua súng lớn, rờ rịt cũng phiền. Ði chơi, đông rồi hè, không có con bé, ngứa ngáy, lạnh lùng, chịu không thấu. Long thản nhiên nịnh đầm:
"Meo Mi ơi, cười hay quá, không cho ké với?"
Cô gừ khẽ, mười ngón tay xinh xẻo khum che, ấn vào má, bộ dạng láu liên mềm mướt như con mèo. Cô cảm động thấy rõ, nhưng cố dấu, chừng nào mê say thắm thiết nổi lên, hứng tình dạt dào, Long vẫn có thói quen gọi ơi ới Meo Mi ở trường.
"Hẹn nhau trên máy bay, hành hương đất thánh, ngộ quá trời, không cười sao nổi."
"Anh nghĩ đường đến Jerusalem là đường ngắn nhất để ôm nhau chết sống cho xong đời mình. Tôi với nàng quen nhau lâu quá chừng chừng, cơm không ra cơm, cháo không ra cháo."
"Cay cú hay than thở vậy ngài?"
"Cả hai..."
"Làm bộ hoài! Ngài khuỳnh tay dạng chân, tà tà sống mấy năm nay, có hao mòn nửa kí lô nào vì tôi đâu?"
"Mòn quá đi chứ, tại Mi không thèm săn sóc ngọ nguậy với anh, cái mặt Mi cứ câng lên như đá, dù đẹp, ngon, hấp dẫn, cũng cứ là đá như thường."
"Tại anh chứ bộ..." chữ bộ cô trề môi nói dài ra, nhõng nhẹo, ướt rượt. Anh xiết chặt tay cô, những ngón tay nhỏ xíu, quen lướt trên dương cầm, mong manh yếu nhỏ. Anh ngạc nhiên, sao tận hôm nay anh mới biết tay cô mềm và nhỏ. Vậy chứ bao tháng năm dằng dặc bên nhau, đi chơi, đi ăn, dạo phố, mua sắm, anh thấy giống gì ở cô nhỉ? Cô nép nhẹ vào anh, một chùm tóc mềm quệt vào cổ anh, nhột nhạt dễ chịu hết sức. Anh hôn lên trán Mi. Cô cười, chiếc răng khểnh ánh lên, như sa thạch lém lỉnh dưới sắc vàng ấm áp của ngọn đèn hắt xuống từ trần máy bay. Ðèn đỏ chớp chớp trên màn hình: "Xin cột giây nịt an toàn... Xin cột giây nịt an toàn... Ðộ cao máy bay, ngàn dặm đường đã băng qua, sa mạc, biển đen, và vô số chiến trường năm xưa, bán đảo Sinai và trận chiến sáu ngày, kênh đảo Suez, giải Gaza, thành Jaffa cổ kính..." Giọng cô tiếp viên ran nóng như cát sa mạc, gióng giả, quyết liệt ngay cả trong âm giọng cố phơi bày vẻ lịch sự hiếu khách: "Quí vị đang bay trên vùng trời Israel. Máy bay sắp hạ cánh xuống phi trường Tel Aviv. Bên phải quí vị là sa mạc kéo tận về phía Nam, và bên trái một nền xanh bát ngát của đồng bằng Sharon trải dài tới miền Bắc. Cả hai, sa mạc và đồng xanh chỉ cách Jerusalem và Tel Aviv vài giờ chim bay. Toàn thể phi hành đoàn, chiêu đãi viên kính chúc quí vị một chuyến hành hương vui vẻ và hạnh phúc. Tạm biệt và hoan hỉ gặp lại quí vị một ngày tới."
oOo
Ðôi tình nhân có trọn một buổi chiều, để nhận phòng, tắm rửa, dong chơi. Họ thênh thang hòa vào đám đông lang thang khắp ngã đường của Tel Aviv, người với người chen chúc, phố xá đông nghẹt, họ ôm nhau đi về phía biển, cát trắng phau lượn những đường mềm gợi cảm vươn dài tới chân trời xa tít óng lên màu sapphire xanh biếc. Tầng tầng khách sạn, dinh thự, phố xá cũng chập chờn bóng mây. Tower Record chất đống nhạc Rap, Rock mới tinh. MacDonald phất phới lá cờ sặc sỡ hai màu vàng đồ Ðủ mọi sắc da, vàng nâu, đen trắng, râu ria xồm xoàm, tóc hoe vàng nhẵn nhụi. Long dẫn cô lên tầng thượng cao chót vót. Họ nhâm nhi ly cà phê Thổ, Mi đòi thêm ly kem béo ngậy, đặc quánh với loại cheese địa phương rất lẫ Xa xa thành phố cổ Jaffa hiện ra trước mắt cô với những đỉnh tháp cao vút trên sườn đồi uốn mềm những hình tượng bí ẩn đổi màu từng lúc dưới những quầng mây vô định. Long dễ thương hơn hôm qua, hôm kia, tuần trước, lúc họ giận nhau. Anh với tay đưa ống nhòm cho cô, thấy cô trầm trồ, Long hứa sẽ đưa cô đến thăm cổ tháp đó, cô sẽ mặc sức dí mũi vào đủ loại cổ vật có từ mấy nghìn năm trước Tây lịch trong Art Galleries bằng đá đen. Những cổ thư chép trên da thú, những tượng thánh, tranh ảnh, đồ đá, đồng đen. Ở Tel Aviv, sao mọc sớm hơn mọi nơi khác, cô nghĩ như vậy. Ðêm tới, thành phố mang tên Bình Minh bỗng chìm xuống trầm mình vào Ðịa Trung Hải ì ầm tiếng sóng đập mê man vào bờ đá.
Hai ngày sau, họ được nhập chung với đoàn hành hương vừa đến từ Úc Châu. Ðôi mắt đẹp của Mi lại chớp chớp như đèn đường tắt m Long kê thêm vào danh sách bốn ngự lâm quân mới toanh, hăng hái kê đầu cho Mi sai bảo, cũng như Long, họ không bao giờ mỏi mệt và chán nản. Ðoàn ghé Bethlehem, rồi đi thẳng đến Biển Chết. Một rừng cọ bạt ngàn bao quanh Ein Gedi, du khách khắp nơi đổ về đây, nghỉ mệt, rũ bỏ buồn phiền, kỳ cọ sạch bong những ham hố trần gian đày đọa. Giữa vũng lầy muối khoáng lọt trong vùng vịnh của Biển Chết, anh ngọt với cô như đường, những vụ lên cơn bất tử, càu cạu hoặc tệ hại hơn lầm lì không dám lộ mặt nữa. Cô xinh quá, nổi nhất trong đoàn du khách, lũ đàn ông sáng giá khắp bốn phương, Ðông Tây nhìn lén cô hoài, rình lúc anh sơ ý, họ sán tới, xum xoe ve vẩy trước mặt cô lì lợm như ruồi. Anh hoảng, vốn tính cao ngạo đành phải tảng lờ không thèm biết đến... Cô hứng tình cũng ngọt ngào mát mẻ, chớp mi dài, khoe miệng cười tươi, tay chân mềm nũng nịu với người tứ xứ như một ả mèo non của Trung Ðông bí ẩn. Họ bì bõm lội trong bãi bùn đặc quánh. Cô vốc bùn trét kín người Long, còn một nắm bùn trên tay, cô vẽ thêm cho anh chòm râu thật bự vòng từ má xuống cằm. Long không muốn thiên hạ chiêm ngưỡng Meo Mi say đắm, anh lấy bùn, quết đặc quanh bụng, hông đùi và đôi vú ngực xinh xắn của cô. Mắt cô mở tròn, lông mày dính bùn, môi bùn, miệng bùn, tay chân bê bết. Họ nhìn nhau, cười ngặt nghẽo, hình tượng đen đủi và lem luốc. Cặp tình nhân ngó quanh, thiên hạ tuốt luốt đều ở truồng, bùn trét đầy người. Ðức, Na Uy, Ðan Mạch, Pháp, Mỹ, Anh, Úc, Phi Châu đen, Nhật vàng, Trung Hoa mắt hí, Mông, Tạng, Ba Tư ngăm ngăm... Không còn phân biệt màu da và nước tóc. Tất cả trở về với bùn. Bùn từ đầu xuống chân, bùn từ Cựu Ước xuống Tân Ước. Ðúng là quê hương của Kinh Thánh: "Song có hơi nước từ dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời bèn lấy bùn đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; tức thì người trở nên một loài sinh linh." Cô bần thần ngó quanh. Người tứ phương, giòng dõi của Eve, trần truồng thơ dại nằm la liệt trong đầm bùn, yên ắng đằng xa. Rõ ràng nhé, sau trùng trùng bão tố đảo điên, sau vô số cuộc cách mạng, sau thánh chiến, sau lò hơi ngạt, sau cách mạng điện tử lạnh lùng. Con người tìm về Biển Chết, tự trát bùn vào người từ đầu xuống chân, nằm yên và thinh lặng như tổ tiên thời ăn lông ở lỗ.
Giữa bãi bùn mênh mông ngập ngụa hơi muối khoáng, giữa loài người mặc lấy bùn trét quanh thân xác. Ai cũng là bùn tro muối mặt. Bằng ngang nhau, hạnh phúc và đau khổ. Cô nằm bên cạnh Long, bùn nóng phả hơi ấm, gió ngoài khơi lộng lộng. Cô nhắm mắt, mảnh dù che hai màu vàng xanh dịu đi dưới hàng mi dầy rung rinh như cồ Cô ngủ quên trên bùn, một giấc nhỏ, chưa kịp cho cơn mơ mon men bước đến. Giọng người nào đó, đầm ấm vang rất xa, rồi êm đềm rót hẳn vào tai cô nghe bình yên như ngày còn bé co ro trong đêm bão vểnh tai hóng chuyện cổ tích miên man bất tận của ngoại... Ngày xưa có hoàng tử yêu một nàng lọ lem nghèo khổ lắm, yêu kiếp này chưa đủ, thề quyết túm chặt nhau yêu tít tận kiếp sau.
"Ðúng rồi, chính ở vùng hồ nước mặn này, năm 1947, Muhammad adh-Dhib, người đầu tiên tìm thấy động đá của Biển Chết, một cuốn trong bộ cổ thư xưa nhất của nhân loại. Sau đó, công cuộc đào xới kéo dài gần mười năm, người ta gọi đó là Dead Dea Scrolls, chép kinh Cựu Ước thời cổ đại, do các tu sĩ viết trên da thú ghi rõ những chuyện xảy ra hàng nghìn năm trước khi Chúa chết... Rất tiếc, cho đến bây giờ, Vatican và thế lực thần quyền của Israel vẫn chưa cho phép tài liệu này chường ra ánh sáng sau mấy nghìn năm ém chặt trong hũ đất nung."
Cô nhỏm người dậy, đôi mắt ngái ngủ chạm ngay vào cái mặt người trồi lên từ bùn. Ông ta đang cười, răng đều tắp, trắng ngời trên đầm bùn. Ðúng phóc chàng của... một nàng não nùng nào đó trong tiểu thuyết. Chàng hiện rõ dần trong mắt cô đang chới với. Chàng cũng trét bùn từ đầu xuống chân như mọi người quanh đây, bùn che đi hết, lộ ra một viền môi đầy đặn, hai mắt thâm trầm dưới hàng mày nhíu lại, gần sát nhau. Gương mặt sao khốn khổ tội nghiệp. Chàng ngồi, chân duỗi dài trên bùn, không cồng kềnh to lớn như mấy ông bà Tây Ðầm chung quanh. Chàng bình thường hết sức, trong bộ quần áo bằng bùn khô, chàng bỗng giống Adam của một ngày mốc meo trong Sáng Thế Ký. Cô nhìn lén "người bùn" có giọng nói trầm ấm ấy, nghe từng sớ thịt trên người mình tê đi điếng mỏi. Cô không hiểu tại sao mình bỗng đờ ra, câm khờ đui điếc như vầy. Bùn nóng, muối khoáng, hay giọng cười ông ta tỏa đầy năng lượng? Ông ta nói chuyện với Long. Họ quen biết nhau từ bao giờ vậy? Thiếu chi lúc, cô ham chơi rời xa Long trong cuộc hành hương này. Cô bận rộn hoài, ai cũng săn đón chiều chuộng cô như công chúa, cô phùng xòe tít tít lòng dạ nào nhòm ngó đến ai?
Vẻ hồn nhiên liến thoắng của cô biến mất, cô bối rồi thừ người. Chết cha rồi, tai hại hết chỗ nói, nhè lúc người ta ngủ mê, nằm há mỏ khò khò, ông người bùn lù lù xuất hiện, tha hồ ngó ngoáy, chiêm ngưỡng cô nằm thuỗn người trên bùn vặ ngáy. Dám lắm, cái trò hòa tấu đờn cò đờn nhị trầm bổng ò o này nó có chừa ai? Mệt quá mà, du lịch nghĩa là nuốt đường bay, đường bộ, hối hả trừng trạo đi qua những địa danh nổi tiếng. Khổ chưa? Trò chơi nhiêu khê tốn kém này, mấy bà thánh ngày xưa cóc biết, cái đận cô ngủ mê trên bãi bùn, mở choàng mắt, đần mặt ngó chàng lù lù như tổ phụ Abraham của người Do Thái. Mấy cô nường yểu điệu có đọc cổ tích toét mắt tìm cũng không ra cảnh ngộ lỡ khóc lỡ cười của Mi. Long và người bùn vẫn hăm hở hàng lô lốc chuyện trời ơi, đất hỡi, chuyện thiên văn, chuyện chiến tranh, chuyện chắp vá thánh thư mục tã từng mảnh trong những bình đất nung thời cổ. Những đề tài hóc búa này khiến Long mê mẩn quên béng Meo Mi đang ngồi bên cạnh. Ông ta cũng không thèm dòm Mi nửa phút. Lúc "người bùn" bỏ đi, với nhóm khác, bùn đã khô đóng thành áo giáp. Mi trông theo muốn ngợp th Cô hỏi Long liền:
"Ai đó?"
"Hướng dẫn du lịch, ngày mai ông ta sẽ dẫn đoàn của tụi mình đi Jerusalem."
"Ờ há! Tên gì vậy? Mi nhớ ông trước đâu có, như ông này."
Long tò mò nhìn soi vào mặt cô: "Như ông này là sao?"
Cô nhún vai: "Mi không biết... nhưng ông ta khác tất cả mọi người. Ờ, Mi muốn nói ông ta không giống những ông bà hướng dẫn du lịch khác. Mi thấy như vậy. Có phải ông ta tên Kando, Skehan... không?"
Long cười: "Tiên tri hay dữ, ông ta tên Milik Ðông A. Người Do Thái gốc Việt đó."
Mi reo lên: "Thấy chưa, Mi đã nói trông ông ta không giống ai hết."
Long le lưỡi: "Ngộ há, ở đây ai cũng trét bùn, Mi vẫn thấy ông ta khác thường. Tài ba dữ."
Cô hất mặt lên nhìn trời, ai thèm hơn thua với ông con nít. Mi nghĩ người bùn chắc mã thượng đàn ông hơn Long. Long cứ tối ngày vặn vẹo Mi từng câu từng chữ, miệng mồm Long giống hệt lưỡi câu, ở gần gã khùng này, Mi cứ thót người sợ bị anh ta móc họng. Bực quá.
oOo
Buổi sáng, Mi thức sớm, thay áo đẹp, đeo kính mát handmade của Ý vừa mua chiều hôm trước trong khu phố cổ của Hebron. "Người bùn". Mi nhất định dành riêng tên gọi này cho ông hướng dẫn du lịch mặt mày rất ư khó tả. Ông ta không đẹp trai, mặt hơi khắc khổ, lưng hơi cong, miệng hơi rộng, mũi hơi thô, tay hơi dài, mắt hơi nhồ.. Vậy mà tất cả những cái hơi hơi đó, làm thành ông ta, Milik Ðông A. Bộ dạng ông ta cười, cách ông ta nói, một tay vung lên, một tay nắm lại... chẳng giống ai, chỉ giống một mình ông ta thôi, đau đầu ở chỗ đô Mi không thoải mái ngang tàng nữa, Mi bực bội với người bùn, cô phải trả thù, cái tội ông ta dám ngồi nhìn cô ngủ gục vì mệt. Cũng có thể Mi ghen tức cái đầu uyên bác thông minh nhiễu sự của ông. Trên trời, dưới biển, cái gì ông cũng biết. Ông nói với mọi người, lời lẽ khiêm tốn, vậy mà Mi vẫn thấy ông ta kiêu căng ghê gớm lắm.
Nghe này, ông ta thao thao thuyết giảng: "Hebron là tên của một thành phố được nhắc nhở nhiều lần trong Cựu Ước. Các bạn đang đứng trên bờ thành bằng đá, những tảng đá này có tuổi thọ già hơn sáu ngàn năm, còn ghi dấu chân của những người Hebrew. Hebron nằm ở phía bờ Tây của giải sông Jordan, từ năm 1967, Hebron thuộc về Israel. Chính ở đây đã xảy ra những tranh chấp đẫm máu giữa người Israel và Ả Rập. Bởi vì ngay dưới chân thành của đền thờ Hồi giáo, là lăng mộ của Abraham, Isaac và Jacob."
Mi nhìn sửng vào môi người bùn, môi dầy, loại môi này ham hôn lắm, thứ môi biết cho tình rất rộng. Môi đa thần, đa thê, đa thiếp... Ông ta kết luận cái rụp: "Ðất đá ở nơi đây, thưa quí vị cũng khốc liệt xâu xé như con người."
Cô thẹn trong lòng, không biết tới chừng nào cô mới nuốt nổi một góc nhỏ những hiểu biết rộng dài sâu sắc của ông ta. Miệng cười của ông ngọt ngào quâ Mi ấm ức ném mắt về phía đồi cỗ Ông ta đến đón khách. Mở máy nói cho một đoàn du khách tạp pí lù chủng tộc. Cô bước xuống thang, bước chân kênh kiệu, môi vén lên cười nhẹ:
"Chào ông... trời đẹp quá phải không?"
Người bùn cười thành tiếng, trước giọng nói cố tình làm bộ già dặn của cô:
"Với cô, trời luôn luôn phải đẹp thôi, trước hôm cô đến, Hebron gầm gừ muốn bão, vậy mà, cô coi, hôm cô đến, cả thành phố sáng rực lên. Chà cặp kính mát làm cô giống nữ thần quá."
"Cám ơn. Tôi mua nó hôm qua, Long nói nó tuyệt vời, có một không hai, Long nói vậy, nhưng đau bụng lắm đó. Nó đắt gấp đôi giá ở phi trường."
"Phải đánh đòn anh chàng Long khờ đô Cô đã thích, giá nào cũng mua, nhưng ghé tai đây, tôi nói nhỏ cái này nghe..."
Cô nghiêng mắt, nghiêng tai kề bên chàng, một chút thôi, ta nghiêng đời ta, lăng tẩm điện đài, cho người bùn lấy một chút thừa hương, mùi tóc mùi da... Vầng trán ông nhăn quâ Ðời của ông tha hồ tơi tả so với Long căng cứng và no đủ. Giọng người bùn nghe gần trầm xuống nửa gam, từ trường phả đầy, điện giật lên sẹt như chớp, khó chịu hết sức.
"Lần sau, muốn mua gì, đừng quên nói với tôi, một cái nháy mắt, cô có ngay. OK?"
Mi gật gật, Long đi tới, mặt nặng xuống vì ngái ngủ, ngó thấy người bùn, mặt Long lại tươi rói lên. Hai chàng bắt tay nhau, rồi một phen nữa, và phen nữa, hai ông gàn lao vào trận giặc kiến thức, cho tới lúc cả đoàn lục tục leo lên xe. Mi nhìn phố đường hai bên, nhà cửa, đất đá, khung cửa sổ kín bưng, không vòm cửa nào giống vòm cửa nào, chúng cũng bí mật lặng lẽ và trang nghiêm như đất đá ở đây. Ðỉnh tháp nhọn, đền thờ, đời sống hôm nay và dĩ vãng nghìn năm thở chung một nhịp.
"Dọc bên đường, các bạn thấy những dấu tích buồn bã của chiến tranh, những cỗ xe tăng cháy, nằm trong bão cát. Bạn sẽ đến Yad Vashem một viện bảo tàng khủng khiếp nhất của thời đại chúng ta, ở đó, những hình ảnh độc ác sẽ làm bạn nghẹn ngào bỏ ăn trước những sử liệu chứng thật cuộc tàn sát người Do Thái thời Ðức Quốc Xã."
oOo
Chiều trên thành Jerusalem, gió dịu hẳn, quầng nắng gay gắt đỏ rực ban trưa đổi sang màu vàng chanh. Mi khóa tay, ôm lấy vòng bụng của Long, đu đưa ngả đầu về phía sau, mái tóc đầy nắng của cô chạm trên bờ thành bằng đá trắng nổi những đường vân màu kem sữa:
"Cám ơn Long đã đưa em tới đây."
Long dịu dàng hôn nhẹ lên môi cô, cô nhắm hờ mi mắt cho bớt chói, nhốt luôn tia nhìn sáng rực của Long. Cánh tay Long dưới chiều, óng ánh những hạt nắng li ti như cát trên lông mềm xoăn tít, giọng Long rù rì tan trong điệu hát lạ tai của người Hồi, ngân lên từ đồi xa, vẳng tới, lảnh lót gọi tín đồ tụ về cầu kinh... Hú ha hu ha ha ha... Tiếng hát vang bay trên cổ tháp, đá đất, cánh đồng thoắt nhuộm màu thần bí làm cô không nghe nổi lời thầm thì của Long ngoài tên gọi Meo Mi Meo Mi. Cô đoán biết lời tình của anh phả trên hơi thở dồn dập những mê say phấn khích. Ðất trời, thần linh, nên một trong bời bời gió thổi. Lòng thành kính, ước mơ của cả nhân loại khắp mọi trời, năm châu bốn biển tụ về đây. Via Dolorasa, đường khổ nạn dẫn lên núi Sọ của Jesus còn đó, sau những thăng trầm hung bạo của chiến tranh. Long hôn nữa, gương mặt cô rực rỡ. Ðá nóng hực sau lưng cô. Nụ hôn tham hơn mọi ngày vừa ngắt, mắt còn say, Mi chạm đúng vào Milik Ðông A, phía bờ thành, nơi những người đàn bà đủ mọi sắc dân đang úp mặt vào vách đá, cầu nguyện. Họ thầm thì với đá, nơi Bức Tường Thương Khó, dấu tích linh thiêng còn lại của đền thờ Solomon. Chỉ một thoáng nhìn va vấp vào nhau, cô bàng hoàng. Ðông A, đá đen và trống đồng. Ðông A, nhà mồ, kín bưng, sầu thảm. Cười nói, sống và chết trong một con người... Ðầu cô bị đau, cơn choáng váng mấy hôm nay xâm nhập hành hẫ Ðó đây, những nữ tu áo trắng, lẫn vào một nhóm phụ nữ da đen, chói chang trong những chiếc áo choàng rực rỡ, với nữ trang lạ mắt, khăn quàng bằng lụa. Xa hơn chỗ Ðông A đứng, một nhóm người Do Thái cổ kính trong mũ dạ, áo choàng đen, họ không già chút nào, nhưng vai họ chìm xuống cùng ánh mắt đăm chiêu như đấng tiên tri thọ ba bốn trăm năm, đứng đó, nhìn đăm đăm bức Tường Thương Khó lo lắng phóng mắt về một ngày tận diệt cánh chung. Cô nắm lấy tay Long, hôn đền một thoáng trên trán anh, hỏi nhỏ:
"Long à, Mi thấy Ðông A lạ quá, rõ ràng ông ta gần gũi thân thiết với tất cả mọi người, vậy mà, ông ta tách lìa chúng ta, tách lìa tất cả. Long coi kìa, rõ ràng ông ta đâu có vui."
"Phải nói cười như máy với mọi người, những tên đểu giả, những tên nhà giàu hạng bét ngày này sang ngày khác, vui làm sao nổi nữa. Bắt anh làm nghề này, chắc điên quá."
"Anh quen Ðông A lâu chưa?"
"Năm ngoái, lúc anh đi với bố mễ Mẹ anh quen ông ta thì đúng hơn. Ðông A định cư ở Israel mười bốn năm. Vợ ông ta bị hiếp rồi vất xác xuống biển. Chuyến tàu đó, chỉ có hai người sống sót. Ðông A và một người nữa, hiện làm cho bộ ngoại giao Israel..."
Cô nhìn mông lung, nơi đây cất dấu bao nhiêu ước mơ của con người. Ðá cũng run lên vì những lời cầu xin thổn thức. Ðông A còn gì để cầu nguyện? Mi thấy rợn, cảm giác chóng mặt lúc chạm nhằm đôi mắt tối thẳm lại dềnh lên, choáng đầy. Thấy Mi yên lặng, Long tò mò:
"Em băn khoăn vì ông ta hơi nhiều rồi đó."
Cô thẳng thắn gật đầu: "Em xin lỗi, nếu điều đó làm phiền Long. Quả thật ông ta làm em bận tâm quá. Ông ta vẫn nói vẫn cười, nhưng em vẫn thấy gương mặt đó đóng kín như một nấm mồ."
"Con người, lúc sinh ra, tự thân là một nấm mồ cho chính mình rồi cưng à."
oOo
Sau bữa cơm chiều, khách mệt rút về phòng. Mi choàng thêm áo, mang theo bì thơ và giấy có in logos trang nhã của khách sạn nhét vào túi áo choàng, một mình tha thẩn. Cô vươn người, ngáp. Thành thánh Jerusalem cũng vươn cao lên lừng lững trong đêm, khi trời và đất liền cùng nhau. Cô áp tay vào thành đá, hơi nóng đã mát, đá thở cùng trời. Mùi của đêm rất lạ, lắng xuống như trầm và ướt cỏ khuya. Ðông A đứng một mình, dựa lưng vào cột từ lúc nào, cô không biết. Lạy trời. Không biết.
"Sao cô không nghỉ một chút cho khỏe, chuyến đi có làm cô mệt lắm không?"
Cô lại vươn người lên: "Mệt chứ. Tôi sợ nằm xuống ngủ vùi mất, đêm qua tôi mơ kỳ lắm."
"Thưa công nương, tôi, Milik Ðông A hướng dẫn du lịch kiêm thêm nghề đoán mộng. Cô kể sơ, tôi đoán đúng như thần. Bảo đảm không đúng không lấy tiền."
Cô cười nhẹ: "Thì giờ của ông tính bằng dollar nặng, Ông có chặt thêm tiền đoán mộng cũng chẳng sao... tôi thấy mình đi trên một đoàn tàu, dài lắm. Có một toa tàu giống như nhà nguyện, cha cụ, tín đồ đọc kinh i ỉ nghe buồn nẫu người. Tôi đang lấp ló chưa chịu vào. Lửa bỗng từ trời cao đốt xuống bừng bừng. Mọi người xô nhau bỏ tàu chạy về phía thác. Tôi đứng sựng, ngây ra nhìn lên trời. Vần vũ trên mây, tôi thấy đủ mặt người vùn vụt hiện ra trên lưng trời, Chúa, Thượng Ðế, Socrate, Plato... có một người viết rõ tên tôi trên tầng lửa chói lòa. Diễm Mi, tôi thấy rõ tên tôi và những ngón tay dài ngoằng đó, tôi tỉnh dậy, không ngủ được nữa, những ngón tay đó, đúng là của ông."
Ðông A lặng người. Ông thua. Cho kẹo ông cũng không dám làm nghề đoán nữa. Máy nói của ông nó tịt ngòi. Cô đành phải ra tay cứu vãn trạng huống ngập ngọng của ngài hướng dẫn viên du lịch nổi tiếng thông minh và lịch lãm:
"Ðêm nay tôi không muốn ngủ mơ như vậy nữa. Cả đời, tôi ao ước được đến đây, ngủ uổng lắm. Chưa có một thành phố nào chứa đựng qua nhiều giấc mơ như Jerusalem."
"Tôi muốn ngủ nhưng không ngủ được. Ở đây mười bốn năm tôi vẫn thấy ngợp vì những chất chồng oan khiên của lịch sử và tôn giáo..."
"Anh là người Việt hay Do Thái?"
"Cả hai. Tôi yêu dân tộc can đảm này. Chúng tôi phải chung lưng nhau đối phó với kẻ thù vây chặt bốn phía. Người Do Thái chúng tôi, cùng đất đá, thánh địa này phải chiến đấu từng ngày. Việt Nam làm tôi kinh hoàng. Vợ tôi chết, và Việt Nam đóng lại."
Cô rùng mình, giọng Ðông A loãng vào chân không rồi quất xuống linh hồn cô tê dại: "Ít ra ở đây chúng tôi còn tôn giáo, và tinh thần dân tộc cực đoan."
"Cực đoan là một tai họa đấy."
"Ðúng như vậy, nhưng nếu con người không còn tín ngưỡng và dân tộc của mình, họ có còn gì nữa đâu, ngoài cơm áo?"
Mi vuốt tóc, rồi lại cho tóc mình bay tung trong gió: "Ông quên một thứ tối cần. Con người không có tình yêu, hoặc không dám yêu người mình yêu, nó còn gì không ngoài ăn và ngủ?"
Người bùn nhìn đăm đăm vào mắt cô, giọng thật khẽ khàng:"Hãy yêu, nếu cô yêu, tính toán, tra hỏi không phải là tình yêu."
"Ðược rồi, hẹn ông mùa Giáng Sinh năm tới, ở cột đá này, tôi sẽ cho ông biết những tra hỏi tính toán của tôi nó đau đớn như thế nào."
Long đi tới, hắng giọng lên từ đằng xa. Ông con Mỹ này, rất Tây, không bao giờ Long muốn gây bối rối cho cô, dù anh yêu cô ngất ngư điên dại. Hai người đàn ông bắt tay nhau. Ðông A tạm biệt. Cô ôm Long đi về phía Tường Thương Khô Những thiếu nữ, quần áo đắt tiền, hí hoáy chuồi nhét những lá thư cầu xin, khẩn thiết vào khe đá của vỉ tường mầu nhiệm. Một người mẹ, áp tay con vào bờ thành lầm rầm những lời van xin thầm kín chỉ có Chúa Trời nghe thấy. Ðèn điện và trăng sao hòa lẫn cùng nhau. Tường Thương Khó bừng lên hàng trăm nghìn nến đỏ.
Cô trì tay Long đứng lại, thò tay mượn cây bút vẫn cài trên túi áo của Long kê giấy vào thành đá loay hoay viết. Long nghiêng người, quay lưng cho cô tự do nói chuyện với Chúa. Cô ngừng viết, nhìn Long, rồi cắn môi quay vào vách đá, một mình với đá, một mình với ta. Nói dối, chân thật, phản bội A...M...M...Ð...A... Cô gạch đi, xóa, rồi xé, vò nhàu, nhét túi, tìm tờ thư khác. Viết lại, loay hoay nắn nót. Sợ Chúa cận thị, lần này cô viết chữ to hơn, rõ ràng hơn. Tiếng Anh vậy, Chúa Almighty lắm chắc ngài học đủ thứ tiếng, nhưng thôi, viết tiếng Anh cho chắc, biết đâu Chúa lười, không học tiếng Việt. Viết xong, cô bỏ vào bì thơ đàng hoàng, nghĩ sao, cô bước tới gần Long, chìa cho anh đọc. Long lắc đầu, cái bệnh sùng bái privacy đã thấm vào máu. Anh làm bộ kẻ cả không đọc lá thứ quan trọng nhất đời, cô sẽ gửi cho Chúa. Cô đành le lưỡi dán bao thư, run rẩy nhét vào khe đâ Trời bỗng dựng lên, chớp lửa ào ạt. Gió quấn vùn vụt, những ngọn nến cắm la liệt theo bờ đá của du khách vụt tắt ngấm. Long hốt hoảng ôm lấy cô, che chở, anh sợ gió lốc mang cô về trời. Gió quất rát mặt, Mi chúi người vào anh. Hình như cô khóc. Họ lúc thúc núp theo thành đá để trốn gió rồi lần mò đưa nhau xuống đường. Cơn bão Ðông A đoán trước từ Hebron ào ào xô tới Jerusalem.
oOo
Lá thư rơi vào khe đá, gánh hết oan nợ tội tình của hàng tỉ người thành nặng nghìn cân: "Lạy Chúa, tôi bị xé vụn từng manh nhỏ. Làm sao tôi có thể làm người chân chính nếu tôi gian dối với chính tôi? Tôi đã từng yêu thương Long, ít nhất tôi đã tin đó là tình yêu. Bây giờ, tôi chỉ muốn lăn tới tận cùng, vực thẳm hay trời cao cùng với Ðông A, và chỉ một mình Ðông A thôi. Amor... Lạy Chúa, tôi viết rõ tiếng la-tinh cho Chúa hiểu gọn gàng lời khấn nguyện chân thành nhất của tôi. Tôi yêu Ðông A và muốn chia sẻ mọi vui buồn với anh ấy. Làm sao tôi can đảm nói thật với Long. Ðã có một thời tôi rất yêu Long..."
Trên tầng cao. Thần Eros hạ cánh cung, mũi tên cuối cùng của năm 1995 đã ghim trúng hai người. Ðông A và Diễm Mi. Thánh nữ Cecile, thiên thần hộ mạng của Mi gục xuống phím dương cầm âu sầu không đàn nữa.
Lệ Hằng
Mùa Giáng Sinh 95