vhnt, số 96
30 October 1995
Trong số này:
+ 1 - thơ, Ừ Thôi, Trương Nguyễn Thi Thanh
+ 2 - thơ, Tự Tình, Nguyễn Tự Hào
+ 3 - thơ, Áo Trắng, Vivian T. Nguyen
+ 4 - đoản văn, Bỏ Tôi Đứng Bên Đời Kia, Chinh Đinh
+ 5 - thơ, Thu, Quach Cuong
+ 6 - thơ, Trăng Vàng Cho Em, Diem V. Nguyen
+ 7 - truyện ngắn, Ðoạn Cuối Cuộc Đời, Bùi Thanh Liêm
Ừ Thôi
về T.
Sao tôi quên được người
đã một lần chung bước?!!
Cửa hồn tôi rạn nứt
khi tay nối rời xa
Chuyện ngày ấy đôi ta
phải chăng là ảo tưởng?
Chút tình kia vay mượn
xin trả lại cho tôi!!
Ừ thôi thì cũng thôi
người về đi kẻo muộn
Chuyến tàu sau cuồn cuộn
mịt mù khói hiển danh
Ừ thì thôi cũng đành
tiễn chân người ra bến
Nếu một mai có đến
hẳn người đà quên tôỉ
Nấc lên muốn trao lời
mà sao tim đành đoạn
Đường trường đâu một khoảng
mong người vững tâm đi
Ừ thôi có những gì
tôi về gom kỷ niệm
tóc buông thề trên phím
chùng vạn ngón đơn duyên...
Trương Nguyễn Thi Thanh
Tự Tình
Tựa tơ trời tình tôi thơ thẩn
Trôi thênh thang tới tận thiên thai
Tâm tư thôi than trách tục trần
Theo tiếng tiêu thần tìm tình tiên...
Melbourne - 22/09/92
Nguyễn Tự Hào
Bỏ Tôi Đứng Bên Đời Kia
lòng tôi có khi tựa như vắng ai
nhiều khi muốn quay về, ngồi yên dưới mái nhà...
tcs
Thấm thoát đã gần năm năm. Kể từ ngày còn vui chơi trên núi đồi mù sương Ðà Lạt. Những ngày còn thả cánh diều chiêm bao trên đồi Cù, hoặc đi lang thang một mình giữa phố Hoà Bình. Ði, như mệnh lệnh của đôi chân không biết mỏi. Ði, như một hạnh phúc trong cuộc hẹn với Ðời.
Tuổi thơ đó thật kỳ thú. Kỳ thú như một đám mây, một con gió. Bay và bay mãi mãi như định mệnh của "đứa con đi hoang". Ngày ấy, tôi suốt đời chỉ mong muốn làm một đứa con đi hoang. Ðể đi mãi, để làm bạn với chuồn chuồn, với hoa quỳ, với rừng thông.
Tôi đi học ở Sài Gòn, nhưng tôi vẫn luôn mơ nghĩ đến thành phố sa mù kia. Sài Gòn chẳng cho tôi những buổi chiều tà nhìn sương mù rơi xuống. Sài Gòn cũng không có những con đường dài vắng người để lang thang một mình. Sài Gòn nắng gắt quá! Nên mỗi năm vào hạ, tôi lại đi Ðà Lạt. Ði - cũng có nghĩa là trở về. Trở về với những gì tầm thường mà gắn bó và êm đềm: một ly sữa đậu nành nóng bên đường, một đóa hoa bất tử vàng óng...
Sống trong một phòng trọ chật hẹp ở Ðà Lạt, tôi đã có những tháng ngày thơ mộng (mơ mộng?). Nhìn ra cửa sổ là những nhành hoa mimosa, hay có khi bắt gặp vài cụm tường vi. Tôi đã hát thầm câu hát của Trịnh Công Sơn:
một hôm bước chân về gác trọ,
chợt nhớ đóa hoa tường vi
bàn tay ngắt hoa từ phố nọ
giờ đây đã quên vườn xưa
...
vì em đã mang lời khấn nhỏ
bỏ tôi đứng bên đời kia...
Tôi đã giữ Ðà Lạt trong suốt những mùa Hạ xanh biếc. Những mùa Hạ cứ đi qua và suốt đời tôi vẫn chỉ mong làm một con gió ham chơi...
Nhưng một hôm nào đó, con gió ấy đã đuối sức. Ðứa con đi hoang đó đã không còn nữa một cuộc hành trình cho hôm mai. Lần này, tôi phải ra đi. Ra đi hẳn, ra đi đứt. Ði để nhận ra một cách buồn bã rằng tôi sẽ mất đi mãi mãi Ðà Lạt và những bạn bè thân thiết...
Tôi chẳng bao giờ có ý niệm rõ rệt về sự chia tay. Nhưng tôi đã hoảng hốt trên biên giới giữa sự chia tay và ở lại. Trên biên giới đó, tôi đã nhắm mắt buông xuôi để rồi hôm mai thức dậy thấy ngoài khung cửa là một vùng tuyết trắng. Ðóa tường vi ngày xưa chắc cũng đã tàn rụng dần trong mùa mưa dầm Ðà Lạt.
Con người tiếp tục cút bắt và thù oán nhau giữa xã hội khắt nghiệt này. Người ta vẫn thường nói: cuộc sống ở đây như một cái máy. Tôi có lẽ không hợp với "máy móc" nên chỉ đứng ngoài nhìn và chóng mặt theo. Tôi đã tự đóng một chiếc thuyền nhỏ bé để đưa mình đến một phần đời khác, vốn chẳng được dành riêng. Cánh diều ngày xưa theo tôi bay trên Ðà Lạt bây giờ ở đâu làm sao tôi biết. Những chiều buồn ngồi lục lại thư từ cũ của bạn bè, tôi đã bắt gặp câu thơ của Hoàng Cầm:
anh đứng đây là đâu
em cười như lá mỏng...
Tôi đứng đây là đâu?
Những câu thơ này giờ đây là người bạn thân thiết của tôi. Ðó là kỷ niệm mà mỗi ngày đùn lên như đống lá vàng. Những giòng chữ ngây ngô này là một món quà chắt chiu dành giữ cho riêng tôi. Vì tôi không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ viết. Có lẽ những giòng chữ này là một có mặt riêng tư để thoát khỏi sự quên lãng quá khứ. Và nó cũng là nhân chứng cho một ngày ai đó đã bỏ tôi đứng bên đời kia.
10.26.1995
Chinh
tựa đề trích từ một câu hát của Trịnh Công Sơn: 'vì Em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia...'
Thu
Sáng nay thu đến nhẹ bên thềm;
Mây còn say ngủ, nắng còn êm;
Ðọng trên xác lá, nàng sương ướt;
Cúc nở bên hè, hương sắc thêm.
Thu về trăng sáng rỏ trong đêm;
Gió thổi đùa mây, rất êm đềm;
Lao xao tiếng lá, thầm như nói;
Thu thiết tha tình, thu ấm êm!!!
Quách Cường
Calif. 10/22/95
Trăng Vàng Cho Em
họa theo bài Trả Lại Anh của HP
Em giữ dùm anh mảnh trăng vàng
Ấp ủ ôm ghì mảnh trăng sang
Để trăng được hưởng mùi hương phấn
Của những đêm anh ở cạnh nàng
Đừng trả lại anh mảnh trăng vàng
Khi nào em định bước sang ngang
Thì em gửi trả trăng vành ấy
Kẻo trăng anh khóc phận bẽ bàng
Ngày em trao trả mảnh trăng vàng
Có lẽ Hà Thành phải để tang
Cho cuộc tình duyên không trọn vẹn
Cho lệ anh rơi rớt hai hàng
TTTN-KV
10/71
Ðoạn Cuối Cuộc Ðời
Tiếng khóc trẻ con oe oa vang lên vào một buổi sáng sớm, trong căn phòng vắng lặng. Bà Thược ngồi thẳng dậy trên giường, hai chân mò mẫm tìm chiếc dép. Bên cạnh, ông Phong, chồng bà vẫn ngủ say như chết, tiếng ngáy chậm và đều như tiếng kéo gỗ. Bà Thược bế đứa nhỏ ra ngoài phòng khách, chuẩn bị nấu nước sôi pha sữa. Khi đi ngang qua nhà bếp, bà tình cờ thấy được một mẫu giấy nhỏ mà vợ chồng chủ nhà ghi chú lại cho bà, những việc cần làm trong ngày hôm nay: pha sữa cho thằng Ti, nấu nướng, giặt giũ quần áo, lau chùi nhà bếp, phòng tắm, hút bụi, vân vân...
Bà định ngồi xuống chiếc ghế salon còn bọc giấy nylon, chuẩn bị mớm bình sữa cho thằng nhỏ, nhưng bà chợt nhớ ra là vợ chồng chủ nhà dặn rằng bộ salon này dành riêng cho khách. Bà đành ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh. Chiếc ghế cũ mèm, góc cạnh rách bươm, lòi cả nệm lót ra ngoài. Thấy bình sữa, thằng bé mắt sáng lên, nín khóc, và hai tay ôm chặt lấy, mút chùn chụt. Ôm đứa cháu trong tay mà trong lòng bà Thược chẳng thấy một chút cảm xúc nào. Tiện tay bà cầm lấy cái hộp điều-khiển-từ-xa, bấm nút mở truyền hình. Trên màn ảnh, cô phát ngôn viên có mái tóc bạch kim đang đọc tin tức buổi sáng, bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ đối với bà. Bà lại bấm nút chuyển đài, chủ yếu là để xem hình cho vui mắt. Thêm vài băng tần nữa, lại cũng một thứ ngôn ngữ bà không thể hiểu được. Cuối cùng bà tắt máy, và im lặng thở dài. Có tiếng điện thoại. Sợ làm mất giấc ngủ của chồng, bà vội chụp lấy ống nghe trước khi có tiếng reo thứ hai. Bên kia đường dây, lại một tràng âm thanh lạ tai. Bà định nói rằng không biết tiếng Anh và chủ nhà không có ở đây, nhưng ú ớ mãi không biết làm sao, bà phải đành gác máy giữa chừng. Bà lại thở dài, và buột miệng nói một mình: "Thật là như câm với
điếc!"
Người ta vẫn quan niệm ở một đất nước văn minh, vật chất dư thừa, tâm hồn con người trở nên tươi tắn hơn, bằng chứng là các bà, các cô Việt Nam sang đây ai cũng trẻ hẳn ra. Ở trường hợp bà Thược thì ngược lại, từ ngày sang định cư ở đất Mỹ này bà cảm thấy ngày càng cằn cỗi, cả tâm hồn lẫn thể xác. Năm nay, tuổi mới tứ tuần mà bà đã trở thành một bà nội, bà ngoại bất đắc dĩ. Những lúc yên tịnh như sáng sớm hôm nay làm cho bà Thược suy nghĩ rất nhiều. Ðùng một cái, cả một vùng quá khứ bỗng trổi dậy.
oOo
Ngược dòng thời gian. Hai mươi năm về trước. Những năm tháng cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc sống êm đềm của cô gái Huế bỗng dưng có nhiều biến chuyển đột ngột. Xưa nay, nàng không đòi hỏi gì hơn, chỉ một đời sống giản dị, thanh bình trên quê hương, êm ả bên dòng sông Hương, dãy núi Bến Ngự, ngôi chùa Thiên Mụ. Nhưng biến cố Mậu Thân vẫn còn hằn ghi trong ký ức của người dân Cố Ðô. Thế là mùa hè đỏ lửa năm ấy gia đình Thược cuốn gói hành trang xuôi vào Nam lánh nạn.
Vào trong Sài Gòn định mệnh nào đó đã đưa nàng đến với Phong, một cựu sỹ quan với dáng dấp hào hoa phong nhã. So với những thiếu nữ thời ấy, ở lứa tuổi 25 như Thược, tình yêu đến với nàng có thể nói hơi muộn. Sống giữa lúc triền miên khói lửa, nàng đã chứng kiến biết bao nhiêu bạn bè cùng trang lứa, trong thoáng chốc đã trở thành góa phụ ngây thơ; đó cũng là lý do trong những năm tháng vừa qua nàng còn chần chừ mãi ở ngưỡng cửa ái tình. Nhưng bù lại tình yêu của nàng dành cho Phong thật chín chắn. Mặc kệ người đời dè bỉu, vì Phong lớn hơn nàng 20 tuổi và đã một lần dang dỡ. Nàng bất kể miệng mồm nhân thế, vì nàng yêu chàng say đắm bằng một tấm lòng chân thật.
Trong quá khứ Phong từng là sỹ quan kiêu hùng của binh chủng biệt động quân. Và trong một trận tác chiến khốc liệt, một mảnh đạn của kẻ thù đã làm hư một bên mắt trái của anh, và anh được cấp giấy giải ngũ và được bổ nhiệm về làm việc văn phòng hậu cứ từ đó.
Tháng Tư Ðen. Kẻ thù tràn qua biên giới. Lúc ấy Phong có cơ hội theo đồng minh, xuất ngoại, nhưng chàng quyết định ngạo ngược. Sau khi đưa các con lên máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, chàng quay về với người yêu. Gia đình Thược thật cảm động với sự hy sinh của chàng và họ quyết định gả cô con gái duy nhất trong gia đình cho Phong. Một cái đám cưới cấp tốc được tổ chức ngay sau ngày miền Nam đổi chủ. Với lý lịch thương phế binh, Phong đã không phải lên đường đi học tập "ba ngày" như các sỹ quan khác của chế độ cũ. Những năm sau đó, hai vợ chồng dọn về an cư lạc nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hạnh phúc êm trôi theo ngày tháng.
oOo
Gần hai mươi năm sau. Phong và Thược bây giờ đã được người ta gọi bằng ông và bà. Hai mươi năm dài, mối ân tình vẫn còn thắm thiết như thuở ban sơ, mặc dầu ở hai người không có được một đứa con nối dõi tông đường. Ông Phong, mặc dù đã ở lứa tuổi lục tuần nhưng vẫn còn rất phong độ. Suốt ngày lăn lộn với sông nước đã tạo cho ông một thân hình lực sĩ với nước da rám nắng, rắn chắc. Về phần Thược, phụ nữ Việt Nam ở tuổi bốn mươi không còn gọi là trẻ nữa, nhưng bà vẫn cảm thấy như trẻ mãi, một phần là nhờ tình yêu chất ngất của ông dành cho bà trong suốt hai thập niên qua. Cuộc đời ngỡ rằng sẽ mãi êm trôi nếu như ông Phong không bắt liên lạc được với những đứa con của người vợ cũ. Các con của ông giờ đã trưởng thành và hiện đang định cư ở một tiểu bang vùng Ðông Nam nước Mỹ. Ðó là những năm cuối thập niên tám mươi, khi phong trào ra đi có trật tự ở giờ cao điểm. Cuối cùng hai vợ chồng quyết định lên đường đoàn tụ. Ðối với Thược, xa quê hương, bạn bè là điều bà không muốn, nhưng vì chồng bà đã phải hy sinh.
Do đó mà bà Thược đã có mặt ngày hôm nay, ở nơi chốn này. Tiếng lục đục kéo bà trở về hiện tại. Trong phòng ngủ ông Phong đã thức dậy. Bà vội đi vào nhà bếp pha một ly cà-phê phin cho chồng. Cái thời khóa biểu máy móc của chồng bà đã thuộc nằm lòng. Sáng dậy điểm tâm xong, đi dạo biển, rồi về nhà vui chơi với máy đứa cháu đến trưa, rồi lang thang qua nhà mấy ông bạn già trong vùng, đến chiều ông sẽ có mặt ở nhà trước khi hai vợ chồng chủ nhà trở về, và mọi người chuẩn bị ẩm thực bửa cơm tối do bà Thược đảm trách.
Nuốt xong bát cơm đầu tiên, Phùng, thằng con trai thứ của ông Phong ném cái bát vào bồn rửa chén, tỏ vẻ bất bình. Bà Thược quay qua dịu dàng với cậu chủ:
- Răng rứa con? Chắc tại dì nấu không vừa miệng hỉ?
Cậu chủ không thèm trả lời bà mẹ ghẻ, quay qua cô vợ:
- Thịt kho mặn quá!
Cô chủ không vừa, đốp chát lại ngay:
- Thì sao? Mắc mớ gì anh lại phàn nàn với tôi.
- Cũng tại em hết!
- Cái gì? Vừa phải thôi à nghe.
- Ðã bảo là đi chợ mua thịt thà cho đầy đủ, mình đâu túng thiếu đến nỗi phải ăn muối!
Bà dì ghẻ ôn tồn giải thích:
- Lỗi ni tại dì. Thịt nớ vẫn còn đầy trong tủ lạnh. Tại dì quen kho theo kiểu Việt Nam, thịt tôm kho mặn thì bùi. Thôi để lần sau dì bớt mắm muối cho vừa miệng các con hỉ.
Ông Phong cũng vừa ăn xong. Ông gác đũa trên bát, bỏ đi lên phòng khách chơi với mấy đứa cháu. Tuy không hài lòng với thái độ hỗn xược vừa rồi của thằng con trai, nhưng ông không dám lên tiếng. Ngay từ hôm đầu mới sang Mỹ ông đã bị cậu quý tử gò ép vào đời sống mới, trong đó nó là chủ. Riết rồi trở thành thói quen, càng ngày ông càng cảm thấy lép vế, đến nay thì ông đã mất hẳn quyền tự do ngôn luận trong gia đình này. So với những sóng gió hàng ngày xảy ra trong căn nhà này thì những lời mắng nhiếc vừa rồi chả thấm vào đâu.
Sức chịu đựng của con người có hạn. Mối quan hệ mẹ ghẻ con chồng ngày càng trầm trọng. Nhiều lúc bà có cảm tưởng mọi người trong gia đình coi bà như một cái gai trong nhà. Những lúc ngồi một mình bà nghĩ thầm biết thế đừng qua bên này làm gì. Những người già rời Việt Nam đa số là phải bắt buộc, phải hy sinh cho tương lai của các con của họ. Còn đối với bà và ông Phong, không con không cái mà cũng vác xác sang đây làm lại cuộc đời từ đầu thì thật là dại! Bà có một người em họ đang sinh sống ở thành phố Chicago. Những chuyện tủi thân bà thường đem than thở với cô em họ này. Và cô ta hết lời khuyên bà dọn về Chicago. Bà suy nghĩ rất nhiều về chuyện nên đi hay ở lại, nhưng cuối cùng bà quyết định không thể bỏ chồng. Ðây cũng là một thử thách cho bà. Tình cảm vợ chồng mặn nồng suốt mấy chục năm qua, không thể bị lay chuyển vì một chuyện không đáng gì.
Thời gian sau này, bà Thược kiếm được việc làm trong hãng may. Bà vắng nhà nhiều hơn nên ít phải đối phó với những chuyện bực mình. Hơn nữa từ khi bà đi làm, có tiền đóng góp vào trong ngân khoản gia đình nên không nhiều thì ít cũng tạo được cảm tình với vợ chồng chủ nhà. Cuộc sống tạm dung có thể nói tương đối ổn thỏa đối với bà. Sóng gió tạm dịu đi được một thời gian. Nhưng rồi đùng một cái những cơn giông tố khác lại ùn ùn kéo đến. Mọi sự bắt nguồn từ bà Ái, bà vợ cũ của ông Phong. Bà Ái xưa nay vẫn theo dõi những sinh hoạt của người chồng cũ từ khi ông sang định cư bên này. Bà nghe kể lại, từ các con, rằng ông Phong vẫn còn phong độ lắm, mặc dầu đã ở lứa tuổi lục tuần.
Bà Ái là một người đàn bà lẳng lơ, nhưng cũng rất khôn ngoan xảo quyệt. Sự thật thì bà cần một nơi nương tựa trong những năm đầu bơ vơ nơi xứ người. Hôn nhân giữa bà và ông chồng mũi lõ, mắt xanh không dựa trên căn bản của tình yêu, do đó đã đưa đến đổ vỡ nhanh chóng. Hiện tại, bà đã ly dị và đang sống chung với một anh kép nhí đáng tuổi con trai bà. Ðáng lý ra thì bà phải thỏa mãn với hiện tại mà bà đang có, với một tài sản kếch xù do cuộc hôn nhân với người chồng Mỹ mang lại, cộng với tình nhân trẻ đang mang đến cho bà những ngày tháng thần tiên ở lứa tuổi hồi xuân. Nhưng không. Ngay sau khi nghe tin ông Phong đang sống hạnh phúc với một người đàn bà trẻ, những ganh ghét, tị hiềm trong bà tự dưng trổi dậy.
Thói đời là vậy. Ăn không được thì đạp cho đổ. Mặc dầu không có thù oán riêng tư gì với bà Thược, nhưng bà Ái cảm thấy rất khó chịu khi biết rằng có người đàn bà khác đang hạnh phúc bên ông Phong, vì đó là điều mà bà không có được. Bà nhiều phen tìm cách liên lạc người chồng cũ nhưng bà không biết nên bắt đầu bằng cách nào.
Một lợi điểm mà bà Ái có được là thằng con trai của bà lúc nào cũng muốn chắp nối bà và ông Phong. Mặc dù không chấp nhận cuộc sống thác loạn của bà mẹ, Phùng vẫn giữ mối quan hệ với bà, và trong ý nghĩ thiển cận của cậu ta, thì mẹ mình sẽ chấm dứt cuộc sống sa đọa một khi bà trở lại với ông Phong. Sau khi bà Ái ly dị ông chồng Mỹ, bà được chia cho số tiền không phải nhỏ, và nghe lời con trai và con dâu, bà đem bỏ hết đầu tư vào một nhà hàng bán thức ăn Tàu. Nhân dịp nhà hàng khai trương, thằng Phùng và vợ nó tìm cách cho bố mẹ tái ngộ, và dĩ nhiên là không có sự hiện diện của bà Thược.
Thế rồi tình cũ không rủ cũng lại. Từ sau cái hôm liên hoan đó, ông Phong trở nên gần gũi với người vợ cũ hơn. So với các phụ nữ Việt Nam ở lứa tuổi 50, bà Ái vẫn còn giữ được sức lôi cuốn mảnh liệt, từ dung nhan cho đến thể xác; một phần nhờ bà vẫn thường xuyên thăm viếng các thẩm mỹ viện bên Houston. Thế là bà đã quyến rũ ông Phong thành công. Và bà Ái buộc lòng mời tình nhân trẻ ra rìa, để bà tận hưởng cuộc tình mới, bên cạnh người tình xưa.
Ân tình 20 năm chợt tan biến một sớm một chiều, chỉ vì lòng người thay trắng đổi đen. Ông Phong ra đi không một lời từ giã. Ông hiện đang sống chung với người vợ cũ, và hai người chuẩn bị dọn qua bên Cali. Họ muốn tránh tai tiếng bằng cách dọn đi thật xa nơi chốn này. Họ đi tìm vùng đất mới để xây lâu đài tình ái. Họ đâu biết rằng vùng đất họ vừa bỏ lại sau lưng có một trái tim tan nát, của một người đàn bà, đang sống như đã chết.
Tất cả xảy ra quá nhanh, quá sức chịu đựng của bà Thược. Bà không còn lý do gì để nấn ná trong gia đình của người con ghẻ. Tội nghiệp cho hoàn cảnh của bà, một cô bạn trẻ ở hãng may còn độc thân vui tính rủ bà về chung sống.
Suốt từ cái hôm dọn vào chỗ ở mới cho đến nay, bà Thược như một cái xác không hồn. Nói một cách khác là bà đang sống mà coi như đã chết. Nhận được tin này, cô em họ từ miền Bắc tức tốc bay xuống thăm bà.
- Bệnh tình của chị nớ răng rồi?
Thân, cô em họ của bà Thược mới từ Chicago xuống, hỏi chủ nhà.
- Em không biết, đâu chị vào thăm xem, chứ em lo quá. Suốt tuần nay có ăn uống gì được đâu. Cứ nằm mớ, gọi tên ông Phong mải thôi.
- Rứa thì găng quá. Thân nói xong tất tả bước vào phòng.
Trong bóng tối lờ mờ của căn phòng, có thể thấy được một chiếc giường làm bằng hai tấm nệm, kê sách vào vách. Bên trên đó, có một thân hình gầy gò tựa bộ xương cách trí nằm yên bất động. Giá mà không có tiếng rên rỉ nho nhỏ từ cái xác này thì có lẽ người ta tưởng rằng đây là một xác chết. Thân mở công-tắc đèn, rồi đi đến kéo tấm ri-đô, để ánh sáng bên ngoài ùa vào, xua tan không khí bệnh hoạn đang tràn ngập căn phòng.
Bà Thược trở mình, hỏi nhỏ:
- Thân đó hỉ? Em đến hồi mô rứa?
Bà hỏi bằng một giọng trầm tỉnh lạ thường, coi như không có chuyện gì xảy ra. Phải để ý kỹ lắm mới thấy nét ngượng ngập. Thân không trả lời câu hỏi đó, cô ta nói:
- Chị ngồi dậy đi, ngồi dậy nói chuyện với em một chút na.
Bà Thược ngồi dậy thật khó khăn. Bà lấy tay hất mái tóc thề ngược về phía sau lưng. Thân nói tiếp:
- Mần răng mà thê thảm như ri. Chị đã nằm liệt giường như rứa này mấy ngày ni rồi.
- Mi nói chi lạ rứa. Có chi mô, chị chỉ mệt, cần ngã lưng một chút thôi mà.
- Hừm! Bây chừ mà chị còn định dấu em nữa răng. Nhìn lại chị đi, mới có ngoài bốn mươi mà trông không khác chi một bà già, ngần nớ tuổi đời mà còn bị thất tình.
Bà Thược ngồi thừ người ra đó, thở dài. Bà không giận đứa em lên mặt dạy đời, bà chỉ buồn cho số phận hẩm hiu đời bà. Một hồi sau đó, bà lên tiếng:
- Cô lặn lội đường xa vạn dặm đến đây để chỉ nói mấy lời nớ với tôi thôi hỉ?
Thân đến bên chiếc giường, ngồi xuống bên cạnh bà, thủ thỉ:
- Em xin lỗi chị, em đã quá lời, chẳng qua là em quá lo cho chị mà thôi. Nhìn chị ra nông nỗi ni, em không khỏi đau lòng. Chị phải sống thực tế lên chị Thược ạ! Hắn đã phản bội mình thì không có lý do chi mà mình phải thương tiếc...
Bà Thược ngắt lời cô em:
- Biết là rứa, nhưng con tim đôi khi có lý lẽ của riêng nó, mà bộ não không thể kiểm soát được. Dầu gì thì tình nghĩa vợ chồng cũng đã 20 năm, đàn ông họ có thể quên được dễ dàng, nhưng đàn bà chúng ta ai cũng nặng về tình cảm. Em cũng phải cho chị thời gian để phục hồi nữa chứ.
Thân không hoàn toàn đồng ý lời bà Thược vừa phát biểu. Thậm chí nàng còn cảm thấy có nhiều mâu thuẩn, muốn phục hồi mà cứ nằm dài nhớ nhung thì e không ổn. Một ý tưởng lạ lóe nhanh trong đầu nàng. Bà chị của nàng chỉ có thể quên được người đàn ông đểu cáng kia một khi chị tìm được tình yêu mới, và nàng liên tưởng đến mấy anh độc thân đứng tuổi, bạn của chồng nàng. Ý nghĩ được làm bà mai làm nàng cảm thấy vui vui. Nàng chợt mỉm cười. Bà Thược thấy vậy liền gặng hỏi:
- Mi cười cái chi rứa?
Thân thấy chưa đến lúc cần phải nói, và nàng lờ đi:
- Ðâu có chi. Thôi chị thay đồ, đi chơi với em. Lâu lâu em mới có dịp xuống vùng miền Nam này. Hôm ni chị em mình đi New Orleans chơi, em nghe người ta ai cũng khen khu French Quarter đẹp mê tơi, mà em chưa có dịp viếng qua, phen ni nhất định phải đi cho biết.
oOo
Thời gian thắm thoát thoi đưa. Thời gian đem lại niềm vui hay nỗi buồn. Thời gian có thể là nối tiếp của niềm đau dài bất tận, nhưng thời gian cũng có thể là liều thuốc an thần, xóa đi những muộn phiền trong cuộc đời ô trọc này. Thời gian là 5 năm sau. Khoảng thời gian dài đủ để cho vết thương lòng kéo da non, đủ để cho bà Thược quên đi kẻ bội phản, vì bà cần phải quên đi để mà sống.
Thời gian đầu sau khi bà bình phục, hai vợ chồng cô em họ đã tìm cách giới thiệu nhiều người đàn ông đứng đắn cho bà. Bà cũng vui lòng tiếp đón họ, nhưng sau khi thử vài lần, bà kết luận giải pháp này không ổn. Bà còn nhớ trong những lần đi chợ, khi nhìn thấy người đàn ông móc bóp lúc trả tiền, bà bỗng chợt ứa nước mắt vì nhớ đến ông Phong. Bà biết rằng mối tình đầu cũng là mối tình cuối trong đời bà. Nếu duyên không thành, thì tốt hơn là chôn vùi vào quên lãng. Trái tim bà giờ đây không còn biết rung động nữa , những quan hệ tình cảm chỉ làm bà nhức nhối thêm mà thôi. Thế là bà quyết định không thèm đi thêm bước nữa, thà vậy còn hơn là đi chơi với người yêu mới mà trong tim ấp ủ hình bóng của người yêu cũ.
Hôm nay bà Thược thu xếp hành trang, chuẩn bị hồi hương. Chuyến này bà về Việt Nam vĩnh viễn, để sống trọn phần đời còn lại. Năm năm dài trên mảnh đất tạm dung, khoảng thời gian thỏa đủ điều kiện để trở thành một công dân Hoa-Kỳ, như điều luật của sở di trú đặt ra, khoảng thời gian quá đủ để đo lường lòng người. Hôm nay bà trở về với cố quốc, nơi có bà con thân thích của bà, mồ mã tổ tiên của bà. Bà không ngờ mình đã tồn tại trên nước Mỹ, tại một thành phố miền Nam xa lạ, không bà con thân thích, trong suốt 5 năm qua. Bà đến nước Mỹ chỉ vì một người. Cho đến hôm nay người ấy vẫn biệt tăm, thì không còn lý do gì bà phải nấn ná lại đây thêm một ngày nào. Bà ra đi âm thầm, không cho ai biết. Bà muốn chặt đứt quá khứ đau thương trên mảnh đất tạm dung này.
Bà Thược ngửa người trên chiếc ghế nệm của hãng hàng không NorthWest, chuyến bay sẽ dừng lại Cali chừng nửa tiếng để rước khách, sau đó sẽ bay không nghỉ, đáp thẳng xuống phi trường Tân Sơn Nhất, chỉ dừng lại ở Tokyo để tiếp nhiên liệu.
Chiếc phi cơ tiếp tục len lõi giữa các tầng mây trắng, trên hành trình từ Ðông sang Tây. Trên bầu trời thanh bình, cùng khoảng thời gian đó có một người đàn ông đang đón chuyến bay tốc hành trở về thành phố nhỏ, miền Ðông Nam Hoa kỳ. Người đàn ông này chính là ông Phong. Suốt 5 năm trời qua ông sống một mình. Cuộc tình chấp nối với bà vợ cũ kéo dài chỉ đúng một tháng. Ông nhiều lần muốn nối lại liên lạc với bà Thược, nhưng ông rất ngại, sợ bà không tha thứ, vì tội của ông quá lớn! Ông đã e ngại suốt 5 năm dài. Tuần rồi ông nhận được thông tin, từ một người bạn cũ từ vùng miền Ðông sang Cali chơi, rằng bà Thược vẫn ở vậy, trông chờ một bóng hình. Thế là ông quyết định mua vé máy bay xuyên bang, từ Tây sang Ðông, đi tìm người tình xưa để tạ lỗi cùng nàng.
Ông Phong hy vọng Thược của ông sẽ rộng lòng dung thứ, và ông tự hứa với lòng là sẽ sống trọn tình trọn nghĩa, với người em "Cố Ðô" của ông, cho hết đoạn cuối cuộc đời.
Bùi Thanh Liêm
Tháng 10/95