vhnt, số 122
29 December 1995
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Giết im lặng......................................................Phan Lê Dũng
2 - Cắt nghĩa..........................................................Nguyễn Phước Nguyên
3 - Gửi thằng bạn..................................................Vũ Lê Phan
4 - Sáng thu...........................................................Nguyễn Xuân Thưởng
5 - Lời nhớ cho quê hương...................................Tường Vi
6 - Thoáng nhớ......................................................Trần Thu-Hồng
Phỏng vấn / Giới thiệu tác giả & tác phẩm:
7 - Phỏng vấn nhà văn trẻ Phan thị Vàng Anh......Thúy Nga/Dung Nguyen
8 - Fr. Gildo Dominici S.J.: Việt Nam quê hương tôi........Dương Hùng
T r u y ệ n N g ắ n :
9 - Florence ..(p2/2).........................................Phạm Thị Ngọc
29 tháng 12, 1995
"Những bức thư tình hay nhất..."
Đó là tựa một cuốn sách mà tôi "tò mò" giở ra xem trong một tiệm sách (nhìn quanh quất xem có ai quanh mình không, tôi lật vội những trang sách, tôi sợ người ta bắt gặp mình đang xem trộm những bức thư tình đã được in thành sách :-) Gustave Flaubert với nét chữ run rẩy:
"Em, có ba cái vô hạn trên thế gian: sao trên trời, nước trong biển, và những giọt nước mắt trong tim..."
Flaubert mới thật lãng mạn. Nước mắt trong tim lại đem ví với sao trên trời và những giọt nước mặn trong biển. Ðó là những cái vô hạn không làm sao đếm được. Phải chăng Tình-Yêu là một điều vô hạn - lóng lánh như sao và dạt dào như biển. Và trong cái mênh mông của vô hạn, có những giọt nước mắt của đau khổ và hạnh phúc. Tôi tưởng tượng Flaubert đang đau khổ khi viết những lời này cho người tình. Thường người ta nhỏ lệ khi buồn và vui khi hạnh phúc. Những mốt tình lớn, thường là những mối tình trắc trở, nhiều ngang trái, đẫm nước mắt trong tim. Có thể có những mối tình yên ả không sóng gió mà vẫn tuyệt đẹp, song đó là những hạt ngọc trong biển, so với vô vàn những giọt nước mắt mặn. Trong cuộc sống hữu hạn, mà được trải qua, biết đến những điều vô hạn, thì cũng đã là may mắn.
Xin chúc cho những mối tình may mắn, trong dịp đầu năm.
thân ái,
PCL/vhnt
Giết Im Lặng
Ta muốn thét cho đời thôi im lặng
Ta muốn gào cho thắng cả tịch liêu
Ta muốn vung tay đốt lửa sáng trời chiều
Ta cần tiếng loa vang giữa đêm khuya đồng vọng
Ta muốn mọi vật đổi ra thành giọng
Giọng khóc, giọng cười, giọng đọc, giọng nỉ non
Hoặc giọng địch véo von, hoặc giọng kèn đồng bi thiết
Ðể làm gì, đừng hỏi ta không biết.
Ta chẳng cần gì, chỉ cần giết lặng im.
Phan Lê Dũng
cắt nghĩa
nói sao cho em hiểu
chuyện một năm, hai năm
rồi hai, ba năm nữa
chuyện cuộc đời mười năm
ra đi năm bốn tuổi
tiếng Việt nói chưa suông
hưa một lần đến lớp
học lịch sử non sông
mười năm trên đất Mỹ
mẹ tầm tã kiếm ăn
nuôi cho em khôn lớn
em, xứ người, búp măng
tiếng Việt, nghe, em hiểu
nhưng không nói sẽ suông
nhìn mẹ mình cực khổ
em cũng buồn, cũng thương
gọi em là mất gốc
em chỉ khóc trong tim
lòng quặn đau như cắt
em chỉ biết lặng im
làm sao mà cắt nghĩa
bằng ngôn ngữ Việt Nam
rằng em không hổ thẹn
màu da vàng em mang
làm sao mà cắt nghĩa
những lần mẹ nấu cơm
rau, thịt kho, nước mắm
em ăn vẫn biết ngon
hơn thức ăn của Mỹ
đồ đông lạnh, hộp, lon
(đậm đà nhiều hóa chất;
nhạt nhòa nghĩa mẹ con)
làm sao mà cắt nghĩa
những uất nghẹn trào dâng
khi nghe thầy cô Mỹ
dạy trang sử Việt Nam
(cha em mười năm lính
mười năm nữa bị giam
cha đi vào cái chết
vẫn kiêu hùng, bất cam)
ráng học đi, em nhé
ngôn ngữ mình thiết tha
để mai này nói hết
những nỗi lòng xót xa
nói bằng ngôn ngữ Việt
những nghẹn ngào hôm qua
thưa rằng: "Tôi, người Việt!
tôi có mẹ, có cha
Mẹ Cha tôi người Việt
Cha chết vì quốc gia
nên tôi không hổ thẹn
với màu vàng trên da
tóc tôi đen và thẳng
từ tóc mẹ mọc ra
đọc tin nhà đói khổ
tôi cũng biết xót xa
vâng, tôi thằng mất gốc
của ngày trước lặng im
quê hương - chưa nhìn thấy
nhưng vẫn có, trong tim
vâng, tôi thằng mất gốc
của ngày trước lặng im
nhưng thưa anh, thưa chị
không mất gốc trong tim !"
Nguyễn Phước Nguyên
Gửi Thằng Bạn
Buổi tao về biết mày không ra đón
Bởi niềm vui không đến tự bên ngoài
Chẳng ngựa xe không mũ cao áo rộng
Chỉ là tao về giúp đôi bàn tay
Cạn một ly lòng đắng lời tao ngộ
Nghe mất mát nào nhẹ tựa hơi men
Là mày lãng du hay tao khốn khổ
Thì cũng chia nhau vài giọt ưu phiền
Quàng vai tìm lại mảnh vườn năm cũ
Mầm hạt nín câm mòn mỏi mong chờ
Thịt da mày hay vết thương đá sỏi
Nứt nẻ khô cằn cuộc bể dâu qua
Đào giếng nước lên khơi dòng kim cổ
Cay đắng cha ông siêu vẹo mái nhà
Tao cuốc đất tìm nền xưa ngói đỏ
Máu mủ nào quên được nỗi đau kia
Tuổi xanh làm đuốc bình minh đất nước
Nên suốt đêm đen chấp nhận thứ tha
Nghi ngờ nhục vinh hận thù chia cách
Thì vẫn mày tao thức đến bao giờ
Mai tao về mong mày đừng ra đón
Để tự tao về như một niềm vui...
lephan
sáng thu
rừng thu lạnh
ngọn gió chao
giải nắng vàng
cánh chim sa
gió núi mây ngàn
một thoáng quê hương vẫy gọi
tàu dừa xanh lá
thấp thoáng tóc bạc mẹ hiền
ngoài hiên phơi áo.
quang gánh ai về
đổ bóng
nắng chiều nghiêng.
bếp củi thơm
hiền lành bữa cơm rau muống
ngọt sắn,
bùi khoai.
vẳng đưa một giọng nam ai
trên đầu ngọn chuối.
dế kêu ran
rộn rã sáng trăng.
trăng mùng mười thẹn thùng guốc mộc
khép nép dậu thưa
nghe vạt áo còn ngạt ngào hương nắng
gió lùa
ao vắng
ngát hương sen
lời thủ thỉ
ngập ngừng như thuở mới quen
(thuở chân chất
nụ cười tròn như cánh bướm).
trăng mười rằm lồng lộng
về trên lối cũ
phên tre, mái rạ
nghe tiếng ru xưa ấm lòng
bước chân
hơi thở
ghé hiên nhà
uống gáo nước mưa dịu ngọt
lên chõng tre
ngủ giấc bình yên.
trời không gợn mây
bình minh vừa ló rặng cây.
xa xa tiếng quạ gọi bầy
thinh không im ngắt
tâm đầy quê hương.
Nguyễn Xuân Thưởng
thu 91, West Virginia
Lời Nhớ Cho Quê Hương
Nếu anh có về thăm quê hương
Cho em gửi gấm vạn lời thương
Về miền đất nhỏ xa lăng lắc
Chia cách với em vạn nẻo đường
Tháng chạp giờ mưa có còn rơi
Saigon phố cũ chắc đông người
Duy Tân đường vẫn cây rợp lá
Chụm đầu e ấp thuở yêu người
Ghé thăm dùm em cổng trường xưa
Những chiều tan học thật ngây thơ
Dịu dàng đàn bướm tung cánh trắng
Nghiêng nghiêng bóng nắng đẹp như mơ
Viết vội dùm em những dòng thơ
Lên hàng phượng vĩ của năm xưa
Rồi đến mùa hè khi phượng nở
Một chút thơ cho buổi giao mùa
Tìm lại dùm em căn nhà xưa
Cây hoàng lan tím nhánh đong đưa
Ngoài sân có một giàn bông giấy
Hoa đỏ như son suốt bốn mùa
Em nhớ con đường nắng ban trưa
Ngoằn ngoèo ngõ chợ những ngày mưa
Tháng giêng muà Tết mai vàng nở
Anh đốt dùm em pháo giao thừa
Nếm dùm em nhé những ngọt ngào
Đậm đà trong những điệu ca dao
Cầu tre nho nhỏ băng qua lối
Dòng sông con nước chảy dạt dào
Gửi đến dùm em những nụ hôn
Bà con hai họ, những người thân
Bạn bè ngày cũ còn bao đứa
Giờ vui riêng, mỗi đứa một phần
Chiều nay sao thấy thương thật thương
Thật nhiều lòng nhớ với quê hương
Em ước mình thành loài chim trắng
Bay về làm tổ giữa trời hương...
tường vi
12/7/95
Thoáng Nhớ
Chiều nay, soạn lại vỡ tập thơ
Bút viết nghiêng nghiêng những đợi chờ
Mực tím u sầu còn nguyên nét
Ngây ngô ý tứ tuổi ươm mơ
Thuở ấy làm thơ bởi biết yêu
Cô gái làm duyên, dáng mỹ miều
Yêu hoa, yêu bướm, yêu làn tóc
Yêu cả con dường cây ngã xiêu...
Áo trắng tung bay trong gió lạ
Nắng xuyên kẽ tóc, ấm làn da
Cộc cạch đạp xe xuôi chiều dốc
Hàng me đổ lá... bóng chiều tà.
Yêu thế rồi thôi chỉ để yêu
Thu qua mấy độ, cảnh tiêu điều
Lạnh lòng cô gái lòng vẫn lạnh
Biết hỏi ai giùm định nghĩa Yêu...
Trần Thu-Hồng
"Tôi may mắn được viết tại nước mình." Chuyến đi Pháp một tháng (cùng với nhà thơ Ý Nhi) theo lời mời của Bộ Ngọai giao Pháp vừa đủ để cây bút trẻ Phan Thị Vàng Anh nghe và thấy được nhiều điều. Những điều ấy chị dành cho phóng viên Tuổi Trẻ trong một cuộc trò chuyện ngay sau khi trở về.
- Việt kiều ở Pháp có hâm mộ người viết văn như đã từng mến mộ các nghệ sĩ sân khấu.
- Phan Thị Vàng Anh: Cũng rất tận tình. Chúng tôi được nhiều người dẫn đi, đi dược nhiều chỗ tùy theo sở thích riêng của mỗi "hướng dẫn viên": chú Nguyễn Ngọc Giao hay đưa đến các viện bảo tàng và nhà thơ Anh Phan Huy Ðường hay cho đi bộ các phố nhỏ Paris, vào các quán cà phê danh nhân ngồi xưa kia, chị Việt Linh đầu tiên dẫn đến nghĩa trang Père La Chaise rồi sau đó là một nơi vui vẻ đàn ca là đồi Montmartre, bác Hội đưa đi xem France Miniature, bảo xem nước Pháp thu nhỏ thế cũng tốt...
Tôi chỉ kể thêm một thí dụ. Sau khi ở trong khách sạn một tuần, sang tuần thứ hai chúng tôi về ở nhà bác Ðặng Văn Long, khu ngọai ô Montreuil. Tôi đã quen bác từ trước, qua thư từ, kiểu như bác gửi truyện, tôi góp ý, đại loại như vậy. Bác Long sinh năm 1919, qua Pháp khi 20 tuổi, nay bác sống một mình và nhà bác như một ký túc xá vì luôn có sinh viên từ Việt Nam đến ở không mất tiền. Khi chúng tôi đến trong nhà đã có năm người, hai sinh viên đến từ Hà Nội, ba người từ Đức sang chơi. Chúng tôi thân nhau ngay, đi chợ, đi chơi, nấu ăn, tán dóc, đánh bài... Tất cả đều gọi bác Long là "anh."
- Lực lượng viết trẻ ở nước ngoài dưới mắt nhìn của cây bút trẻ đến từ Việt Nam?
- Tôi tiếp xúc không nhiều. Kiến thức mà tôi thu lượm được là thông qua hiểu biết của người khác. Ở Paris tôi chỉ gặp Trần Vũ và Ðỗ Khiêm. Ðó là hai cây bút trẻ mà dư luận hải ngọai đánh giá là có nhiều hứa hẹn. Họ đọc rất kỹ truyện, thơ trong nước và thích nghe chuyện văn chương trong nước. Theo anh Ðỗ Khiêm-một người, theo tôi, là am hiểu văn chương hải ngoại - thì lực lượng viết trẻ hải ngọai chỉ lác đác, chủ yếu tập trung ở Mỹ nhưng sinh họat càng ngày càng rời rạc. Cũng theo anh Ðỗ Khiêm, với giới văn nghệ hải ngoại nói chung, 300 người viết cũng là 300 người đọc. Không có độc giả nên hầu như chỉ "đọc nhau" như báo tường làm trong trường học. Lời tâm sự của người viết trẻ ở đây thì buồn lắm. Ðỗ Khiêm bảo những mầm lá tốt chỉ mọc từ cây; những cái lá đã bay đi khỏi cội dù có lãng đãng la đà bay coi cũng đẹp mắt thì cũng bị khô thôi, vì không có cội để nuôi dưỡng nguồn sinh lực. Việt kiều ai cũng có thể áo gấm về làng, nhưng Việt kiều viết văn thì thất thểu; sự giàu có, của cải châu báu thì đều đã bỏ lại trong nước, mà bên ngòai thì không nhìn thấy được. Nói tóm lại, viết cho mình, viết cho bạn văn mình đọc cũng được nhưng viết cho người đọc tiếng Việt ở khắp nơi (ở trong nước là nhiều nhất) thì vẫn thích hơn.
- Vậy điều mà Vàng Anh rút ra từ những cuộc trò chuyện đó.
- Tôi thấy mình và bạn viết cùng trang lứa của mình may mắn. Và cái may mắn lớn nhất là được viết "tại nước" mình. Thêm một điều nữa, người viết ở ta được dành rất nhiều đất, báo nào cũng có thể đăng truyện ngắn, đăng thơ Pháp, người ta có nhiều đất cho phê bình văn học hơn là sáng tác. Khi gặp các NXB, nghe họ kể mới thấy vai trò của NXB, của phê bình bên họ rất là lớn, nó giúp ai tài chưa rõ thì rõ ra, nó khuyến khích một tiềm năng thật sự trở thành một tài năng, nó kiên nhẫn và yêu người viết.
- Ðiều bất ngờ của chuyến đi này?
- Tôi đã ký hợp đồng (và được ứng trước tiền) với NXB Piquier để dịch và xuất bản tập truyện ngắn của tôi (chọn từ 'Khi Người Ta Trẻ và Hội Chợ). Người dịch là anh Phan Huy Ðường. Ðối với tôi đây là chuyện không ngờ tới, nói thật là tôi không bao giờ nghĩ tới việc sách mình được dịch ra tiếng khác. Trong hợp đồng có khỏan in rõ, nếu sách bán không được sẽ có giải pháp cuối cùng là nghiền thành bột, trước đó sẽ báo cho tác giả để tác giả nếu tiếc thì mua lại sách. Nếu xảy ra tình huống đó, chắc tôi sẽ không mua sách mà chỉ xin lại 1kg bột về làm kỷ niệm... Nói vậy chứ tôi hi vọng rất nhiều vào anh Phan Huy Ðường, nhiều người nói với tôi, anh là một dịch giả giỏi, có khi bản dịch còn hay hơn cả bản gốc...
Thuý Nga thực hiện
TT 14-10-1995
Dung Nguyen sưu tầm
Tiểu sử tác giả:
Linh Mục Gildo Dominici đã từng phục vụ tại Việt Nam khoảng bẩy năm. Cha thông suốt ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam.
Năm 1975, cha bị trục xuất khỏi Việt Nam và đến Nam Dương năm 1977 để phục vụ thuyền nhân VN tại những trại tỵ nạn. Cha viết bài "VN, Quê Hương Tôi" sau thời gian phục vụ tại những trại tị nạn.
Ðôi dòng tâm sự của tác giả:
Việt Nam là quê hương tôi, dù rằng tôi không được sinh ra trên đất nướcc Việt Nam. Tôi chỉ ở đó có bảy năm. Bấy nhiêu cũng đũ để trở thành một công dân Việt Nam, theo cách riêng của tôi; mặc dù trên phương diện huyết thống hay pháp lý, tôi không được niềm hân hạnh ấy!!
Việt Nam Quê Hương Tôi
Việt Nam, quê hương tôi! Quê hương ấy không phải là những dãy núi với hình dáng khác biệt và phủ đầy rừng xanh. Không phải là những dòng sông chi chít và tuyệt đẹp như dòng Cửu Long. Không phải là những khu rừng hoặc những cánh đồng thảo mộc lúc nào cũng xanh tươi và trù phú. Không phải là những đồng lúa mênh mông. Không phải là những biển cả hiền hoà dù đôi khi cũng cuộn sóng do bị thúc đẩy bởi những sức mạnh siêu nhiên.
Không đâu! Tất cả những thứ đó chưa phải là quê hương tôi, mặc dù được sống giữa bao nhiêu núi rừng, sông rạch, đồng ruộng, thảo mộc, biển cả ấy, được ngắm nhìn thiên nhiên trù phú ấy, đối với tôi thật là thú vị. Tất cả những thứ đó chỉ là thân thể của quê hương tôi, quê hương Việt Nam. Chưa phải là tất cả của Việt Nam, chưa phải là thực tại quan trọng và chủ yếu nhất của Việt Nam. Nếu xét theo tiêu chuẩn điạ lý, thì Việt Nam, quê hương tôi thật nhỏ bé: diện tích hẹp, dân số ít.
Nhưng có một nước Việt Nam khác rộng lớn hơn, rộng lớn như một đại lục. Ðó là Văn Hóa Việt Nam, Tâm Hồn Việt Nam, đó là Truyền Thống Tinh Thần của Việt Nam.
Và chính đó mới là thực sự quê hương Việt Nam của tôi.
Những thầy tỳ kheo mỗi buổi sáng thường xếp hàng một đi hết nhà này đến cửa hàng khác để khất thực, mào áo vàng rực rỡ dưới nắng. Họ tách rời khỏi mọi thứ, không màng đến của cải vật chất, loại bỏ hết tự ái; nói cách khác, họ khất thực nhưng không phải là đi ăn xin, họ tìm Tuệ Giác và Chân Như của đời sống. Ðó là hình ảnh của Việt Nam, quê hương tôi.
Những Phật tử, theo đạo pháp không được sát sinh dù là giết một con muỗi, chỉ sống bằng đồ chay hoa quả và rau, đặtt triết lý sống trên nền tảng bất bạo động và tôn trọng quyền sống cuả kẻ khác. Ðó là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Những người nông dân, nam cũng như nũ, nón lá đội đầu, suốt ngày kiên nhẫn còng lúng để cấy lúa. Họ có một sức mạnh chịu đựng gian khổ, một thiện chí lao động, một ý chí tinh thần bền vững lớn lao đến nỗi mồ hôi của họ đủ sức nuôi sống cả nước Việt Nam. Ðó là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Những đàn ông trai tráng, buổi chiều thách thức vói/ biển cả, tối tối chăm chỉ chài lưới. Những ngư phủ ấy, nam cũng nhú nữ, đều hết sứcc khoẻ mạnh, họ dám dầm mình trong sóng dụ, dám thách đố với cuộc sống một cách khôn ngoan, can đãm. Ðó là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Những cô gái, những người vợ đã dâng hiến cuộc đời cho chồng và luôn giữ dạ trung thành ngay trong niềm cô đơn và đau khổ xa cách, ngay trong nỗi ô nhục, xấu hổ vì bị phản bội. Ðó là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Những con chiên ngoan đạo, đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, kể cả các em bé, vào thế kỷ trước đã sẵn sàng chịu tuẫn nạn để giữ vụng đức tin nơi Đức Kitô, những người mà người ta thường gọi là "các Thánh Tử Ðạo Việt Nam" đã sẵn sàng lấy máu mình làm chứng tích của đức tin. Chính cuộc đời họ là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Những ngườii dù nam hay nữ, già hay trẻ, đã ở lại Việt Nam chứ không di tản qua nước ngoài, đã sẵn sàng ở lại bên cạnh anh em đồng bào để chia xẻ chén đắng của đau khổ, gánh nặng của nô lệ. Chính họ là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Những nhà bác học, những nhà văn, những nhà trí thức đã kiên quyết chịu đựng kiếp tù đầy trong các trại cải tạo để trung thành với niềm tin và tín ngưỡng của mình, trung thành với/ nhân phẩm. Chính họ là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Những ngườii như Đức Cha Nguyễn Văn Thuận và một số người đã dám chia xẻ phần lương thực ít ỏi cuả mình để cứu các bạn tù đang đói, đã dám tự nguyện đi hốt hầm cầu thay cho kẻ khác. Chính họ là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Nhụng người tị nạn, dù phải bơ vơ xứ lạ, vẫn cố gắng làm việc để trở thành công dân tốt trên quê hương mới. Chính họ là hình ảnh Việt Nam, quê hương tôi!
Tôi được thức tỉnh nhờ những người như họ, tâm hồn của họ, nhờ tinh thần của họ, nhờ cách nhận thức đời sống của họ. Chính tâm hồn ấy, tinh thần ấy, triết lý sống ấy là Việt Nam, quê hương tôi!
Một nươ/c Việt Nam mà không một chế độ nào, không một cuộc chiến tranh nào có thể xoá được trên trái đất. Một nước Việt Nam mà không một chế độ nô lệ nào có thể chà đạp hoặc khống chế.
Tôi hân hạnh được làm công dân một nước Việt Nam trường cữu, và bất diệt như vậy!!!
Fr. Gildo Dominici, S.J
Dương Hùng sưu tầm
Florence
(phần kết)
Cuốn phim chúng tôi đi xem là một phim về chuyện tình của một người đàn bà với một người đàn ông điên. Một tình yêu bền bỉ của nàng dành cho chàng, bỏ gia - đình xã - hội để tìm đến với chàng, đi với chàng qua những cơn điên loạn, sẵn sàng chịu đựng khi người đàn ông điên trút cơn giận dữ vô nghĩa lên nàng, thô bạo giải quyết sinh lý trên nàng. Cuốn phim, người ta bắn chết chàng để cứu đứa bé trai, con của chàng và nàng, mà chàng trong cơn điên loạn đã bắt đi trong đêm. Một người điên bị bao vây bởi muôn người tỉnh, sợ hãi nắm lấy cổ đứa bé con mình cứ xiết chặt xiết chặt cho đến khi một viên đạn bắn xuyên qua lưng chàng, viên đạn của những người tỉnh không còn biết cách nào khác hơn một viên đạn.
Tôi thì nghĩ rằng cuốn phim ấy không thể có một kết thúc nào khác. Dù thế, tôi cũng quay hỏi chàng lúc chàng dắt tôi ra về
"Lúc coi phim, anh có khóc không?"
"Anh mà khóc gì!" Chàng reo nhỏ, rồi kéo tôi vào gần khi hai đứa đi bộ với nhau một quãng đường dẫn về nhà tôi. Tôi thường thích bắt chàng đậu xe ở đầu khu phố, rồi đi bộ về nhà.
"Em khóc," tôi nói.
"Sao anh không nghe gì cả?"
"Thì em chỉ chảy nước mắt thôi."
"A, như vậy gọi là khóc thầm."
"Em thấy cuốn phim nói lên một nỗi cô đơn. Nàng cô đơn, chàng cô đơn, xã hội của họ cô đơn..."
"Anh thấy tội cho nhân vật nữ. Em có thể hy sinh cho ai như vậy được không? Em có thể hy sinh cho anh như vậy được không?"
Tôi nhìn chàng, tự nhiên cảm thấy chàng không nên hỏi như vậy. Dù sao tôi cũng trả lời:
"Hy sinh cho tình yêu? Dĩ nhiên." Tôi trả lời để bỗng cảm thấy tôi thật cô đơn, bỗng cảm thấy một sự sợ hãi rất nhẹ vừa thấm vào lòng. Tôi bỗng nghĩ đến một ngày khi ước mơ ruồng bồ Và, tôi nói để chàng biết điều tôi sợ.
"Em mơ mộng nhiều quá, em nhạy cảm quá anh theo không kịp."
Chàng nói trong lúc vòng tay ôm trọn lấy tôi khi chúng tôi ngừng lại ở ngã tư đường. Tôi nghe hơi thở chàng thật gần.
"Anh đã chẳng yêu em vì những ước mơ của em sao?"
"Thôi, em."
"Rồi, thôi anh về đi, em đi một mình ở quãng này cũng được."
"Giận rồi, để anh đi với em."
"Tối nay em muốn đi một mình ở quãng này."
Chàng còn ngần ngừ. Tôi nói bằng một giọng vui:
"Mai em đi rồi, anh ở nhà nhớ ngoan kẻo em giận."
"Yeah, đi nhớ viết thư về kẻo anh trông."
Chàng quay ngược đường, tôi tiếp tục con đường về nhà. Cảm giác nhẹ tênh của một ràng buộc nào đó vừa mới đứt làm tôi muốn ngã quỵ. Nhưng, thế giới này chẳng phải là một cõi cô đơn sao. Mỗi con người thật ra là một phần tử rất lẻ loi cô đơn, thế giới có cả hằng tỷ con người cô đơn. Thời đại này là thời đại của những kẻ cô đơn. Những con người cô đơn ngày càng xuất đầu lộ diện, thật hợp thời trang như những con người mắc chứng AIDS, hợp thời như chứng ung thư, như phụ nữ bình quyền, ERA. Tôi chỉ là một phần tử rất nhỏ nhoi, lạc lõng trong khối cô đơn vĩ đại đó. Tôi sẽ không khóc trong chính cuộn phim cô đơn này của riêng tôi.
Trong một lần nói chuyện với tôi qua điện thoại, mẹ tôi kể rằng bà Florence mới bị tai nạn xe. Lúc đó, chúng tôi không còn được là hàng xóm của Florence nữa. Mẹ tôi kể Florence lái xe vào một buổi sáng đi lễ về như mọi sáng, nhưng sáng ấy bà bị đụng bởi một chiếc xe truck chạy vượt đèn đỏ. Bà không bị thương tích, nhưng chiếc xe của bà kể như bỏ. Chiếc xe của bà, truyền xuống từ đời mẹ đời cha, được gìn giữ nâng niu như đứa con yêu, sau khi bị đụng chỉ còn giá trị vài trăm bạc. Tôi nói với mẹ, bà Florence có thể mua được một chiếc xe khác. Nhưng mẹ tôi chậc lưỡi, bảo Florence đâu có giàu như Laurie, mà Florence cũng không muốn một chiếc xe nào khác. Vậy bà Florence di chuyển đi lại như thế nào, tôi hỏi. Mẹ tôi nói có Laurie đến đưa đón mỗi ngàỵ Năm ấy, người em trai của hai bà cũng vừa mất, để hai chị em Florence là hai người niên trưởng sau cùng của giòng họ Baudoin.
Khi tôi về nhà mùa đông đó, hai chị em Florence đến thăm nhà tôi vào ngày trước Giáng Sinh. Tôi chợt nhớ đến đôi găng đỏ Florence cho tôi năm nào tôi còn giữ kỹ. Laurie không thay đổi, nhưng Florence đã chịu thua tuổi giấ Bà ngồi ở cái ghế Laurie dắt bà đến ngồi, và chỉ nói khi Laurie gợi chuyện cho bà nói:
"Ðây là con Ngọc, chị nhớ nó không, Florence?" Laurie hỏi khi tôi đến bên cạnh hai người.
Chị nhớ nó không? Câu hỏi gì lạ vậy? Chẳng lẽ Florence không nhớ tôi? Chỉ mới có hơn một năm thôi khi tôi đến chào bà ở nhà cũ, chẳng lẽ bà không nhớ tôi?
" Yes," Florence trả lời, nhìn tôi ngờ ngợ; tôi đọc được trong ánh mắt bà một sự cố gắng lôi ra trong trí nhớ một vài hình ảnh quen thuộc.
"Oh, yes, Ngọc. Mày có đủ tiền tiêu dùng không?"
"Oh, Florence!" Laurie càu nhàu khiến ánh mắt Florence đang mới linh động lại tắt ngúm. Florence yên lặng trở lại.
"Chị lại giận nữa rồi phải không, " Laurie nói rồi quay qua tôi, "hồi này bả hay giận lắm. Tôi lỡ miệng một tí là bả giận ngay."
"Bây giờ Florence chịu ở với bà rồi? " Tôi hỏi.
"Bả phải ở với tôi chớ ở hai nơi làm sao tôi trông bả nổi. Nhưng ngày nào hai chị em cũng về nhà cũ và ở lại từ sáng đến chiều, vì đó là điều Florence thích. Mỗi lần như vậy, tôi thu dọn dần dần đồ đạc của bả qua nhà tao. Florence không thể sống một mình được nữa."
Mùa đông đó là lần cuối cùng Florence đến thăm chúng tôi. Bây giờ, cũng đã hơn một năm kể từ ngày đó, tôi nghe tin rằng Florence đã chính thức bước chân vào cơn mê của căn bệnh Alzheimer. Tôi đến thăm Florence với mẹ, cũng để chìu mẹ. Bao nhiêu năm trời, tôi chạy theo những thay đổi của thời gian, những đòi hỏi của cuộc sống, chẳng hề nghĩ lại về một người hàng xóm tốt, lúc xưa hằng ân cần thăm hỏi, chẳng hề nhớ đến một người bạn gia - đình đứng bên ngoài những xô đẩy của cuộc đời. Bây giờ đến thăm?
Căn nhà màu xám của Laurie nằm tại một khu vực sang trọng của những người về hưu có tiền. Nhà rộng, sân rộng, nhưng bước vào bên trong thì lại thiếu chỗ ngồị Florence lại có lần bảo rằng Laurie rất bừa bãi. Chúng tôi đến, không thấy Florence mà chỉ thấy Laurie. Bà thu dọn vội vàng đống sách vở báo chí ngổn ngang trên mặt bàn mặt ghế, cho chúng tôi được chỗ ngồi. Laurie vừa thu dọn vừa than phiền bao nhiêu năm nay rồi mà cái nhà của bà vẫn như một cái nhà kho. Ðồ đạc vẫn còn ở trong thùng, và từ hồi nào tới giờ bà mới chỉ tạm ổn định được cái buồng ngủ cho Florence. Bao nhiêu năm nay, bà chỉ lo nổi cho Florence là hết sức.
Laurie nhắc về Florence, để tôi thấy yên tâm cho một nỗi lo âu thắc mắc vô cớ Florence còn sống hay đã mất. Laurie cũng đã quá sáu mươi. Bà sẽ cố thêm được bao nhiêu năm nữa? Người Mỹ ngày càng sống lâu, nhưng y học thì chưa trang bị đầy đủ để đương đầu với những căn bệnh đi đôi với tuổi già. Laurie bước tới, hôn tôi bên má, nói bà đang nấu xúp. Và trước khi mọi người ngồi xuống ở phòng ngoài, Laurie kéo mẹ tôi xuống ngay gian bếp và bắt nếm thìa xúp beef stew còn đang sôi. Công thức mới, bà nóị Florence rất thích beef stew, và cái gì Florence thích là bà nấu. Tôi đứng lại một mình nhìn quanh gian phòng. Lại cái tivi để m Lại dĩa chuối xanh trên mặt bàn ăn. Bên trong hành lang tối mờ, có một ánh đèn đổ ra từ một căn phòng. Tôi bỗng thấy ớn lạnh. Kinh nghiệm khiến cho tôi không sợ gì bằng sợ nhà quàn và bệnh viện. Tôi đang ở nhà Laurie, nhưng tôi đi thăm một người bệnh. Khi từ dưới bếp trở ra nhà ngoài, Laurie hỏi sao tôi không ngồi xuống.
"Florence đâu?" Tôi hỏi, và ngồi xuống
"Chị Florence đang nghỉ trong nhà", Laurie trả lời, nhìn tôi như tuyệt vọng. "Bả bị Alzheimer, cô biết chứ?"
Tôi gật đầu, nhưng Laurie đã quay sang mẹ tôi, hỏi cùng một câu hỏi, rồi trả lời luôn câu hỏi của bà. Alzheimer, chứng bệnh di truyền bộc phát lúc về già, tế bào óc não chết dần chết dần để người bệnh mất dần trí nhớ và các khả năng căn bản. Người Á Ðông không thấy ai bị, nhưng có thể là người Á Ðông chưa thọ lâu đủ. Tôi định nói cho Laurie nghe về khám phá mới nhất của y học nhưng tôi thấy bực với ý nghĩ của tôi, để tôi trở về câu chuyện của Laurie lúc bà nói đến chỗ đời trước mẹ của bà cũng bị Alzheimer nhưng trong các anh em Baudoin đời bà thì chỉ có Florence mới bị. Làm sao Laurie biết trước được bà sẽ không mắc bệnh?
Nhật báo mấy ngày qua có loan tin một người đàn bà cao niên đã tự sát bằng một liều thuốc độc chích vào gân, tự sát khi mới biết mình có giống Alzheimer, chết trước khi căn bệnh có cơ hội tàn phá - Die in dignity; chết sớm để còn giữ phẩm cách. Florence có nghĩ đến điều này chăng.
Laurie quay qua hỏi tôi về chuyện học hành. "Florence ngày trước hay nói về tương lai của cô".
"Florence bị bệnh không đúng lúc. Bà về đây để hưởng tuổi già mà, Laurie?"
"Chị Florence yếu đi từ ngày mất cái xe. Nhưng chị Florence chỉ bắt đầu nhắc về cái chết từ ngày người em trai tôi chết. Florence bắt đầu sợ chết từ đó, lúc nào cũng sợ mình sắp sửa chết. Nhưng thôi, cô đến đây không phải để thăm một người bệnh ".
Laurie kéo một chiếc ghế từ bộ bàn ăn, rồi kê sát ghế vào tường, để lưng ghế làm thanh góc với vách. Chúng tôi hiểu bà sắp làm gì. Mẹ tôi lên tiếng ngăn trước.
"Laurie, bà không phải đem Florence ra đây".
"Không, bà Phạm, khách đến thăm Florence phải gặp. Tôi cũng muốn Florence ra khỏi giường. Ôi bà Phạm, bà không biết tôi cực đến mức nào, mẹ tôi nuôi Florence không biết có cực bằng tôi chăng. Ngày ngày tôi lo từng mảnh tã đến muỗng ăn cho Florence".
Rồi không nghe ai nói thêm, Laurie đi vào hành lang tối mờ. Từ căn phòng có ánh đèn đổ ra, tôi nghe có tiếng ú ớ không ra lời của Florence khi Laurie bước vào. Tiếng ú ớ gắt gỏng phản đối, rồi tiếng dằng co của tay chân chạm vào nhau, rồi tiếng những bàn chân dậm lết trên sàn nhà.
Laurie từ trong nhà trở ra, vòng tay ôm ngang người Florence cao lớn hơn, bế xốc từng bước từ trong nhà bước ra rồi đặt ngồi vào cái ghế đã kê sẵn. Laurie đặt Florence vào ghế, cho lưng tựa hẳn ra ghế, cho đầu tựa vào vách tường. Rồi Laurie đứng thở dốc.
Florence mặc áo chùng màu đỏ. Tôi cố tìm ra bà tiên năm nào trong con người ngồi kià. Mẹ tôi đến bên cạnh Florence, bàn tay run run vuốt mái tóc bạc Florence để xõa dài, bù rối.
"Florence, Florence", mẹ tôi thầm gọi theo mỗi bàn tay vuốt nhẹ lên mái tóc người ngồi đó. Tôi nghe như có sự xót thương, tiếc nuối trong giọng nói của mẹ tôi.
Florence không phản ứng. Tôi nhìn Florence trong áo chùng màu đỏ, cố hình dung ra một Florence ngày xưa. Con người đó, Florence, ngồi dạng háng để hở phần kín thân thể mà không biết, nhưng đã có Laurie che lại chọ Mái tóc bạc phơ chải ngược, xõa xuống lưng chỉ còn là một mái tóc khô. Miệng không đeo răng giả, móm mém. Miệng há hốc như đang cười, chiếc miệng ấy ngày xưa có nụ cười chúm chím. Ðôi mắt xanh đã đục mờ, đôi cửa sổ hoang vắng của linh hồn không còn ở đó nữa. Florence ngồi tựa đầu vào tường, ai muốn làm gì thì làm, ai muốn mgắm sao thì ngắm.
Tôi ngắm Florence, chợt thấy bà như to lớn nặng nề hơn trước, giống như khi người ta chết thì thân thể bỗng trở nên nặng nề hơn lúc sống. Florence còn thở, nhưng bà không còn ở đây nữa. To die in dignity. Chẳng biết Florence có nghĩ đến điều đó không.
Mẹ tôi vẫn đứng bên cạnh Florence. Cuộc đời bà chồng con đầy đủ, nhưng có chắc bà yên ổn hơn, đầy đủ hơn những người đàn bà không chồng con này chăng.
To die in dignity. Tôi nhìn Florence ngồi ngả đầu qua một bên, há hốc mồm. Florence ngồi dạng háng nhưng Florence còn phẩm cách. Florence ngồi dạng háng với đầy đủ phẩm cách của bà, vì dignity (danh dự? phẩm cách?) còn nằm trong sự can đảm. Sống cho trọn những gì đã được an bài, nếu đã tin vào sự an bài.
Tôi đứng lên và tiến đến hôn lên má Florence. Da thịt bà chằng chịt những vết tích dọc ngang của thời gian, da thịt bà lành lạnh ở môi tôi. Trước khi bước ra về, ở ngưỡng cửa, tôi quay lại nhìn Florence một lần nữa.
"Good bye, Florence ", tôi nói thật lớn, tay tôi vẫy cao.
Trong một thoáng ngắn ngủi, tôi đã gọi được Florence trở về. Bà đảo đôi mắt, tìm tôi bên ngưỡng cửa, rồi giơ tay vẫy trả: "Bye!".
Một tiếng ngắn ngủi thôi. Một tiếng ngắn ngủi nghe the thé. Nhưng tôi thấy như có nụ cười vụt sáng trong ánh mắt ấy. Tôi ôm lấy nụ cười ấy, ra về. Chắc tôi sẽ không gặp bà lần nào nữa.
Phạm Thị Ngọc