vhnt, số 144
7 February 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ Trẻ Sài Gòn..........................................Dung Nguyen
- Ngủ đi, kỷ niệm xanh rêu ..................Ðinh Thu Hiền (Hanoi)
- Ðêm hoàng cung..................................Nguyễn Tiêu (Huế)
2 - Ngôn ngữ bướm .......................................Cỏ Nhớ /LQ
3 - Cõi lòng chinh phụ ..........................Dã Tràng Biển Ðông
4 - Ngược giòng ..........................................Phan Lê Dũng
5 - Khúc cuồng ca của Tiêu Sơn ...........................Phan Lê Vũ
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Mùa Bão .....................Nguyễn Thành Việt /Thạch Hãn dịch
"Cuộc đời, một cuốn truyện buồn"
Một người bạn, là một nhà văn trẻ đã thành danh, một lần ngẫu nhiên nói tương tự câu nói của Salman Rushie khi ông trả lời phỏng vấn về cuốn tiểu thuyết làm nên tăm tiếng và tai tiếng của ông (Satanic verses): "Khi đời sống bỗng trở thành một cuốn tiểu thuyết rồi, tôi không muốn nghĩ đến nó!"
Người bạn không có ý nói cuộc sống bị liên lụy ảnh hưởng vì một tác phẩm như nhà văn Rushie, anh chỉ muốn nói rằng cuộc đời là một cuốn tiểu thuyết buồn. Buồn đến nỗi tác giả có cảm giác mình là một nhân vật trong truyện, rồi mang y hệt tâm trạng của nhân vật, rồi cho rằng cuộc đời của mình rất chán. Ðời sống là tiểu thuyết và tiểu thuyết là đời sống. Nhà văn thành công là người sống lẫn lộn giữa hai thế giới đời sống và tiểu thuyết, khi không còn phân biệt đâu là biên giới của mỗi phạm trù. Dù ít dù nhiều, khi một tác phẩm ra đời, cũng đã liên lụy ảnh hưởng đến cuộc đời của tác giả một cách âm thầm lặng lẽ, như một vết chém ngọt vào vết thương cuộc sống, hay khơi dậy một nỗi đau từ vô thức, hoặc hâm nóng một bếp lửa đã lụn tàn... Âu cũng là duyên tiền định với những giòng chữ, nếu không, sao chúng xuất hiện trong đầu rồi hiện lên trang sách?
Tôi muốn biết có nhà văn nào nói "Khi đời sống bỗng trở thành một cuốn tiểu thuyết hay, tôi luôn nghĩ tới nó." ? Có thể đó là một cuốn sách thành công hy vọng không phải một trong những sách bán chạy nhất nước, mà là một cuốn sách đã được hoài thai từ chính đời sống của tác giả, là tiêu biểu của hơn hai tỉ sinh linh trên mặt đất, nói dùm cho họ những trăn trở, và biểu lộ con người ở mặt nhân bản nhất.
vhnt số này giới thiệu một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Thành Việt do anh Thạch Hãn chuyển ngữ. Truyện "Mùa bão" nguyên tác "Storm Season" viết bằng Anh ngữ, đã được đăng trên tạp chí Văn Học, được anh Phùng Nguyễn xin phép dịch giả để gửi đến bạn đọc vhnt. Bạn đọc sẽ khám phá ra tài năng của những cây viết này, tâm tình và suy nghĩ của họ sao mà gần gũi/. Ðó là nghệ thuật của một ngòi bút, và cũng là nghệ thuật của người chuyển ngữ.
Chúc bạn một ngày nắng ấm để nhớ về quê hương.
thân ái,
PCL/vhnt
Ngủ Đi, Kỷ Niệm Xanh Rêu
Ngủ đi, kỷ niệm xanh rêu
Em tàn hơi giữa mọi điều cho anh
Ngủ đi phố xá Hà thành
Lối về đã cũ, lá xanh đã vàng
Ðừng anh... ô cửa cắt ngang
Vắng em, cỏ cũng lỡ làng với nhau
Ðừng anh... dẫu chút tình đầu
Câu thơ em vứt đằng sau nỗi buồn
Ngủ đi, kỷ niệm đã mòn
Em kiêu hơn cả phấn son với người
Hẹn hò quay quắt cuối trời
Rượu ngon quá khứ để người liêu xiêu
Ngủ đi kỷ niệm xanh rêu.
Đinh Thu Hiền
Hà Nội
Ðêm Hoàng Cung
Con chim yến nhỏ rất hiền
Về ca ngẫu hứng giữa miền trăng thanh
Dạo chơi cổ tích hoàng thành
Rêu phong Ðại nội náu mình bao năm.
Vàng soi vắng nguyệt tuổi rằm
Uy nghi thạch tượng tĩnh tâm đợi chờ
Ngai son phủ dấu bụi mờ
Dư âm xa vọng từ thơ Tao Ðàn
Ngồi nghe giọng hót ngân vang
Vứt vào cung cấm dội hàng liễu xanh...
Nguyên Tiêu
Huế
TT 28-11-1995
Ngôn Ngữ Bướm
Tôi là
bươm bướm bay hoang
quanh năm
tìm mộng nhân gian
ơ hờ.
Em về ươm lá vàng khô
buồn riêng
đem phổ thành thơ
hong đời.
Chạnh lòng
tôi ghé về chơi
nhưng
ngôn ngữ bướm
quên lời
yêu em
Cỏ Nhớ
CõI Lòng Chinh Phụ
Ðêm chàng mài kiếm
Lạnh mờ bóng trăng.
Non-sông nguy-biến,
Chàng bước lên đàng.
Em không gương-lược
Một đời thanh-xuân.
Nhìn con tập bước,
Em nhớ đến chàng.
Ðêm đêm vó ngựa
Vọng về cuối thôn.
Gió lay phen cửa,
Lòng em bồn-chồn.
Bao mùa Thu lạnh,
Trăng úa hiên nhà.
Cõi lòng hiu-quạnh,
Thương chàng nơi xa.
Non-sông khói-lửa,
Chàng đi không về.
Máu hồng nhuộm đỏ
Một cõi trời quê.
Em đem xé nhỏ
Chiếc áo dợ-dang.
Áo màu hoa gạo
Em đan cho chàng.
Con giờ khôn lớn,
Mài kiếm dưới trăng.
Kiếm nay đã bén,
Con đi theo chàng.
Dã-Tràng Biển Ðông
trích từ Giúp Ích Số 3
Ngược Dòng
Ta chợt thấy mình lên đồi vắng
Trầm lặng bên ánh sao đêm
Rồi vội vã nhưng êm đềm đếm bước
Ði ngược dòng lịch sử xa xăm
Âm thầm bên lăng tẩm cổ
Bâng khuâng với sự xiêu đổ điêu tàn
Tiêu sơ qúa mà người xưa đâu mất?
Ta chợt thấy mình lên đồi vắng
Ngỡ ngàng với ánh sáng hỏa châu
Ngạc nhiên khi lửa súng đỏ màu
Sững sờ với những thây người ngã đổ
Và khi lá rừng úa đỏ
Ta thấy mình thành con vật điên khùng
Với đôi mắt đau buồn u uất
Hú lên những tiếng dị kỳ
Huyễn hoặc qúa nên người không thể hiểu.
Phan Lê Dũng
Khúc Cuồng Ca Cho Tiêu Sơn
Tiêu Sơn ơi! Tiêu Sơn!
Rằng huyết thống đêm qua
Vân trình nào hôm nay
Cờ mãi còn bay đất nước
Mưa vô cùng đổ hiên ngoài
Tráng sĩ nhập trường
Thái sơn trăng dõi
Tự biết thùy nhân chinh chiến khả hồi
Vẫn theo lý tưởng vào vùng gió bụi
Chân lý đảo điên
Thanh bình đô hội
Cuộc chưa tàn
Rằng trên kia ai đã kẻ xoay cờ
Hề! bào ảnh hoa niên
Bạch phát chưa về
Hào khí bên đàng
Khan lời vạn cổ
Ai kẻ khinh cừu cùng ta bằng hữu
Thế cục ư!
Khi túy ngọa, đã hiểu rồi,
phong sương cổ kim cuộc lữ
Oai vũ ai người khuất
Bần tiện ai người di
Tân toan ta
thắng bại phân ly!
Nghoảnh mặt lại,
trùng trùng bạch vân khứ
Tiêu Sơn ơi! Tiêu Sơn!
Ðường lên, đường lên
chập chùng muôn thưở...
lephan
Mùa Bão
Sau cơn nắng hạn dai dẳng, mưa lại trở về với California. Lúc tôi về thăm căn chung cư ngày xưa hồi cuối tuần rồi, tôi thấy cha ngồi trên chiếc ghế bành tả tơi mà ông ưa thích nhất kê trước cửa sổ, nhìn mưa rơi. Ba quay đầu nói, "Ðẹp không hở con?" Khung cửa kính đẫm nước quả đã biến đổi quang cảnh ở bên ngoài, từ một con đường tầm thường hai bên là những căn nhà trệt, những căn chung cư không mấy người thích, thành một cảnh nên thơ tình tứ qua làn ánh sáng nhờ nhờ lọt qua cửa kính.
- "Ðẹp tuyệt," tôi trả lời, tôi khi nào cũng cẩn thận tán đồng ý ba.
Chúng tôi ngồi ăn bữa tối Mạ nấu. Trong lúc ăn, chúng tôi trao đổi tin tức, cách nói lễ phép mà tôi dùng để chỉ những chuyện ngồi lê đôi mách. Cuộc trao đổi không sòng phẳng. Tôi chỉ có một vài chuyện nhỏ về mấy người con của bạn cha mẹ tôi, chuyện tình cảm lăng nhăng, chuyện học hành bết bát của chúng. Cha mẹ tôi đặc biệt quan tâm đến chuyện kể về những người học hành chẳng ra gì trong khi cha mẹ họ lại khoe khoang tương lai rực rỡ của chúng. Nhưng hầu như lúc nào tôi cũng nghe nhiều hơn nói, chịu đựng nghe những chuyện chết chóc kinh khủng trước khi nghe được tin gì đáng nghe. Ba mạ tôi lúc nào cũng ưa bàn tán một cách bệnh hoạn thường thấy nơi những kẻ ưa ngồi lê đôi mách. Họ luôn đặt ưu tiên nói những chuyện kinh thiên động địa, rồi tới những chuyện có vẻ hiếm hoi, sau đó mới nói đến những chuyện vặt vảnh xảy ra trong đời sống thường ngày, và họ nhẩn nha nói hết ngày này sang ngày khác.
Có chuyện một bà mẹ có đứa con trai duy nhất bị chết vì tai nạn xe gắn máy (sang tai ba lần), "Con thì chưa khi nào đi xe gắn máy phải không?" Mạ hỏi. Có chuyện một đứa con gái cưõng lời cha mẹ lấy một tên Mỹ trắng, sau đó mới kinh hoàng khám phá ra rằng hắn là dân chích choác (sang tai hai lần). "Con không đàn đúm vối bọn xì ke thuốc phiện ở Berkeley đấy chữ" Ba dò hỏi. Câu trả lời cho cả hai câu hỏi đều là "có," nhưng tôi đã chuẩn bị sẵn để chối bai bải. "Nhất định là không. Không bao giờ!"
Dĩ nhiên điểm chính là để học hỏi kinh nghiệm từ những thảm họa này, những chuyện gây nhiều chú ý trong một cộng dồng quá nhỏ nhoi. Còn những chuyện vặt vảnh khác, ba mạ tôi kể chỉ cốt giải trí, việc rút tỉa kinh nghiệm từ những chuyện này là thứ yếu, không quan trọng bằng những chi tiết mắm muối thêm vào. Chuyện ái tình lăng nhăng, chuyện phản trắc, những chuyện bị người khác làm nhục, ngay cả những chuyện may mắn, tốt lành mà thỉnh thoảng tôi có nghe, tất cả chỉ là những chuyện bàn ra tán vào không đáng để ý. Nghe xong, khi trở lại trường tôi có cảm tưởng như mình đã biết rành rõi chi tiết riêng tư của một gia đình sinh viên nào đó, mặc dầu tôi chỉ biết qua loa mà thôi. Tôi tránh mặt những sinh viên Việt Nam khác, vì lúc nào tôi cũng mang một nỗi bất an mỗi khi gần họ, tuởng tượng rằng cuộc đời tôi sẽ như một cuốn sách mở ngỏ trước con mắt xoi mói của họ, như cuộc đời của họ đã mở toang ra cho tôi thấy. Tệ hơn nữa, tôi còn lo sợ họ đem những chi tiết gì họ biết về tôi nói toang ra trong cộng đồng. Người ta sẽ phân thây xẻ thịt tôi, sẽ ăn tươi nuốt sống tôi trong lúc tôi cứ vô tình, và phải đợi cho đến khi chính tay ba tôi mang chiếc thủ cấp của mình đặt lên dĩa tôi mới biết là người ta đang xoi mói mình.
Những chuyện đáng nghe bao giờ cũng đến rất chậm. Sau khi nói chuyện trai gái lấy nhau, chuyện xì ke thuốc phiện, cha mẹ tôi ngừng nói một lúc lâu. Tôi nhai nuốt miếng cơm và chờ đợi.
- "Con còn nhớ con nhỏ bạn thân của con không?" cuối cùng ba tôi hỏi.
Cơn lo sợ thấm dần vào người tôi trước khi nghe nhắc đến tên. "Con Phượng," mạ tôi chêm vào. "Trước ở căn 2D." Phượng. Ðã lâu quá rồi. Thôi, con xin mạ, tôi ngẩm nghĩ trong đầu. Tôi muốn nghe nói chuyện gì khác. Chuyện gì có vẻ sếc xy, chuyện gì xấu xa. Tôi không muốn nghe thêm một bài học dạy đời.
- "Nó tự tử," Ba tôi nói. "Nhảy từ trên lầu khách sạn."
Ba mạ tôi không cho biết thêm chi tiết gì. Về sau này tôi mới rõ. Thỉnh thoảng, cha mẹ tôi cũng tế nhị khiến nhiều lúc tôi phải ngạc nhiên. Khi lẽ ra phải tra hỏi tôi tới tấp nhiều chuyện, cha mẹ tôi lại hết sức im lặng. Hồi tôi còn nhỏ, có khi Ba bỗng nhiên ca hát rồi nắm lấy người tôi quay vòng, khiến vẻ nhăn nhó trên mặt tôi tan biết mất.
Tôi bước vào căn phòng cũ ngày trước dùng làm chỗ ngủ cho mấy anh chị em tôi trong nhiều năm, cũng là nơi tôi và Phượng đã cùng nhau nói hết những mơ mộng của mình cho nhau nghe. Anh em tôi giờ đều đi xa, đứa học đại học, đứa đi lính, đứa đi làm. Tôi là đứa con áp út, nhưng lại là đứa con gái duy nhất, nên khi nào cũng có vẻ già dặn hơn tuổi thật. Tôi giúp Mạ làm việc nhà, tôi là con cưng của Ba. Một người giúp việc bé tí, một công chúa bé tí. Ba cố gắng hết sức săn sóc tôi.
Sau khi ba biết chuyện Ông Lưu, Ba bảo người anh cả phải đi theo tôi mỗi khi tan học, còn bắt mấy anh em của tôi phải luôn để mắt trông chừng tôi lúc tôi ở nhà. Trước đó, tôi thường chạy qua khu Sandstone sau giờ học, bởi vì những căn chung cư ở đây sao lúc nào cũng có những âm thanh và mùi vị thân thuộc quá chừng. Mấy người thuê nhà ở đó không ngại tiếng ồn. Ðứng ở nơi hành lang, tôi có thể nghe tiếng một bà cụ ở cuối dãy la lớn trên điện thoại. Ai nói diện thọai cũng la lớn như thế. Càng lớn tuổi, họ càng nói lớn. Tôi đoán phải chăng họ nghĩ nếu nói nhỏ hơn thì người nghe ở đâu đó không thể nào nghe đuợc những gì họ nói.
Thế nhưng mỗi khi nói chuyện với tôi, giọng Ba lúc nào cũng nhỏ nhẹ. Ba luôn luôn che chở tôi. Vì thế mà trước ngày tôi gặp Phượng, ba nhắc tôi phải kiếm con bé đó cho được. "Hai đứa phải chơi thân với nhau, phải vâng lời cô giáo," cha tôi khuyên nhủ. "Ðừng để cho mấy đứa bắt nạt." Năm đó, một năm trước khi cơn hạn hán phủ ụp xuống, Phượng và tôi bắt đầu học lớp 4 tại trường tiểu học Walt Whitman. Hai đứa tôi là học trò duy nhất ở khu chung cư Sandstone hoàn tất lớp Anh ngữ với bà Taknawa năm đó. Ông Lưu vừa mới vào làm việc chung với Ba ở chợ cá Ðà Nẳng. Họ cũng vừa mới dọn vào trong khu chung cư nơi tôi ở, và tôi gặp Phượng lần đầu tiên ở trong lớp.
Hồi đó tôi không thích học. Không như ở nhà, trường học chẳng có mùi vị gì vì có máy điều hoà không khí. Tuy không đến nỗi tệ như một nhà thương, lúc nào cũng có mùi đau nhức, nhưng cũng đủ làm cho tôi thấy xốn xang, lúc nào cũng thèm mùi vị thức ăn luôn luôn đầy ắp trong khu Sandstone, ở đó không khí lúc nào cũng nống nặc mùi nước mắm. Ðến trường, tôi cố đánh hơi cho được mùi vị đó nơi áo quần những đứa bạn học, nhưng khi lên lớp bốn thì bọn nầy cũng đã biến đâu mất. Tôi ngồi trong một căn phòng ở trong toà nhà chính, chung quanh toàn là những đứa trẻ xa lạ, còn anh em và bạn bè của tôi thì lại đang theo học Anh ngữ trong khu nhà cất tạm nằm phía bên kia sân. Năm đó, ngồi cạnh Phượng trong lớp của bà Strickland, đôi mắt như cú vọ, tôi vẫn cứ nghĩ đến chúng. Bà giáo lúc nào cũng chăm chăm nhắc nhở English only (chỉ được nói tiếng Anh thôi). Tôi mường tượng ra mấy anh em của tôi đang cười đùa ngất ngểu, kể chuyện tào lao xịt bộp, chuyện tiếu lâm học lóm trong các bữa ăn, nói tiếng Việt líu lo khi trầm khi bổng, chen lẫn tiếng Tây Ban Nha, tiếng thổ ngữ Phi luật tân, tiếng Tàu vang động khắp khu T-1 trước khi chuông reo vào lớp.
Buổi học đầu tiên quả thật khổ s Bà Strickland đặt Phượng và tôi ngồi cạnh nhau, làm như chúng tôi là cặp búp bê song sanh: cả hai đều để tóc chải thẳng, đều có dáng dấp Á đông và cả hai đều bận áo quần mua ở tiệm bán đồ cũ. Bà Strickland đặt tên cho Phượng là Phoebe. Tôi ngồi đờ người, mắt nhìn chăm chăm vào cuốn tập trước mặt, những bài toán nhân toán chia chẳng có gì khó. Tôi chẳng thiết gì đến những bài toán đó. Thay vào đó, tôi lại hết sức bối rối về cái tên mới của Phượng, mũi tôi cứ sụt sịt, tôi nghiêng đầu về phía Phượng, nghểnh cổ lên một chút cho thêm vững lòng. Tôi không ngữi thấy được mùi vị gì khác ngoại trừ mùi thuốc giặt nồng lên mũi. Thuốc giặt Calgon, tôi thầm nghĩ. Mỗi một bà mẹ ở trong khu chung cư đều dùng Calgon vì mấy năm trước TV thường hay quảng cáo loại thuốc giặt này, mô tả một người đàn bà Á đông thu dấu hộp thuốc Calgon đã giúp bà giặt giũ áo quần sạch đến trắng tinh, rồi nói với giọng líu lo với một khách hàng người Mỹ rằng đó là Bí mật cổ truyền của Trung hoa! Lúc đó, chúng tôi ai cũng hớn hở khi nhìn thấy nét mặt giống như mình trên TV, mặc dù chúng tôi lẽ ra phải ghét người Hoa vì họ đã gây nhiều tội ác đối với dân tộc chúng tôi.
"Mày sao thế," Phoebe nói nhỏ với tôi khi thấy đầu tôi cứ mãi nghiêng lại gần hắn. Giọng con bé thật ngọt ngào, không lơ lớ như tôi, lại rất êm theo nhịp trầm bổng. Giọng con bé nghe thật hay, không như giọng của Mạ, nói tiếng Việt thì trôi chảy du dương, mà nói tiếng Anh lại vấp váp ngập ngọng khiến mỗi lần nghe tôi lại thấy rùng mình. Trong cái vấp váp ngập ngọng đó, tôi còn nhận ra được cả nỗi lo âu, có khi là sợ hải, ở nơi mạ nữa.
"Ở nhà mẹ bạn có nấu ăn không?" tôi hỏi nhỏ. Con bé im lặng gật đầu, dù rằng sau này tôi khám phá ra rằng mẹ của con bé đã chết. "Ba bạn làm ở chợ cá phải không?" Con bé lại gật đầu một lần nữa, vẫn không nói một tiếng nào. "Vậy sao người bạn lại chẳng có mùi vị gì cả thế?" Tôi không bao giờ tìm được câu trả lời cho câu hỏi đó. Tôi cảm nhận được sự hiện diện cuả bà Strickland trước măt bọn tôi, rồi sau đó nghe bà nói oang oang. "Hai em có điều gì chia sẻ với các bạn không?"
Bà Strickland buộc chúng tôi ra đứng trước lớp, cả hai đứa im lặng trong lúc bà ngắm nghía bọn tôi một cách nghiêm trọng. Tôi cúi nhìn xuống giày, không dám ngẩng lên nhìn mấy đứa bạn học đang khúc khích cười. Tôi liếc nhìn Phoebe, thấy con bé nhìn lớp học chăm chăm một cách bình thản, đôi môi của hắn ngậm lại, mềm mại nhưng vững chải, cân xứng như để cho bọn trẻ bên dưới so sánh với đôi môi méo xệch của tôi. Lúc đó tôi đã thích hắn, lại càng sửng sốt trước vẻ vững chải của hắn, lần đầu tiên tôi thấy có một người vững chải hơn tôi, ngoài ba mạ tôi ra.
"Này các em," bà Strickland nói, "đây là dịp tốt để chúng ta học một bài học về sự phong phú của các nền văn hoá. Tháng này chúng ta có hai người bạn mới, từ Việt Nam." Tôi co người lại khi nghe bà phát âm chữ Nam theo vần của chữ wham, nghe nó nhạt nhẽo, thô bạo. "Một trong hai em có thể chỉ cho tôi thấy Việt Nam nằm chỗ nào trên bản đồ không?"
Tôi đứng trân người ra trong khi Phoebe mạnh dạn bước đến tường chỗ có treo tấm bản đồ thế giới rồi găm một chiếc kim đỏ vào khoảng giữa chật hẹp của vùng có hình cong chữ S, Việt Nam. Tôi vẫn đứng ngay tại chỗ trong khi Phoebe trả lời những câu hỏi của bà Strickland về khí hậu, thực phẩm, ngôn ng Dường như bà Strickland đã quên mất tôi, tôi cũng cảm thấy nhẹ nhỏm cho đến khi bà đột nhiên lên tiếng, "Chút nữa tôi quên mất, hai em tự giới thiệu cho cả lớp đi." Bà quay qua phía tôi, để lộ hai hàm răng trắng. "Sao em ít nói thế. Em nói tên mình cho cả lớp biết đi."
- "Dung," tôi nói nhồ Tôi thấy Phoebe nghiêng đầu nhìn tôi như thầm nhắc, mầy nói nhỏ quá.
- "Tên nghe hay nhỉ. Em đánh vần đuợc không Dung?"
Tôi viết lên bảng chữ viết đầu tiên trong năm học đó cho cả lớp thấy. Khi tôi bỏ phấn xuống thì tiếng cười khúc khích lại trỗi lên. Một đứa con trai nào đó nói, "Dung, ô đồ dơ." Cả lớp phá lên cười, và tôi thấy thân hình tự nhiên phì nộn làm căng cả áo quần. Tôi muốn thu người lại, nhưng người tôi cứ chương phình ra như một quả bong bóng, đỏ ối, dềnh dàng và vụng về. Giờ thì tôi chẳng còn nhớ được một khuôn mặt nào trong lớp học năm đó, trai hay gái. Chỉ còn một vài hình ảnh lờ mờ: những mái tóc vàng, tóc nâu, những cửa miệng há hốc mà thôi.
Bà Strickland dằn mạnh cuốn tự điển lên bàn ra hiệu cho cả lớp im lặng. Trước khi bà có thể nói được lời nào thì Phoebe đã lên tiếng, nói với tôi chứ không phải nói với lớp. "Dung có nghĩa là đẹp" con bé nói, phát âm giọng tiếng Việt nghe như âm y tiếng Anh, chứ không như âm đầy cứng cỏi mà bọn con nít Mỹ thường quen nói. Những đặc điểm đó làm cho tôi nhớ con bé: nhỏ thó, đẹp, giọng nói ngọt ngào chuyển được cả ý lẫn nhịp điệu của ngôn ngữ Việt, đứng trước tấm bản đồ mà không hề nao núng.
Vẫn còn có tiếng cười khúc khích, nhưng bà Strickland đã làm ngơ, và tôi cũng chẳng để ý. "Cám ơn em, Phoebe," bà nói, "Còn tên của em có nghĩa là gị"
- "Phượng?" con bé trả lời, lần đầu tiên tôi thấy con bé đỏ mặt. "Dạ em không biết."
- À, thế thì đó là bài làm ở nhà cho các em," bà Strickland nói. "Về hỏi cha mẹ các em rồi ngày mai nói cho cả lớp biết."
Từ đó, bà Strickland nảy ra sáng kiến là mỗi em về nhà tìm hiểu ý nghĩa tên của mình, rồi đến lớp trình bày về xứ sở, về tổ tiên. Nếu có vẽ thêm được họa đồ gia tộc thì được thêm điểm.
Chiều hôm đó, chúng tôi tìm nghĩa chữ "Phượng" trong cuốn tự điển Việt-Anh của ba tôi. Sách nói, "Con phượng hoàng trống." Mấy hàng tiếp theo ở bên dưới lại ghi thêm "phượng hoàng" (chim phượng, trống hoặc mái). Về sau này tôi mới khám phá ra rằng mấy cuốn tự điển này cũng chẳng đáng tin, nhất là những cuốn vừa định nghĩa vừa phiên dịch.
- "Là cái gị" tôi hỏi khi thấy mấy vần ghép với nhau nghe rất lạ.
- "Phone-ix?" Phoebe nói, cố gắng uốn lưỡi phát âm.
Phoebe viết tên lên một mảnh giấy để hôm sau mang đến lớp. Suốt buổi chiều hôm đó trời lại mưa nên hai đứa tôi ngồi miết trong phòng, đẩy mấy anh em của tôi ra ngoài phòng khách, rồi bàn tán về mấy đứa học trong lớp bà Strickland, mấy đứa trẻ sống trong khu chung cư Sandstone, cả bọn đó giờ này chắc cũng đang vui thú trong lớp Anh ngữ của bà Takanawa. Chúng tôi thầm thì với nhau về những nỗi sợ hãi, về những ước muốn vặt vãnh. Cả hai đều thán phục con bé ngồi dãy đối diện với bọn tôi, chân mang giày da thứ thiệt, mặc áo viền đăng ten, móng tay lại sơn màu hồng. Phoebe, đẹp như thế, môi mềm, mái tóc đen nhánh, hai mắt to, cũng chỉ ăn bận như tôi: quần hàng sợi, chân đi giày bố màu xanh dương, còn áo thì chỉ nhìn qua cũng biết là cắt may theo kiểu đã lỗi thời.
- "Một ngày nào đó mình muốn có một đôi giày như giày của con đó," tôi nói. Tôi đang nằm trên giường, bên cạnh Phoebe, nhìn lên trần nhà như cố tìm kiếm những khuôn mặt của ai kia trong mảng trần bằng vôi. "Có áo quần đẹp mới dễ làm đẹp."
Im lặng một lúc lâu rồi Phoebe mới lên tiếng, mà lại nói lên điều tôi hoàn toàn không ngờ tới: "Tao không thích đẹp."
Thật không thể tưởng tượng được khi nghe hắn nói như vậy. Nói thế thì đâu khác gì Ba bảo ba không bao giờ muốn sống bằng nghề nông! Tôi nhìn chăm vào, ngắm nghía cẩn thận những đường nét thanh tú trên khuôn mặt hắn. Làn da hắn trơn lẳn và trắng bóc. Da tôi thì lại sậm màu như nước da của Ba. "Mầy nói giởn chứ," tôi đáp. "Ai lại không thích đẹp?" Tôi quá bẻn lẻn nên không dám nói tiếp là "mầy dã đẹp rồi đó."
Con bé không bao giờ giải thích rõ ràng, chỉ để những ước muốn của nó lơ lửng như thế. Mỗi lần gặp hắn tôi vẫn có cảm giác như thế, như một thứ không khí khô rốc thường đến trước cơn mưa. Sau khi hắn ra về, tôi đứng soi guơng cho đến lúc Ba từ chợ cá đi làm về, mạ cũng từ cửa tiệm làm móng tay trở về. Tôi chỉ nhìn thấy một khuôn mặt bầu bĩnh, tròn trịa, sậm nắng, chẳng có gì đáng nhớ, lỗ chỗ như lớp vỏ bọc bánh pie, hay mấy chiếc bánh nướng mà thỉnh thoảng Ba mua từ tiệm bánh sát bên chợ cá. Tóc tôi cắt ngắn, chải thẳng, dày và thô tháp, lại phù lên như một quả cầu. Sau này tôi mới học cách để cho tóc dài và mọc dày, rồi chải ngược từ trán ra đằng sau cột thành một chiếc đuôi nhỏ, để lộ khuôn mặt cho mọi người đều thấy, chứ không chịu uốn hay nhuộm. Khuôn mặt tôi vẫn vậy, chẳng có gì thay đổi, có khác chăng là tôi đã học được nhiều cách nhìn khuôn mặt mình khác nhau.
Trong bữa cơm, tôi nói với ba mạ tôi rằng tôi cần phải vẽ sơ đồ gia tộc. Trong lúc thưởng thức món cá hồi (tôi cam đoan là đã ăn đủ mọi loại cá), cha mẹ tôi đọc một mạch những tên tuổi thuộc hai thế hệ về trước. Ba có bốn người anh em trai và hai chị em gái. Mạ có hai anh em trai và một em gái. Tất cả những người này lại có rất nhiều con, ông bà tôi cũng nhiều anh em cho nên khi vẽ ra cây gia tộc, nó rườm rà chẳng khác gì đang vẽ đồ hình cho một bài toán: Một gia đình Việt Nam lủy thừa ba! Tôi nhìn những cành những nhánh chằng chịt lấy nhau, những đường gạch nối các tên lại với nhau như những mạch máu nuôi các bộ phận trọng yếu trong cơ thể. Ðó chính thân xác của gia đình chúng tôi vẽ lên giấy, và lần đầu tiên tôi mới thấy rõ chỗ đứng của tôi trên cõi đời này: tôi là Phan Thị Dung, thuộc thế hệ trẻ nhất, nằm trên một trong những cành rất trơ trụi. Tên tuổi của cha mẹ tôi lại nằm trên những nhánh xum xuê, nay bị cắt lìa khỏi thân cây già cỗi và mang đến xứ nầy, cắt ra rồi để lại trồng lên mảnh đất mới.
Hôm sau, tôi được xem sơ đồ gia tộc của Phoebe. Rễ ngay gốc cây chỉ có một tên: tên của hắn. Bên cạnh tên mẹ, nằm bên trên, cùng hàng với tên của ba hắn, có chữ d và 1981 nằm trong ngoặc đơn. Tôi rùng mình, và Phoebe trả lời câu hỏi mà tôi không bao giờ nói lên, "Mạ mình chết trên đường vượt biển. Chuyến vượt biển quá dài ngày." Bối rối, tôi muốn thu giấu sơ đồ gia tộc của mình, nhưng khi nhìn thấy, Phoebe chỉ cười rồi nói, "Mình muốn có được một gia đình như thế. Ðông người. Chắc là vui lắm." "Không đâu," tôi vừa nói vừa nghĩ đến mấy anh em tôi lúc nào cũng chọc ghẹo phá bỉnh nhau. "Mình thích làm con một để được mọi người chú ý." Phoebe không có phản ứng gì về lời nói đó mà kéo tôi qua bàn bà Strickland, trên bàn có quyển tự điển to nằm chình ình ở đó. Chúng tôi tra tự điển xem chữ "phoenix": theo huyền thoại Ai Cập, đó là một con chim cô đơn, đẹp, sống trong vùng sa mạc Ả rập từ 500 đến 600 năm, sau đó bị thiêu trong lửa, rồi từ đám tro vùng lên sống dậy để bắt đầu một cuộc đời khác: con chim này là biểu tượng cho sự bất tường.
- "Hay nhỉ," tôi xuýt xoa sau khi vất vả đọc lời giảng iải trong tự điển. "Tên bạn hay như vậy, còn tên mình thì chỉ là cứt bò."
- "Mày để tâm tới bọn ấy làm gì cho mệt," hắn nói và lần đầu tiên tôi thấy hắn nhíu đôi chân mày. Tôi ậm ừ, cúi đầu xin lỗi qua loa.
Bà Strickland rất khoái chí cái tên của Phoebe, còn tôi thì lại thêm bối rối khi thấy sơ đồ gia tộc của mấy đứa kia gần giống sơ đồ của Phoebe hơn: gọn gàng, dễ quán xuyến, như những thân cây non chưa có nhiều cành. Chỉ một đứa khác ở trong lớp có gia đình phức tạp như tôi là một thằng Mễ duy nhất trong lớp, tên Jesus, có sáu anh chị em, cha mẹ nó xuất thân từ những gia đình đông con. Sau đó tôi và hắn lén nhìn nhau, như cùng đồng ý là tôi và thằng Mễ kia đều là những kẻ lạc loài, xa lạ.
Suốt hai tháng sau, trời vào đông sớm hơn thường lệ. Mưa đến, và những chuyện chọc ghẹo vặt vãnh vẫn tiếp tục xảy ra. Những kỷ niệm đó nằm trong trí tôi như những đường kẻ đo chiều cao vạch lên khung cửa. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy chúng quả thật mỏng manh, chúng ghi dấu sự trưởng thành nơi tôi chứ không hề cản trở việc tôi khôn lớn. Hồi đó, tôi vẫn thường thấy vui thú, nhẹ nhõm mỗi lần tan trường, nhảy ào xuống những vũng nước mưa đọng lại bên hè đường, làm nước bắn tung toé lên đến ngang lưng. Phoebe nhất định chỉ đi trên vĩa hè, lấy ô che nước tôi làm tung toé. "Nhảy vào đi, chị cả," tôi hét lớn, lấy chân hất nước về phía hắn. "Không," hắn trả lời, "Sợ ba mình la."
- "Ba đi làm chưa về mà," tôi nói trả. "Tới lúc ông về thì khô hết rồi còn gì. Nhảy vào đi!" Hắn chỉ lắc đầu, chiếc cằm khi nào cũng hơi nghiêng nghiêng. Tôi lại thấy xấu hổ, và phải mất suốt buổi chiều hôm đó, nỗi xấu hổ của tôi mới dần tan biến đi.
Nỗi xấu hổ đọng lại như một vết bầm trong tâm hồn hôi. Tôi giấu không đễ Phoebe thấy, nhưng tôi vẫn có cảm giác hắn đã nhận ra lúc bọn tôi táy máy tập trang điểm chiều hôm đô Phoebe mang theo một thỏi son đỏ, một cây viết chì đen viền mắt, một lọ thuốc đánh lông mi và phấn hồng. Hắn không nói là đã lấy mấy thứ đó ở đâu ra. "Cứ xài đi Dung," hắn nói, "mình sẽ biến bạn thành một người mới." Phoebe trang điểm cho tôi với một dáng vẻ cương quyết nằm sâu giữa hai mắt. Khi trang điểm xong, tôi nhìn trong gương. Một phần của tôi muốn bật lên cười, nhưng một phần khác lớn hơn lại muốn rửa sạch hết phấn son trên mặt. Tôi cho là mặt mình lúc đó giống như một củ khoai lang rửa sạch rồi lấy sơn chấm lên.
- "Bạn thấy sao," Phoebe hỏi. Vẻ cương quyết vẫn nằm sâu hơn giữa hai mắt.
- "Ðẹp," tôi trả lời, nhìn đôi môi của tôi đang hé ra cười trong gương. Sau đó đến lượt trang điểm cho Phoebe. Bàn tay vụng về của tôi vẽ nguệch ngoạc lên khuôn mặt thanh tú của hắn. Tôi có thể cảm thấy được những đường vẽ của tôi quá nặng nề, tay tôi vẽ lệch lạc. Càng cố gắng sửa chữa những chỗ tôi vẽ lệch chỉ làm cho mặt con bé trông càng tệ hơn. Trang điểm xong, tôi nhìn mặt Phoebe một lần nữa, thở dài rồi quay người hắn về phía chiếc gương.
Khuôn mặt của Phoebe trong gương rực đỏ lên. Ðôi môi của hắn đỏ chót, hai gò má đỏ ửng như ráng chiều, hai con mắt như viền bằng một lọ mực tầu bị đổ, rồi được làm nỗi bật bằng một màu tím bầm. Ðôi mắt nhanh như mắt thỏ của Phoebe nhìn trân trân vào hình ảnh của mình trong gương.
- "Mình xin lỗi nghe," tôi nói. Lúc đó tôi xin lỗi nó quá trời.
- "Sao phải xin lỗi?" Phoebe đáp. "Như thế này là tuyệt." Sau đó hắn cười ngất nga ngất ngưởng, và vì thấy hắn cười nên tôi cũng buột miệng cười theo.
Khi ba mạ tôi về đến nhà, tôi đã rửa sạch phấn son trên mặt. Phoebe trở về căn chung cư đợi cha. Tôi chưa bao giờ gặp ông Lưu, mặc dù ông ở cạnh nhà tôi, căn 2D (tôi ở căn 3C). Những lúc ngồi ăn nghe ba mẹ tôi đàm tiếu, tôi chờ nghe họ nói chút gì về ông Lưu, nhưng ông ta là người duy nhất ở trong chung cư mà ba mạ tôi không bao giờ nhắc tới. Tôi không được phép nói chuyện trong bữa ăn, ngoại trừ lúc nào hỏi tới, nên tôi chẳng bao giờ kể chuyện về Phoebe cả. Tối hôm đó, sau khi ăn gần xong, Ba Mạ im lặng nhìn tôi. "Con có biết con Phượng không?" Ba tôi hỏi, mặc dù tôi nghĩ là ba đã biết câu trả lời. Câu hỏi khiến tôi ngạc nhiên, nhưng cũng đã cho tôi cơ hội kể lể những gì chúng tôi làm trong hai tháng qua. Tôi rất hãnh diện có một người bạn như Phượng. Hắn tự tin, thông minh, đẹp, và giỏi hơn tôi mọi điều.
Ba Mạ tiếp tục ăn, im lặng, còn tôi cứ mãi nói chuyện Phượng, nối một thôi một hồi tưởng chừng như vô tận. Khoảng giữa chuyện, tôi nhận ra là cả Ba lẫn Mạ chẳng ai còn nghe tôi nói, còn tôi thì không thể ngừng. Hắn là người bạn thân nhất của tôi, còn hơn thế nữa, nó đã cứu tôi biết bao lần trong lớp bà Strickland. Không có hắn chắc tôi đã chết đuối giữa giòng chọc phá nghịch ngợm của bọn trẻ trong lớp.
- "Con có khi nào qua nhà nó chưa?" Ba tôi lên tiếng.
- "Dạ chưa," tôi trả lời. Sau đó anh tôi, vốn đã ganh tị với tôi vì tôi đuợc vào học trường tiểu học, nên khai ra,"Nhưng Phượng có qua đây chơi mà."
- "Không được qua nữa," Ba nói ngay. Quyền uy của ông ở trong gia đình sắc bén và chung quyết như cây dao mổ cá\.
Thế nhưng tôi vẫn la hét phản đối, tôi làm một chuyện mà trong nhà chẳng ai dám làm, tôi nói với Ba tôi rằng Ba làm vậy không được.
Tối hôm đó, sự trừng phạt việc tôi dám lớn tiếng xảy ra với đầy đủ nghi thức của một cuộc hành quyết. Ba, cũng giống như nhiều người cha khác trong chung cư Sandstone, không bao giờ ngần ngại rút nịt hay lấy một cành cây để dạy con cái không được đối đáp với cha mẹ như một người Mỹ. Bây giờ tôi vẫn phân vân không biết ai trong hai người, bố hay con, ai sợ hơn ai. Roi vọt là một phần của đời sống bọn trẻ chúng tôi. Chúng tôi chẳng bao giờ nghe được những lời khuyên răn dịu dàng theo môn tâm lý học trẻ con, mà nếu có biết chăng thì chúng tôi cũng chỉ phì cười không tin là có mà thôi. Chúng tôi chịu nhận roi vọt, cho đó là cái giá phải trả cho tình yêu thương của cha mẹ. Cũng có thể họ đã thấy đôi chút ngán ngao mà chúng tôi không nhận ra được, bởi vì theo họ, việc con cái đối đáp với cha mẹ là một cái gì quá mới mẽ. Mỗi một việc nhỏ như thế họ cũng xem là một dấu hiệu bọn trẻ bị ô nhiễm lối sống của Mỹ, một thứ cỏ dại phải chà cho nát, chà cho tuyệt gốc, phải nhổ vứt đi trước khi chúng sinh sôi nẩy nở làm thui chột gốc rễ của chúng tôi.
Ðối với con trai thì chẳng có gì phải bàn tán thêm dù Ba sẽ rút dây nịt, rồi bảo chúng cúi người xuống, đánh nhanh đánh mạnh. Mấy anh em trai của tôi chưa có đứa nào kịp khóc la thì Ba tôi đã đánh xong. Nhưng riêng tôi, vì là đứa con gái duy nhất, thì lại trừng phạt theo cách khác.
Mạ vẫn la mắng tôi rồi tát tai tôi ngay tức khắc. Còn Ba thì lại thường nhìn tôi buồn rười rượi, đợi cho đến lúc chỉ còn hai cha con, rồi sau đó mới nhịp roi chen vào giữa nhịp tim. Ba không khi nào đánh tôi bằng giây nịt.
Tối hôm đó, tôi ngồi chờ trong phòng ngủ của mấy anh em tôi. Lúc Ba bước vào, tôi nhìn lén ra thấy ba anh em tôi đang ngồi trên chiếc ghế dài ngoài phòng khách, miệng há hốc. Mạ nhanh nhẹn bước lại đứng che, rồi sau đó Ba đóng cửa phòng. Tôi ít khi bị đánh đòn, lúc đó ngồi ở mép giường, hai tay đẩm mồ hôi đang xoa con búp bê đuợc nhà thờ bảo trợ cho vào dịp lễ giáng sinh đầu tiên tôi ở trên đất Mỹ: một con bé choàng khăn đỏ, chiếc khăn màu đỏ tía của nó đã phai màu. Ba ngồi cạnh tôi rồi hỏi,
- "Con đóng kịch được không?" Tôi nhìn ba ngần ngại,
- "Dạ không."
- "Ðã đến lúc con phải học đóng kịch," ba nói. Bất thình lình, Ba đánh mạnh vào đùi ông. Tiếng vỗ bép dó âm vang một lúc tôi mới hiểu ra mình phải làm gì. Ba đánh vào đùi ông thêm chín lần nữa, mỗi lần đánh lại có thêm tiếng la, tiếng khóc của tôi. Sau tiếng bép cuối cùng, Ba ra dấu cho tôi khóc tiếp, rồi ông ngồi lui ra nhìn tôi đang nức nở mà mắt vẫn ráo hoảnh, hai tay ba cử động nhịp nhàng như một người nhạc trưởng, ra dấu cho tôi khóc lớn hơn, nhỏ hơn, run rẩy hơn.
Sau đó ông cúi người lại gần tôi rồi nói nhỏ,
- "Cha của Phượng không phải là người tốt đâu. Vì thế mà Phượng sẽ không được đến đây nữa, và tuyệt đối con không được qua chơi nhà nó."
- "Nhưng nếu con có qua nhà thì cũng không có ông ở nhà," tôi trả lời. "Con bé ấy rất dễ thương."
- "Nhưng gia đình nó thì lại xấu xa," cha tôi nói, và ông nghĩ rằng bấy nhiêu lời sẽ giải thích hết mọi chuyện. "Xấu, tốt là những phẩm tính có thể truyền qua người khác. Con cứ tin ba di. Sau này con sẽ hiểu."
Lúc mấy anh em tôi được phép vào phòng để xem tôi bị trùng phạt như thế nào, tôi không còn phải giả vờ khóc nữa. Tôi đang nghĩ đến Phoebe, con bé vừa đẹp vừa cô đơn.
Trước khi trỏ lại Berkeley, tôi đến nơi Phượng đã chôn dấu bí mật cuối cùng của đời hắn. Hắn nhảy qua cửa sổ từng lầu thứ 10 của một khách sạn tráng lệ nhất, mới nhất ở dưới phố San Jose, khách sạn Montblanc. Phòng thuê ghi tên người bạn của Phượng, một người đàn ông tôi chưa bao giờ nghe nói. Hắn không để lại thư tuyệt mệnh. Người đàn ông lúc đó đang ngủ thì bị cảnh sát đến gõ cửa phòng đánh thức. Hàng vỉa hè viền quanh khách sạn không ghi lại được chút dấu vết thô bạo, nhầy nhụa mà một người đẹp như Phượng để lại làm dấu vết cuối cùng của đời mình. Tôi đi vòng quanh khách sạn trong mưa, tay ôm bó hoa, ngẩng lên những những khung cửa sổ vô tình, nhìn xuống mặt đất, nhưng vẫn không thể tìm thấy dấu tích. Cảnh sát chẳng để lại dấu vết nào, cũng chẳng dành riêng một chỗ cho người ta tưởng niệm.
Tôi còn nhớ lần cuối cùng hai đứa nói chuyện với nhau. Hôm sau ngày tôi bị cấm không được chơi với Phoebe, tôi và hắn trốn trong nhà tắm vào giờ ra chơi, tránh mặt mấy anh em của tôi. Tôi nói cho hắn biết là tôi không còn được phép đưa hắn về nhà chơi, nhưng ít ra ở đây tụi mình vẫn có thể chuyện trò với nhau.
- "Tại sao vậy," hắn hỏi, nhìn thẳng vào mắt tôi, mạnh dạn như một người Mỹ.
- "Cha mình không thích cha của bạn," tôi trả lời. "Mình cũng không biết tại sao." Tôi nghĩ rằng chính ngay lúc đó tôi mới thât sự mất bạn, mất vì tôi ngu ngốc chứ không phải vì ba tôi cấm đoán. Giữa tôi và hắn có một khoảng cách mà tôi không nhận ra, nói chi chuyện lấp đầy. Tôi chỉ muốn hai đứa vẫn là bạn, mặc dù tình cảm giữa hai đứa thâm sâu hơn là tình bạn. Tôi sẵn sàng nói láo với Ba, một việc mà từ trước đến giờ tôi không bao giờ làm. Có lẽ tôi cũng đã học được cách nói láo lúc cả hai cha con đều cùng giả vờ tối hôm nọ. Hay là vì tôi chỉ duy lý hoá một cách giản dị những gì đang trôi nổi trong khoảng không ở quanh tôi trong khu chung cư Sandstone, một thứ lệnh lạc bất thành văn cấm tôi không được nói lên những gì không thể nói.
Dù vì lý do gì đi nữa thì Phoebe cũng chẳng màng. Bây giờ tôi nghĩ là Phoebe đã giữ quá nhiều bí mật trong người. Hắn cũng không giữ được chút bí mật của tôi. Hắn bỏ tôi đứng trong nhà tắm với hai mắt đỏ ngầu, yếu đuối, trong khi hắn thẳng người bước ra, hai mắt hắn ráo hoảnh. "Bạn nói với tôi một lời gì đi," tôi nói với theo trước khi cánh cửa đóng sầm lại.
Chúng tôi vẫn tiếp tục ngồi cạnh nhau trong lớp cho hết năm đó. Bà Strickland không cho phép bọn tôi được chọn chỗ ngồi. Phoebe đã không nói thêm gì với tôi. Ngồi cạnh hắn, tôi đau khổ như một kẻ bị tình phụ. Sau đó Ba xin được chân gác dan ở trường Saint Mark, một trường tiểu học nằm cuối dường, rồi dùng hết số tiền ông làm ra và dành dụm được cho mấy anh em tôi đến đó học, mặc dù chúng tôi không có đạo. Trong mấy năm tiếp theo, thỉnh thoảng tôi có nhìn thấy hắn thấp thoáng trong khu chung cư Sandstone, nhìn hắn càng ngày càng lớn dần lên, càng lớn càng đẹp, mái tóc giờ đã dài quá vai, trên người không còn những bộ áo quần mua ở tiệm đồ cũ mà là những bộ áo quần thời trang đắt giá, trang điểm một cách tài tình mà tôi không biết ai đã chỉ cho. Tôi thì lúc nào vẫn vậy: gầy guộc, thân hình không có đường nét, mặt bầu bĩnh, một con bé trước đây chỉ mặc áo quần Goodwill nay có được bộ đồng phục của trường Công giáo cũng đã hí hửng. Tôi nhìn hắn, ao ước được là hắn, được ở trong thân xác hắn. Hắn nhìn lại tôi với đôi mắt vẫn mạnh dạn như tôi đã nhìn thấy trong nhà tắm, lại còn pha thêm chút gì khác mà tôi không rõ, nhưng chắc chắn không phải là lòng thương hại mà cũng chẳng phải lòng tử tế.
Sau đó hai cha con hắn dọn ra khỏi khu chung cư Sandstone. Hắn học trung học ở một trường ở phía bên kia thành phố. Tôi nghe hắn học tiếp lên đại học cộng đồng, rồi bỏ học. Tôi tiếp tục học, lấy được điểm cao, lên đại học để rồi thấy mình bị chôn vùi dưới sức ép làm một sinh viên Berkeley. Ở dây tôi không còn nghe được những tin đồn về hắn, và bây giờ thì tôi đã không còn nhớ là tôi đã quên hắn từ lúc nào. Những chi tiết về việc ông Lưu đã làm gì cũng đã biến mất theo hai cha con. Tôi không bao giờ biết được những gì đã xảy ra ở căn 2D, và làm sao Ba tôi biết được. Giá như tôi bạo gan hơn, ngày đó tôi đã phục sẵn ở chiếc ghế bành đợi lúc Ba ngồi, tôi sẽ đứng trong khoảng giữa cửa sổ và chiếc ghế rồi buộc ông phải nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra.
Tôi đặt bó hoa dưới chân một trong ba cột cờ đằng trước khách sạn Montblanc, trước hiên có mái che đón khách. Trên đầu tôi là ba lá cờ: cờ sao sọc, cờ gấu vàng của California và cờ đỉnh Bạch sơn hai màu xanh trắng. Tôi thấy một người gác dan bận đồng phục đang từ trong hành lang khách sạn hối hả đi ra đón tôi. Tôi mang hoa đến không phải vì ai cũng làm thế, nhưng vì Phượng còn có nghĩa khác, ngoài nghĩa là con chim phượng nghe không thật. Việc chuyển dịch tên của Phượng gây cho tôi nhiều kinh ngạc, cũng như cái chết của Phượng, tự gieo mình từ một tầng lầu cao của một khách lạn tráng lệ giữa một khu phố tồi tàn, giữa những khu nhà xây cùng một kiểu, giữa những khu chung cư sập sệ. Tôi không hiểu được. Tôi cũng không biết mình phải bắt đầu từ đâu.
Tôi còn nhớ Ba có nói sơ rằng Phượng là tên một loài hoa nở vào tháng 6, báo hiệu mùa hè đến. Lúc này trời chỉ mới vào tháng mười mà mưa đã bắt đầu rơi, tưới dẫm lên bó hoa tôi vừa mang đến. Tôi đứng yên, đầu để trần, ngẩng lên nhìn bầu trời xám xịt trong làn mưa, cảm nhận được những giọt mưa lạnh đang lăn đều xuống cổ. Tôi rùng mình, nghĩ đến Ba giờ này cũng đang ngồi bên cửa sổ trong căn phòng khách lờ mờ, cũng đang ngắm mưa, mê mải trước cảnh chập chờn của ánh sáng và những hạt nước mưa lấp lánh trên mặt cửa kính.
Nguyễn Thành Việt
Thạch Hãn dịch
English original copyrighted by Viet T. Nguyen.
Vietnamese translation copyrighted by Thạch Hãn.