vhnt, số 30
20 August 1995
Trong số này:
+ thư tín / thư bạn -dọc
+ tin tức văn nghệ
+ post 1 - thơ, Thủy Tiên, Phạm Chi Lan
+ post 2 - truyện ngắn, Bài Học Đầu Tiên, Lư Ngọc Dung
Thân Gởi các bạn vhnt,
Ðọc thơ của Lý Hồng Văn làm tôi say theo cũng muốn làm thơ theo nhưng biết hồn thơ mình chưa "tới". Mà thơ lại không phải là việc take risk được như anonymous. Làm thơ mà hỏng là giết mất nàng thơ của mình đi.
Tôi xin mượn hai câu thơ say sau này làm quen các thi sĩ của vhnt:
Cho tim thổn thức men thương nhớ
Cho dạ bâng khuâng vị đợi chờ
Trích từ tập thơ cụ NTH chưa từng phổ biến nơi nào trừ trên vhnt. Tôi sẽ xin tác giả phóng nguyên bài trên vhnt.
PCL
Tin Văn Nghệ
Tạp chí GRANTA và số phận thuyền nhân - Tạp chí văn chương hàng đầu xuất bản ở Anh và Hoa Kỳ, số 50, phát hành đầu tháng 7, 1995, dành hơn nửa số trang cho những bài viết vê số phận thuyền nhân Việ Nam đang phải chịu cưỡng bách hồi hương sau khi không được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc chấp thuận cho định cư tại quốc gia đệ tam. Ngoài 2 bài viết của Philip Gourevitch, tựa "The Boat People", và của Paul Eggers, tựa "Saviours", còn có 2 truyện ngắn của 2 nhà văn VN: Trần Vũ với "Đảo San Hô" do Phan Huy Đường và Nina McPherson dịch ra Anh ngữ với tựa đề "The Coral Reef". Truyện ngắn thứ hai của Bảo Ninh, cũng do hai dịch giả trên dịch ra Anh ngữ, dưới tựa "Savage Winds", nguyên bản là "Gió Dại". Đây là truyện ngắn gây nhiều phản ứng chống đối gay gắt của những người cựu chiến binh cộng sản cũng như những nhà văn Viet Nam. Ngoài 4 bài trên, Granta còn dành 12 trang in những hình ảnh sinh hoạt của người dân Hà Nội qua ống kính của ký giả Ed Graza.
Võ Phiến, một đời cho văn học - Cuối tháng 9 này, văn hữu của nhà văn Võ Phiến sẽ tổ chức một buổi họp mặt để vinh danh Võ Phiến tại Virginia, với chủ đề: "Võ Phiến, một đời cho văn học". Ban tổ chức qui tụ các người cầm bút ở miền Đông Hoa Kỳ và miền Tây bay qua. Theo chương trình, 3 diễn giả chính sẽ là nhà văn Lê Tất Điều, Nguyễn Xuân Hoàng, và Nguyễn thị Hoàng Bắc.
Thủy Tiên
Em gánh gạo về
qua con đê nhỏ
có gợn gió chiều
thổi mát đồng quê
thoảng trong gió chiều
vẳng tiếng sáo diều
gốc mạ xanh êm
nằm ngoan dưới nắng
nắng chiều thoi thóp
nhẹ rơi như mành
khói bếp nhà ai
tỏa làn khói trắng
quê em Hà Thao
miền quê đất Bắc
lụa mềm em mặc
như ánh trăng hiền
mời chị ngồi chơi
nước chè ngọt môi
thêm mùi lúa mới
em nhoẻn miệng cười
đồng tiền em xinh
không mua không bán
ai hỏi không cho
làm duyên em giữ
trăng lên ngọn tre
gió hiu hiu thổi
tựa đầu vai chị
nghe kể chuyện tiên:
Xưa Daffodil
người đẹp cô đơn
mơ thấy nàng tiên
hiện ra cùng chàng
mỗi chiều ra ao
chàng soi bóng mình
thấy hình người đẹp
rồi về tương tư
một hôm chàng ốm
nàng không đến thăm
chàng ra ao vắng
tìm kiếm bóng nàng
bóng nàng mặt nước
chàng đưa tay với
chàng ngã vào nàng
cả hai cùng chết
một hôm bờ ao
có hoa vàng nở
mầu vàng rưng rức
tên gọi Thủy Tiên
đầu nặng bên vai
thấy em im lặng
dường như em buồn
em tên Thủy Tiên
giọng em ngậm ngùi:
"con gái tên hoa
bao giờ cũng khổ
chị cũng là hoa!
mong manh hoa nở
một sớm hoa tàn
làm thân con gái
như là mây trôi..."
Phạm Chi Lan
8-1995
(*) tặng T, và những người con gái làng Hà-Thao, tỉnh Hà Đông, miền Bắc. Mùa hè 1995.
Bài Học Đầu Tiên
- Thảo, vô đây tao biểu.
Một giọng nói gắt gỏng từ phía sau nhà vọng ra. Tiếng của má ghẻ tôi. Tôi vội bỏ đám bạn đang cùng chơi nhảy dây trước sân chạy vô nhà, song không quên ngoáy đầu lại bảo chúng bạn:
- Tí nữa Thảo ra sẽ chơi tiếp nha.
Ðằng nhà sau, má ghẻ của tôi đang ngồi soạn những món đồ bà vừa mua ở chợ về. Xung quanh bà là một đống rổ rá bày la liệt những rau muống, bí đao, thịt ba rọi, hành tây, vân vân. Thấy tôi vào, bà ngẩng đầu lên bảo :
- Tao bỏ quên túi bột ngọt ở chỗ dì Út Mót rồi. Mày chạy ra ngoài chợ lấy cho má đi. Mày thì suốt ngày cứ lo chơi không hà!
Tôi nói nhanh một cách chua chát:
- Dạ, để con đi liền.
Cái tiếng tao mày bao giờ cũng nghe thật xót xa đối với tôi. Mỗi khi má tôi nói chuyện với hai đứa em nhỏ, tôi chưa bao giờ nghe bà dùng tiếng mày để gọi chúng cả. Cái từ con ngọt xớt hình như má tôi chỉ để dành cho mấy đứa em tôi mà thôi: con Hương và thằng Hùng. Tôi luôn ganh tị với chúng nó vì chúng luôn có một người mẹ ngọt ngào để trò chuyện còn tôi thì không. Tôi giống như một kẻ để bà sai vặt, để trút mọi cơn hờn dỗi, để làm một tấm bia đỡ đạn thế cho ba tôi mà thôi. Tôi bước những bước nặng nề ra chợ. Bà Út Mót bán tạp khô thấy tôi lầm lũi bước đến thì đã sửa soạn một túi bột ngọt để sẵn. Nhìn khuôn mặt giống bánh bao chiều của tôi, bà liền nói:
- Bị má con la nữa hả? Thôi kệ đi con. Con phải biết: Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng.
Cũng là câu nói đó. Từ khi ba tôi lập gia đình đến giờ đã sáu năm và tôi luôn nghe những người xung quanh xì xầm với tôi về hai câu ca dao xưa cũ này. Và có lẻ cũng chỉ vì hai câu ca dao này mà má ghẻ tôi luôn coi tôi như một kẻ thù địch trong nhà. Tôi nguyền rủa thầm những người đã đặt ra hai câu ca dao này bởi vì nó quá đúng, quá thật.
Thầy giáo chủ nhiệm lớp tôi đạo mạo bước vào lớp với cái cặp da to lớn căng đầy sách vở. Như thường lệ, thầy nhẹ nhàng đặt cái cặp lên bàn và nhanh nhẩu lấy ra quyển sách Giảng Văn lớp năm. Giờ đầu tiên hôm nay là giờ Giảng Văn. Thầy cầm lấy một viên phấn và đứng lên bục nắn nót viết ngày tháng và đề tựa. Dưới hàng chữ Giảng Văn trắng toát là dòng chữ in đỏ tía ngay ngắn chỉnh tề: TÌNH CẢM GIA ÐÌNH. Thầy quay lại và bảo với chúng tôi:
- Các em mở sách ra đọc theo thầy.
Năm mươi bốn cái miệng nhỏ của chúng tôi đồng loạt lập lại những câu ca dao về tình cảm gia đình mà thầy đọc mớm trước.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Anh em như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Tôi bỗng cảm thấy bực mình với tất cả những câu ca dao này bởi vì đối với tôi nó không thực một chút xíu nào cả. Ðó là những câu ca dao về một gia đình hạnh phúc còn gia đình tôi thì không. Tôi lơ đễnh nhìn ra ngoài trời. Bầu trời trong xanh với những làn mây trắng xám chầm chậm bay tạo nên những hình thù kỳ quái. Tôi tự hỏi tại sao người ta không chịu in hai câu ca dao: Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng vào trong bài học Tình Cảm Gia Ðình này!
Ba tôi mất vì bệnh tiểu đường khi tôi đang học lớp bảy. Ðêm hôm đám tang ba tôi, các anh chị hàng xóm đến ca hát và kể chuyện suốt đêm để canh giữ quan tài. Mắt tôi thì ráo hoảnh vì đã khóc đến khô cạn nước mắt. Có lẻ tôi đã khóc theo bản năng của một người mất cha, khóc chỉ để khóc mà thôi. Má ghẻ của tôi quá mệt mỏi vì phải chăm sóc ba tôi trong những giờ phút lâm chung nên đã đi ngủ tự bao giờ. Một anh trong đám bỗng vơ lấy cây đàn guitar và hát bài Tình Cha. Tôi lặng nghe và tự dưng những dòng nước mắt tưởng đâu đã khô cạn lại lặng lẻ trôi dài trên gò má tôi theo tiếng nhạc buồn bã:
Người là vầng Thái Dương không như mẹ trăng rằm diệu êm...
Mặt người dường như giá băng, dấu trong tâm hồn chan chứa yêu thương
Cha muốn cho con nên người nên thường lạnh lùng nghiêm khắc
Cha giữ cho con cuộc đời dừng lại những bước chân trong màn đêm
Người vui lúc con thơ ngoan hiền
Người thương thấy con chăm học hành
Tình cha mấy ai nào biết đâụ..
Ba tôi khi còn sống rất ít nói. Người thường im lặng mỗi khi mẹ ghẻ của tôi la mắng tôi; cùng lắm người chỉ nói:
- Thôi đủ rồi bà.
Người thường mua sách cho cả ba anh em chúng tôi. Tôi đã từng nghiến ngấu cùng hai đứa em đọc những truyện tranh Tề Thiên Ðại Thánh, Mẫn Tử Khiêm, truyện về các Tổng Thống Hoa Kỳ, các nhà bác học trên thế giới như Louis Pasteur, Sophia Kovalevskaia, Marie Curie, vân vân. Mỗi buổi tối, Người hay lạnh lùng nghiêm khắc kiểm tra tập vở của cả ba chúng tôi và thưởng cho đứa nào lười biếng những đòn bánh tét nhân mây thấm thía. Tất cả những điều giản dị đó giờ đây đã theo Người đi xuống suối vàng.
Tôi chợt hiểu tôi khóc vì vĩnh viễn tôi mất đi một tình thương yêu duy nhất mà đến bây giờ tôi mới được biết trên cõi đời. Tôi khóc vì biết rằng từ nay sẽ không còn ai ngăn chận những trận chửi rủa mà má ghẻ tôi trút xuống đầu tôi. Tôi khóc vì tôi sẽ không còn ai để khoe những con 10 đỏ tươi của môn Toán, những điểm 8, 9 rạng rỡ của môn Văn cũng như không còn cơ hội để đạt được những điểm số khích lệ như vậy nữa. Và tôi khóc vì biết rằng tương lai của tôi cũng sẽ mịt mù vì không còn ai ngăn cản những bước chân lạc lõng của một cô bé mười ba tuổị Tôi đã khóc cho chính tôi và cho cả gia đình tôi
Tôi từ giã học đường đi bán bánh mì được bốn năm kể từ ngày ba tôi mất. Mỗi sáng, tôi sắp hàng tại lò bánh để lấy một cần xé bánh mì đầy ắp và rong ruổi khắp những hang cùng ngõ hẻm để rao bán bánh mì. Ðến xế chiều thì tôi mang tiền đến trả cho chủ lò bánh mì và gom góp số lời ít ỏi về cho má ghẻ của tôi. Có lẻ vì tôi chỉ ở nhà vào buổi tối và lại kiếm được đồng ra đồng vào nên má tôi không rầy la tôi như trước kia. Bà cũng đã thôi việc làm trong công ty may mặc Cao Thắng mà trở về bán sữa đậu nành ở chợ. Hàng ngày tôi thường giúp má tôi ngâm đậu, xay đậu và nấu sữa. Cuộc sống sẽ cứ bình lặng đều đều trôi qua như vậy nếu như không có một ngày...
Tôi đang chuẩn bị giỏ cần xé thì bỗng bụng tôi quặn thắt. Một cơn đau kinh hồn khiến tôi nôn mửa tất cả mớ khoai luộc mà sáng nay má tôi đã chia phần cho mỗi đứa chúng tôi. Tôi nôn thốc nôn tháo tất cả những gì có trong ruột. Má tôi nhìn tôi và trong ánh mắt bà thoáng một tia nghi ngờ. Tôi vốn rất khỏe mạnh mà! Bà quay sang bảo với nhóc Hùng bấy giờ đã được chín tuổi:
- Chạy sang gọi bác sĩ Thuần ở đầu ngõ cho má đi con.
Mười phút sau, ông Thuần đã có mặt. Ông nhìn lướt qua khuôn mặt xanh xao của tôi rồi đưa tay bắt mạch. Ông nghe mạch rất lâu, đoạn ông xoay sang má tôi và bảo:
- Thưa bà, cháu nhà bà có mang đã được hai tháng rồi. Bà nên cho cháu làm những việc nhẹ hơn để dưỡng thai. Má tôi định đưa tiền thì ông đã lắc đầu ra về. Ðợi ông đi khỏi , bà xoay qua tôi với cái nhìn lạnh tanh nghiêm khắc và hỏi cụt lũn:
- Thằng nào?
Tôi lắp bắp đáp như một người mất hồn:
- Anh Phong.
Cho đến giờ phút này, tôi cũng không nhận ra hậu quả của những việc mình đã làm. Tôi nghe má tôi hỏi bên tai:
- Tại sao lại là nó, con??? Cái thằng Bắc kỳ với cái miệng dẻo như kẹo kéo đó hả con? Có phải là nó đã dùng lời ngon tiếng ngọt để mê hoặc con không?
Tôi gật đầu như một cái máy và dường như tôi không quan tâm lắm đến nội dung của câu chuyện. Tôi chỉ sững sờ trước từ Con ngọt ngào mà má tôi vừa thốt ra. Ôi cái tiếng con ngọt ngào từ một người mẹ mà lần đầu tiên trong đời tôi được nghe thấy. Má ruột của tôi chưa bao giờ có cơ hội để gọi tôi bằng con vì bà đã mất vì một cơn đau tim ngay khi tôi mới chào đời. Tôi mở to mắt nhìn má ghẻ của tôi và hỏi như người bị mộng du:
- Má, má gọi con bằng con hả?
Bà nhìn tôi và bỗng giơ hay tai kéo tôi vào lòng vuốt ve:
- Thì má gọi con bằng con nè. Con ơi, sao con dại như vậy hả con? Bây giờ nó đã quất ngựa truy phong rồi con không thấy sao? Thôi rán khỏe lên đi con để còn đi bán bánh mì hôm nay. Tối về má con mình nói chuyện sau nha.
Tôi vui vẻ gật đầu.
Chiều hôm đó, tuy mệt nhọc song tôi vẫn rảo bước đều dưới trời mưa và cao giọng rao:
- Bánh mì nóng giòn mới ra lò đây, bánh mì nóng giòn đây.
Một bà lão đứng trong một ngôi nhà có giàn bông giấy trắng vẩy tay gọi tôi. Bà đưa cho tôi tờ giấy một ngàn đồng để lấy hai ổ bánh mì lớn. Khi tôi cẩn thận tủ mấy tấm nylon lên cái cần xé của mình, tôi nghe văng vẳng vài câu hát cải lương vọng từ trong nhà bà ra: Ðã mang kiếp sống ở đời, mấy ai không phải khổ đau, ai ai cũng vướng vòng trầm luân...
Hương vị tình yêu chỉ còn lại một giọt máu trong bụng tôi. Những lời hứa hẹn đường mật của Phong đã tan theo mây khói. Anh đã trở ra Bắc bằng cách đi chui xe lửa như lúc anh đến Sài Gòn từ Hà Nội. Nói cho cùng, anh quất ngựa truy phong một cách bất ngờ. Thật là khổ đau và chua chát. Song tình yêu của người mẹ ghẻ ẩn dấu suốt mười mấy năm trời đối với một đứa con mười bảy tuổi hư hỏng như tôi dường như tiếp sức cho tôi để đối phó với những thử thách của cuộc sống. Tôi bước đi giữa cơn mưa rào tầm tã. Trong lòng tôi hạnh phúc và khổ đau lẩn lộn. Phải, đã mang kiếp sống con người, ai ai cũng vướng vòng trầm luân.
viết cho con, PLAV
August 18, 1995
Lư Ngọc Dung