vhnt, số 123
31 December 1995
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ bà Văn Cao: Nốt Nhạc Xanh................Nghiêm Thúy Băng/PCL
- Cô đơn..............................................Nghiêm Thúy Băng
2 - Giới thiệu thơ Thanh Tâm Tuyền...........Nguyễn Phước Nguyên
- Từ chối, Dạ khúc, Nói về dĩ vãng, Hỡi Liên những Liên và Liên,
Nhân danh, Chiều trên phi trường................................Thanh T Tuyền
3 - Yêu em từ những tiền thân................Nguyễn Phước Nguyên
Tùy Bút / Tài liệu:
4 - Tản mạn: Sông Hương có nói chi mô..............Đỗ/Dung Nguyen
5 - Văn Cao & bài "Tiến Quân Ca".................................Văn Cao
31 tháng 12, 1995
Số này là số vhnt cuối cùng của năm 95, sắp bước qua năm 96 với nhiều chờ đợi và mong ước. Thời gian 6 tháng từ ngày thành lập diễn đàn vhnt trên mạng, có nhiều vui buồn và kỷ niệm mà tôi muốn chia sẻ với bạn, nhưng xin để dành ở một số khác.
Tổng kết cuối năm, vhnt đến nay được hơn 200 độc giả từ khắp các hộp thư điện tử trên thế giới; bài vở gửi về khá nhiều và có chất lượng hơn trước. Việc gom góp bài vở bỏ vào những số vhnt gửi bạn cũng được chăm sóc kỹ lưỡng hơn, gồm những bài khá đã được chọn lọc. Tất cả những bài đã đăng trên diễn đàn vhnt được lưu trữ trên mạng, bạn có thể tìm đọc hoặc tra khảo tùy tiện. Mọi việc điều hành do một nhóm nhỏ thực hiện, gồm có tôi, anh Hoàng Hải Việt lo việc kỹ thuật và lưu trữ bài, anh Diệm và anh Việt lo trình bày trang trí home page. Với những cải tiến và đóng góp không ngừng, hy vọng vhnt đã đem đến cho bạn đọc những phút thoải mái và niềm vui nhỏ mỗi ngày.
Xin cảm ơn tất cả mọi đóng góp bài vở và khích lệ tinh thần của bạn văn và bạn đọc. Cám ơn anh Việt đã thức bao đêm với những cải tiến cho vhnt web page, cám ơn anh đã kiên nhẫn với những câu hỏi về kỹ thuật mà tôi liên tục làm rộn anh. ám ơn anh Diệm lo update từng số vhnt vào thư mục, anh Thái Vũ Văn lập danh sách thư mục cho mỗi tháng. Và sau hết là cám ơn bạn đọc. Không có bạn, công việc chúng tôi làm chỉ là vô nghĩa.
Chúc mừng năm 96, với nhiều mơ ước thành đạt. Chúc bạn đọc mọi điều an lành, bình an, may mắn và hạnh phúc. Riêng chúc những bạn văn sáng tác dồi dào phong phú hơn.
Mong tiếp tục nhận những đóng góp của bạn cho vhnt, mong bạn cổ động và giới thiệu thêm độc giả mới.
thân ái,
PCL/vhnt
Nốt Nhạc Xanh
anh không chết
không bao giờ chết
nốt nhạc xanh
quyện hồn em
quyện hồn nước
quyện tình yêu bạn bè
hồn thơ anh
phảng phất
dáng anh trong mây
lướt
nốt nhạc xanh
quyện bóng
anh về...
Hà Nội mùa thu 95
Kỷ niệm 49 ngày mất của nhạc sĩ Văn Cao
Cô Đơn
người ta không chết
bằng thể xác
nhưng chết dần
trong cô đơn
quạnh hưu
và băng lạnh
một khoảng trống
không gì lấp nổi
vì cô đơn
vì băng lạnh
vì quạnh hiu
em tìm anh
trong nốt nhạc xanh
dịu nỗi đau
dịu tâm hồn
băng lạnh
quạnh hưu
và vô tận
Hà Nội mùa thu 95
Nghiêm Thúy Băng
Ðây là hai bài thơ của bà Nghiêm Thúy Băng, vợ nhạc sĩ Văn Cao gửi qua từ Hà Nội bằng đường bưu điện, xin gửi đến bạn đọc vhnt.
PCL
Các bạn thân:
Dưới đây là vài bài thơ của Thanh Tâm Tuyền trích từ "Liên Ðêm Mặt Trời Tìm Thấy" do Sáng Tạo xuất bản & phát hành năm 1964.
Thân,
npn
Từ Chối
Mang cơn giông trong một hồn đầy, những nhớ thương cùng dĩ vãng. Chiều thu bay cố nhớ thành phố tươi cười, vườn cây trái mương tràn sông, hoa điên cỏ dại.
Còn muốn sống như nguồn nước đổ, sao em trả lời bằng bệnh viện mắt kín mưa đêm?
Người ta muốn thay đổi. Từ một giọt đất nồng lên nhựa cây lên mật hoa. Từ một quãng tối tăm thành con chim trên ngực áo, ở đấy tiếng đập tim và hơi thở quyến luyến cho đẹp những hình ảnh ôm ấp đắm say mái tóc. Cuộc đời là một đứa trẻ con bị hất hủi sẽ lớn lên và người ta cần thay đổi.
Trong cánh tay ôm của người tình lạnh lùng bí mật như đêm khuya, em ngã vào để biết mình nhảy qua hai bờ vực không.
Một thi sĩ nào đã nhủ: khi đặt một bàn tay vào lòng một bàn tay thì hai bàn tay đã hóa thành đôi chim sẻ. (nhưng đừng là những bàn tay lạnh giá. Ôi, nỗi chết.)
Giữa sống và mình, giữa chết và mình không ngăn cách đừng tìm kiếm. Ði vào đám đông, ngủ cô đơn trên giường bệnh hay sẽ nằm mãi mãi ngoài nghĩa địa vẫn chẳng có gì khác lạ.
Ðứa trẻ bị hắt hủi đòi được dong chơi hè phố cùng người thân hay nằm giữa cánh đồng đêm sao mùa hè mà ngó.
Chân lý ngây thơ là đứa trẻ đặt trái tim lên bàn tay ngửa và muốn mọi người bắt chước.
Hơi thở sẽ chuyển dời kẻ tình địch lạnh lùng bí mật như đêm khuya lẩn lút ngoài bãi trống - định luật tự nhiên như hơi thở ấm đầu tiên trở lại.
Dạ Khúc
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hy vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hanoi
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mải than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng dậy
Người bán háng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những dày vò ngày mai
Nói Về Dĩ Vãng
Hỡi Liên những Liên và Liên
Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu xó chợ.
Hỡi Liên những Liên và Liên
Dù một chút đau thương, từ chối, tổ quốc ta chạy dài trên địa ngục, xòe mở hai bàn tay anh khóc đó - những ngón tay gầy trơ xương chọn. Con đường đi buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù.
Hỡi Liên những Liên và Liên
Anh muốn nghe một bài hát buồn - lời anh không thành điệu - muốn nghe một bản hát buồn. Thí dụ. Trưa nắng giữa ngã năm ngã sáu có chợ có ga, đường tàu mải miết. Bóng tối lặng thinh em hát lên làm sao mà chịu đựng, hoa lá chia sầu. Một góc bàn anh hôn mầu gỗ trống.
Hỡi Liên những Liên và Liên
Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Chẳng là anh chót yêu em vậy em biết không ? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà, làm thế nào để quên được nhau.
Hỡi Liên những Liên và Liên
Nhân Danh
Au nom du front parfait profond
ELUARD
Tình yêu không trọn vẹn
Trong hồn mắt mỗi người
Cuộc đời hổ thẹn
Ngực câm không tiếng nói
Chất cười không thuộc môi
Giác quan đói khát
Ðêm hẻm vây cửa sổ
Người ngồi quên thời gian
Tình cảm đòi mở ngõ
Bàn tay trơ tự do
Hoa chối từ tóc biếc
Hơi thở đắng đo
Sự sống còn một người
Sự sống còn nhiều người
Những người vô tội
Nhân danh
Tình yêu tự do người
Tôi được quyền kêu gọi
Những người đã chết xin có mặt
Những người còn sống xin giơ tay
Chiều Trên Phi Trường
Chiều trên phi trường anh bỗng nhớ em, nhớ chuyến đi xa ước hẹn. Ðây mùa xuân không đến, những đám cỏ hèn bên diện tích xi măng khô, bánh thép lăn nhanh thành chấn động cuồng điên, sự đổ vỡ của vô vàn ảo vọng, thuyền không gian chở người đến mùa đông tuyết giá đang già, anh ngồi lặng nhìn anh ở lại.
Bầu trời nắng như mầu bơ vơ, nắng nhiệt đới xòe bàn tay run rẩy.
Tiếng động cơ xô anh vào bẫy, trên cát lầy lún mải, tuổi thiếu niên chạy về nhảy múa trên tóc anh và gọi. Mày đã trồng những mặc cảm xum xuê trên thân đơn, những rễ chùm ác nghiệt luồn tới não tủy mày, biết không một loài cây ăn thịt. Mày đã đội vòng gai nhọn trên đầu, máu tuôn, gai tẩm độc làm rữa dần vô thức. Thôi mày hãy ôm khối lửa đỏ, định mệnh mày cừu địch, những hân hoan ngu tối cùng tự do khốn nạn.
Một lần anh hỏi em: nếu anh cho em một điều ước duy nhất trong một đời, em phải chọn? Trong hộp đêm vừa đủ gió lùa giả tháng mười ở quê hương đã mất, có tiếng hát sâu dầy như quá khứ, giữa chúng ta, những người tình đã hắt hủi anh, những người tình liệng em vào quên lãng, anh dẫn em đi những vòng quanh quẩn ngoài hiện tại để em nhìn vào mộng, em đáp: em xin được đi xa.
Ðiều chẳng khi nào anh tưởng đến. Như tình yêu buổi thơ ngây em vẫn còn hối tiếc.
Anh biết trả lời sao? Bởi anh thường tự phụ hồn anh dài bằng vô cực năm ánh sáng cho dù mãn kiếp anh chẳng thể nào vượt hết. Bởi anh thường hổ thẹn khi nghĩ tổ quốc của riêng anh, người mẹ thất lạc anh tìm kiếm, sẽ không nhìn được mặt anh.
Ngày qua ngày, rồi em từ biệt, mang theo tình yêu còn sống sót của hai đứa, tấm chăn đơn của kẻ nghèo ngày đông tận, anh trần truồng, giòng suối cạn từ nguồn không hay biển khơi vẫn vồ vập.
Anh đưa tiễn em, gửi theo những giấc mộng dấu kín hết đời, em lên đường và anh chỉ còn chân tay tẻ nhạt vô duyên như xứ sở tang thương vì bom đạn.
Chiều phi trường anh bỗng nhớ em, nhớ chuyến đi xa hẹn ước. Không bao giờ nữa.
Thanh Tâm Tuyền
yêu em từ những tiền thân
từng ngày trong cuộc sống
có ta yêu em
bằng miên man hơi thở
đất,
trời.
cho đời vẫn lạ.
chỉ mình ta thôi.
cũng đủ.
có ai yêu em như ta,
đem tim mình ra
chia cùng nhân loại
rồi chạy vòng
ngáo ngác
kiếm tim em.
vỗ ngực.
cười,
bảo mình ngông
mà lòng đau như cắt.
nên tim ngừng đập,
cho hơi thở tắt.
đành cả một đời
nhắm mắt nhìn nhau.
em ơi,
thung lũng nào sâu
vừa
cho ta cất niềm đau
một đời?
vẫn tiếng hát em.
vẫn lời ca cũ.
đêm.
ta dỗ dành
giấc ngủ.
bình an.
có con hạc trắng
về ngang
chở ta lên ngàn
tìm nàng trong mơ.
thức giấc ngẩn ngơ
dăm vần thơ rụng
dăm câu kinh trần
ta tụng
cùng cỏ nội
ngàn hoa.
giữa trời,
giữa đất
bao la
làm sao nàng biết
có
ta yêu nàng?
thôi, hãy về sám hối
ta tha thứ tội ta
và mở rộng lòng ra
ươm tình hồng một đóa.
yêu em
ta biết chân mình
đi
rất vội,
nên gót chân về
lầy lội
cơn mê.
từ em tà áo vân vê
từ ta khép
kín
đam mê
vào hồn.
thì hãy vùi chôn
tình, vào cội đá
ngàn kiếp sau nầy
đá hóa thân ta.
giữa
dòng nước cuốn trôi
xa
có con cá
lội
ngỡ
là tiền thân.
người đưa người.
chân tiễn chân.
mai sau
lời nói ngại ngần
cho mai sau
nữa
còn cần có nhau.
em ơi, em...
có biển nào
vừa
cho ta
đổ tình vào
thiên thu
Nguyễn Phước Nguyên
Sông Hương Có Nói Chi Mô!!!!
Con sông Hương vừa được nhắc tới như một dòng sông thơ hiền lành ở tuần trước thì đùng một cái, nó nhận thành phố Huế vào mùa lũ lụt chỉ sau một ngày mưa.
Những người bạn Huế ở SàiGòn nói rằng bảo sông Hương không phù sa, không bồi đắp là chưa đúng. Chính nó, sau những mùa lũ lụt, sau bao nhiêu thời gian đã tạo thành cồn Hến đó. Cái cồn nhỏ cũng tặng cho người xứ Huế món ăn bình dân nhưng cũng rất nổi tiếng: cơm hến và bắp cồn.
Những con hến nhỏ bằng đầu móng tay ngọt hơn bất cứ chỗ nào ở bờ bãi Huế. Và lọai bắp nhỏ dẻo hạt, ngọt sữa tạo thành món chè bắp không thể nhầm lẫn với bất cứ loại bắp nào cũng chỉ có ở cồn Hến. Bờ bãi là quà tặng của thiên nhiên, còn bắp cồn là mồ hôi của người.
Cơm hến vẫn còn ở Huế. Chỉ bắp cồn là biến mất sau nhiều biến động kinh tế. Những người xa Huế trong tối mưa hôm nay ở Sài Gòn bên ly rượu hoài cảm đang nhắc về Huế mùa bão lụt và món chè bắp cồn mà tuổi thơ của họ đã từng được nhấm nháp, gặm quên thôi những ngày mùa hè Huế.
Còn người bạn vừa ở Huế về nói sông Hương giống tâm hồn, tính cách Huế. Êm ả, trầm mặc nhưng ẩn chứa sóng ngầm. Không biết trước được điều gì bởi mới hôm trước anh còn đi dạo trên phố Huế thì ngày hôm sau đã bó gối ngồi khách sạn bởi sông Hương tràn bờ, thành phố ngập trong nước lũ.
Ðỗ
12-10-1995
TT 14-10-1995
Dung Nguyen sưu tầm
Disclaimer: vhnt đăng bài viết sau đây của cố nhạc sĩ Văn Cao, như một tài liệu về một bài quốc ca, với những chi tiết về cuộc đời của người nhạc sĩ tài hoa, không hề với một mục đích chính trị hay chủ đích nào. Bài viết được đăng trên báo Văn Nghệ ở VN.
Bài Tiến Quân Ca
Sau triển lãm duy nhất 1944 (Salon-unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh - Nhà Khai Trí Tiến Ðức - và được các báo giới thiệu cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống bằng hội họa tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không nói đến tiền nhuận bút. Tôi chưa bao gìơ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn.
Ðối với những cây bút trẻ, việc đăng báo là một vinh dự, người ta phải mua báo và còn mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, tặng bạn thân. Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn tìm việc làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói. Những người bạn nuôi tôi cũng gặp nhiều khó khăn.
Căn gác 45 ấy bắt đầu đông người thêm. Mấy người bạn tôi cũng bỏ Hải Phòng để lên đây kiếm việc. Họ đều là những bạn hướng đạo, trước đây chưa hề phải lo đến chuyện làm ăn. Những năm trước, chúng tôi thường kéo tới nhà nhau để sống hàng tháng trời bắt gia đình phải nuôi hay thỉnh thoảng mang lều đi ra ngoài thành phố, về những nơi có núi đồi để cắm trại và ca hát. Ðầu tiên chỉ có hai người tới ở chỗ tôi, sau đấy lại thêm ba người nữa và có người chỉ mới biết tôi qua bạn bè cũ. Căn gác 45 ấy biến thành một cái quán trọ cuả những người thất nghiệp. Hàng ngày mỗi người đi tìm bạn bè trên phố để kiếm ăn. Ðêm đêm họ phải nằm trên cái sàn nhà lát gỗ. Bởi vì tôi chỉ có một cái giường nhỏ. Chủ nhà đã cắt điện vì tôi không có tiền trả hàng tháng. Tôi phải làm việc với một ngọn đèn dầu. Ðã hết những câu chuyện tâm tình, những ước mơ và khát vọng của tuổi thanh niên. Mỗi đêm, chúng tôi chỉ nhìn thấy nhau với những bộ mặt chán chường thất vọng. Ðôi lúc có những bộ mặt thấy vui hơn. Ðấy là dấu hiệu thắng lợi của những người gặp may trong ngày đã kiếm được một bữa ăn ngon, hay một số tiền nhỏ do bạn bè bố thí. Chúng tôi ở với nhau không ai nghĩ đến sự giúp đỡ nhau. Mạnh ai tìm lấy việc, tìm lấy cơm ăn hàng ngày. Không chí hướng. không mục đích.
Buổi sáng mỗi lần ra đi, tôi thấy họ vẫn nằm ôm nhau trên sàn gác, dù nắng đã chiếu vào giữa nhà. Thấy tiếng kẹt cửa họ cũng không buồn cựa quậy. Có lúc trở về vào hai ba giờ chiều tôi vẫn thấy họ nằm như buổi sáng. Anh em thường gọi đấy là những ngày phải "gồng". Tiếng "gồng" có nghĩa là chịu đói. Tiếng "gồng" theo nghĩa võ là chịu đòn. Nhóm thất nghiệp còn đặt thêm nhiều từ để chỉ sự đói: "ép gồng, ép rệp". Những cảnh "gồng" thường diễn ra ở căn gác xép ấy.
Người "giải gồng"_ có nghĩa là giải được sự đói _ giỏi nhất là tôi. Mỗi buổi sáng ra đi tôi thường không biết là sẽ đi đến đâu và sẽ làm gì, và chỉ cầu vào sự may mắn: may gặp bữa ăn ở nhà một người bạn, may gặp một người bạn mời ăn ở dọc đường. Nhờ những năm học vẽ tại Hà Nội, tôi có một số bạn nên gặp được nhiều may mắn. Nghe tiếng chân của tôi lao trên lao trên mấy bậc thang gạch, mấy anh bạn trở mình nói với nhau: "nó hôm nay lại thấy về sớm ?" Tôi nhìn các bạn nằm trên sàn gác nhịn đói không biết nói gì thêm. Cái đói đã trói chúng tôi lại một nơi này.
Có một lần tôi khệ nệ xách lên gác một con cá mè dài gần một sải tay. Cả bọn vùng dậỵ Mặt anh nào cũng sáng hẳn lên:
- Ở đâu ra cái của này?
- Bà mẹ Nguyễn Ðình Phúc cho đấy.
Tôi chỉ kịp ngồi thở, vì đã phải đi bộ xách cá từ hàng Than về. Bà mẹ nhạc sĩ ấy nay đã mất rồi, nhưng chúng tôi không thể quên ngày chúng tôi nhờ mẹ mà có môt bữa đỏ lửa trên sân gác. Một bữa "tiệc" với món cá luộc chấm muối chưa bao giờ ngon lành và no nê đến thế. Hình như chỉ có một buổi tối hôm ấy chúng tôi mới ngồi hát để ôn lại những ngày lửa trại. Hình như chỉ có một buổi tối hôm ấy thôi có người trong chúng tôi mới kể đến những chuyện về tình yêu.
Thế rồi bỗng nhiên họ rẽ nhau đi hết trong một ngày. Và căn gác bỗng lạnh vắng. Bọn họ đã tìm được công việc trong một dịp may. Một người chủ thầu chợ Hà Ðông nhận tất cả làm nhân viên dán vẽ. Riêng tôi không thể làm nghề ấy được. Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng vào những ngày đầu thu năm 1944.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các cháu nhỏ ấy từ Nam Ðịnh ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Ðôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đở. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký hoạ để sưởi. Ðêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói cuả tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D. là người của đoàn thể, và thường chú ý giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ làm cách mạng thì phải bỏ văn nghệ, con đường của một người làm cách mạng là phải thoát ly phải hy sinh như gương chiến đấu của các đồng chí mà tôi đã được biết qua sách báo. Nhưng tôi vẫn có thể làm những gì khác với việc thoát ly _ tôi chỉ hiểu tổ chức đến thế_ có thể là bằng sáng tác, bằng những hành động mà tôi có thể dễ làm nhất như nhận dạy hát cho một đoàn thanh niên về những bài ca yêu nước, hay tham gia những buổi biểu diễn giúp đỡ người nghèo v.v... Tôi chỉ biết sáng tác một số ca khúc về đề tài lịch sử, kêu gọi xa xôi lòng yêu nước. Tôi chưa dám làm một bài ca cách mạng. Và cũng chỉ có thế thôi, thanh niên học sinh và anh em hướng đạo đã khuyến khích tôi. Sự khuyến khích ấy đẩy tôi vào nghề nhạc sau này. Lần này Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng an'nh sáng thần thánh.
Một hôm Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Qúy không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội. Văn có muốn gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Qúy trong những ngày còn là vận động viên bơi lội của Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nộị Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Qúỵ Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Ðống Ða, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số những ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cồ Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Ðược.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Qúy đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu hướng đạo. Khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm một âm thanh đầu tiên. Nhưng đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Ðôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Ðịnh - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Ðêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.
Những ngày ấy Ph. D. sống chung với tôị Thỉnh thoảng anh về Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gởi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều. Các báo chí gởi về các cơ sở như "Cờ Giải Phóng" và "Cứu Quốc" cũng tăng thêm số lượng. Tất cả đã chất đầy mặt bàn tôi. Những tin đấu tranh ở các tỉnh được phản ảnh đầy đủ trên báo chí. Tin về các đội du kích thành lập. Rồi những tặng phẩm gửi tôi có thêm cả máy ảnh, ống viễn kính, cả những bì gạo. Mỗi vật tiếp nhận càng cho thấy sự phát triển lớn mạnh thêm của phong trào quần chúng đô thị và nông thôn. Những cột báo không đăng hết được danh sách những người ủng hộ Mặt trận.
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca.
Ngày nay tôi vẫn không sao nhớ nổi, dù nhớ đủ mọi kỷ niệm, rằng mình đã soạn nhạc bằng phương tiện nào, một cây đàn ghi ta, một măng đô lin hay một băng-giô. Cũng không nhớ tôi đã mượn đàn của ai và ở đâu. Có thể bài "Tiến quân ca" đã soạn trên một chiếc ghi-ta Ha-oai chăng ? Bởi vì tôi đã quen sáng tác trên cây đàn này những năm trước đây.
Bài hát đã làm trong không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy lùm cây và một màu trời xám. Ở đấy thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói đi về phía Khâm Thiên. Ở đấy hàng đêm mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một anh viên chức nghèo khổ thiếu ăn dưới nhà vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đấy tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở đấy có những tiếng đập cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Ðịnh lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và đang bị đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, của các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ nhiều hôm. Tất cả đang chờ tôi tìm cách giúp đở. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường ga, đường hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy, để biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được.
Ðoàn quân Việt Minh đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên
đường gập ghềnh xa...
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho một tiếng còng vang vọng.
Ðoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phất phới
Dắt giống nòi quê hương
qua nơi lầm than...
Không, không phải chỉcó những học sinh khóa quân chính kháng Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang dồn bước, mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng Long Hành Khúc Ca:
Cùng tiến bước về phương Thăng Longthành cao đũng...
hay trong Ðống Ða:
Tiến quân hành khúc ca
Thét vang rừng núi xa...
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến Quân Ca và tiếng hát ấy ở đoạn cao trào của bài hát:
Tiến lên! cùng thét lên!
Chí trai là đây nơi ước nguyền...
Trên mặt bàn chỗ tôi làm việc, tờ Cờ Giải Phóng đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai. Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Qúy. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười của đồng chí Nguyễn Ðình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt Trận Việt Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt Phát Xít" trước tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt Phát Xít" của Nguyễn Ðình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng tôi cùng phụ trách.
Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang lên những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.
Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà hát lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi. Anh Ph. D. qua loa phong thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó. Cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất.
Ngày 18 tháng tám 1945, đội thiếu niên tiền phong đến tìm tôi nhận nhiệm vụ mới. Tôi không biết giao việc gì cho các em lúc này khi chúng tôi không phải nhờ các em làm nhiệm vụ trinh sát như trước đây các em đã giúp chúng tôi hết sức thông minh và dũng cảm. Chúng ta sẽ bắt tay vào nhiệm vụ mới của cách mạng. Các em sẽ quay về với công việc học tập hàng ngày của các em. Lúc này... lúc này chúng ta hãy tập hát. Một dàn đồng ca được thành lập ngay trong Trụ sở Hướng đạo tại phố Hàng Trống, nơi chúng tôi thường sinh hoạt với các em. Tôi đã hướng dẫn các em học bài Tiến Quân Ca để ngày hôm sau làm lễ chào cờ.
Lúc ra về, một em bé khệ nệ ôm một gói khá to và nặng đến gặp tôi. Ðó là một em làm việc ở nhà in Lê Văn Tâm. Tôi ngạc nhiên nhìn em mở bọc giấy ra trước mắt các đội viên: một gói truyền đơn mà em đã từng đêm trốn lại buồng máy, tự xếp chữ và in lấy được vài trăm tờ theo một khẩu hiệu mà em đã được xem trên báo Cứu Quốc ngày gần khỡi nghĩa. Tôi chợt nhìn đôi mắt đầy tự hào của em. Ðôi mắt em đẹp quá! Tôi ngờ ngợ như đã nhìn thấy đôi mắt ấy từ bao giờ. Ðôi mắt của những đứa trẻ bị lạc!
Ngày 19 tháng tám 1945, một cuộc mít-tinh lớn họp tại quảng trường Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến quân ca" chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi, có còn nhớ lại cái buổi sáng tháng Tám nắng vàng rực rỡ ấy? Nhớ lại giọng hát cuả họ lẫn với giọng tôi vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng? Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù vào mặt bọn đế quốc với sự hào hùng chiến thắng của cách mạng.
Bài " Tiến Quân Ca " đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó. Nay nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa tiến lên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam, bài "Tiến quân ca" hẵn còn vang vọng mãi tác dụng của nó như thưở nó ra đời trong buổi bình minh kỷ nguyên mới của lịch sử đất nước.
Văn Cao