vhnt, số 190
29 May 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
thư độc giả vhnt .......................................................
T h ơ :
1 - Nốt luyến ...........................................Tôn Thất Hùng
2 - Vô đề I...........................Nguyễn Hiện Nghiệp / PN dịch
3 - Thói quen ......................................Nguyễn Phước Nguyên
4 - Cành hồng trắng .........................................Chung Trần
5 - Biển và tâm sự ....................................Trần Thái Vân
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 -"Vượt vũ môn": Thư gửi các bạn văn trẻ .......................Nguyễn Tấn Hưng
S i n h H o ạt V ă n N g h ệ :
7 - Tin về lưu diễn và sáng tác mới của nhạc sĩ Phạm Duy....... Do Don
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Trên sông Hương ........................Andrew Lam / Thạch Hãn dịch
29 tháng 5, 1996
VHNT số này ngoài những sáng tác sắc nét của các bạn văn, còn có một bài tùy bút của Nguyễn Tấn Hưng đăng trên diễn đàn Ô-Thước, o-thuoc@saomai.org, diễn đàn thảo luận văn học của nhóm chủ trương VHNT và thân hữụ Bài viết "thư gửi các bạn văn trẻ" được đăng lại trên VHNT để chia sẻ cùng bạn đọc những suy nghĩ và quan niệm sáng tác của nhà văn Nguyễn Tấn Hưng gửi riêng cho nhóm vhnt và cho các người viết trẻ nói chung. Bạn đọc có thể gửi ý kiến về bài viết này cho VHNT và tác giả.
Chúc bạn đọc một ngày làm việc vui vẻ và tâm hồn thanh thản.
thân ái,
PCL/vhnt
THƯ ĐỘC GIẢ VHNT
Ðính chính về lời bài thơ "Những phút xao lòng" của Thuận Hữu
Kính gửi ban biên tập VHNT và bạn đọc,
Trước khi gửi lời bài thơ "Những phút xao lòng" của Thuận Hữu đến VHNT tôi đã gửi nó cho một anh bạn; nhưng vì để "lỡm" anh bạn, nên tôi đã chữa lại phần mở đầu của bài thơ, rồi sau đó do vô ý tôi đã "tiện tay" gửi luôn cho VHNT (VHNT số 187) mà không để ý là bài thơ đã bị "thất bản":
NHỮNG PHÚT XAO LÒNG
Có thể vợ mình xưa đã có mấy người yêu
(Những người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ).
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã mấy chồng.
Nay tôi vừa nhận được lời bình (rất tâm đắc !) của anh bạn thì mới nhận ra lỗi ở trên! Tôi thành thật xin lỗi ban biên tập cùng bạn đọc vì sự sơ suất này và xin đính chính lại khổ đầu của bài thơ (chính xác !) như sau:
Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu
(Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ).
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã có chồng.
Nhân tiện tôi cũng xin đính chính tiếp, tên của nhà thơ Nga Lermontov (VHNT 169, 170) là Mikhail Yurievish chứ không phải là Yurii. Do một sự hiểu nhầm giữa tôi và ban biên tập, nên trong phần "mục lục" của VHNT 185 ghi bài thơ "Gửi mẹ" của Xergei Exenhin do tôi dịch. Thực ra dịch giả không phải là tôi mà do tôi không biết, nên đã không đề dịch giả là ai, thành ra ban biên tập đã hiểu lầm là tôi dịch!
Xin thành thật xin lỗi bạn đọc.
Ðinh Nho Hào
Nốt Luyến
Bản nhạc
Khúc dạo đầu để ngỏ
Lời thơ đi lạc
Tháng ngày ngây ngô.
Như một mảng tình cờ
Tôi bắt được
Nốt luyến
Và Em - Nửa vòng khuyên trói buộc.
Vầng trăng đầu tháng
Mỏng mảnh đẩy đưa dấu luyến
Kéo lại sao trời
Làm nốt nhạc chưa tìm được lời
Rơi xuống thành cơn mưa tháng mười hai
Khẽ khàng
Vòm cây nhà em nhận lấy
Còn tôi nhận từ tay em
Dấu luyến - Nửa vòng khuyên trói buộc.
TTH
1986
Vô Ðề I
tặng NKP
Mỹ nữ như quí tửu
Túc hạ hảo nhân ưu
Hồng trần phi quân tử
Duy cảm bút phong lưu
Nguyễn Hiện Nghiệp
oOo
Không Đề I
Rượu quý kề bên đám gái xinh
Rong chơi cho hết kiếp phù sinh
Bụi hồng vương áo người quân tử
[Bụi hồng vương áo chàng Tư Mã]
Một bút phong lưu, mấy chút tình!
Phùng Nguyễn phóng dịch
Thói Quen
giản dị đến thế sao em
chỉ sau đôi ba lời nói
là hai đứa hết yêu nhau
cuối đời, tình lên cơn đói
yêu em tình đầu hấp hối
con tim bối rối tình sau
em, cơn đau nào trăn trối
mỗi lần ánh mắt nhìn nhau
không bao giờ em hiểu được
những gì ta đã nói ra
(bởi ta cũng chẳng hiểu ta
ở bao nhiêu điều chưa nói)
nhớ em, từng ngày tháng mỏi
trở thành một thói quen ta
chờ em như từng đêm tối
đợi bình minh, nắng trổ hoa
tháng năm tình yêu lên mạ
ta đem cấy giữa lòng nhau
chờ ngày mưa rơi cuối hạ
bạc đầu lúa gặt ngày sau
có đâu bao nhiêu hờn giận
cho đời lận đận phong ba
trọn đời mình chung số phận
thương nhau, như thịt liền da
để mai sau nầy con cháu
sẽ hồn nhiên lớn lên mau
trong bao chan hòa hạnh phúc
vì cha mẹ chúng yêu nhau
npn
cành hồng trắng
trong vườn tôi có một cành hồng trắng
rất ngọt ngào hoa nở từng hôm
hai buổi đi về tôi thường ngắm
những cánh hoa tươi rất dịu dàng
tôi vẫn thường hay hái cành hoa
tặng người con gái kế bên nhà
nhưng bỗng một hôm hoa thôi đến
chẳng biết vì tôi hay đường xa???
chỉ thế mà lòng bâng khuâng hoài
giận mình mỗi lúc nắng nhẹ phai
nụ hoa thôi hết người đến hái
nên cũng nghe buồn mỗi sớm mai
có phải em là cành hồng trắng
chờ cuộc đời đến hái làm vui
hay vì năm tháng vô tình quá
giết chết hồn em tự lâu rồi?
trong vườn tôi có một cành hồng trắng
vẫn từng ngày nở những bông hoa
đôi khi e ấp buồn không nói
cười nhẹ mỗi lần tôi ghé qua!
cd
Biển Và Tâm Sự
Chén rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Tô Thùy Yên
Tôi đứng bên bờ Ðại Tây Dương
Cuối thu thưa người vắng lặng
Từng cơn sóng trắng
Vỗ mạnh vào khoảng hư không
Nước xanh thẳm một dòng
Như kỷ niệm theo thời gian chảy mãi
Biển hoang dại
Biển của yêu thương, biển của tuổi thơ...
Tôi nhớ những ngày còn nhỏ
Buổi trưa thường trốn mẹ
Chạy ra biển cùng đám bạn bè
Bắt còng, bơi lội, la lối nhí nhô
Xây thành đồ trong mường tượng quy mô
Như những truyện ly kỳ Ả Rập
Kẻ cao, người thấp
Chia phe dàn trận đánh nhau
Lúc bị mẹ bắt gặp
Phạt mấy ngày trời không cho đi dâu cả
(Mẹ sợ bà Hà Bá
Nên không muốn tôi học bơi
Vì tôi là con trai duy nhất)
Năm tôi lên mười bốn
Có một lần cắm trại trên bãi Tiên Sa
Trăng trung thu vằng vặc soi ánh ngà
Những hàng phi lao xanh cao vòi vọi
Tiếng vi vu gió nồm hiền hoà thổi
Mây trắng ngừng bay ra dáng hữu tình
Ðêm mênh mông, huyền hoặc, thanh bình...
Nàng với tôi, hai người hàng xóm
Ngồi bên nhau tập nói chuyện yêu đương
Mắt nàng trong tựa ánh sao vương
Nàng mỉm cười bẽn lẽn
Tôi nghĩ ngợi mông lung
Vẫn không tìm lời vừa ý
Chuyện tình của hai người bé tý
Biết nói cái gị
Không ngoài cho kẹo
Và đá lông nheo
Nhiều lắm là tặng nhau một cánh tùng ép vở
Hay một cặp bướm vàng chết khô không hơi thở
Hoặc một cái nhéo tay đau điếng cả người
Chúng tôi nhìn nhau nhiều ý, thiếu lời
Ðêm đơn giản, đêm hư vô, đêm thơ mộng
Không phập phồng, không rượu nồng hơi thở
Không son phấn ngạt ngào
Nhưng cũng là một ấn tượng rạt rào
Ngàn năm còn lưu luyến...
Cũng trên bờ biển ấy
Trong một đêm định mệnh
Chúng tôi bỏ nước ra đi
Lặng yên, khe khẽ, thầm thì
Mấy chục người cùng xuống chiếc ghe bé nhỏ
Tôi còn nhớ rất rõ
Những tiếng thở phào, ánh mắt vấn vương
Nhịp tim thình thịch khác thường
Khi mái chèo nhẹ nhàng khua sóng nước
Mắt của tôi ươn ướt
(Không phải vì sương đêm)
Qua khỏi cửa biển lặng êm
Trời đã hừng hừng sáng
Vài chiếc thuyền đánh cá vừa về buổi sáng
Bọn họ vẫy chào
Tôi đau như có chỗ nghẹn máu đào
Vì tự nhủ những người này rất có thể là những người Việt Nam cuối cùng tôi gặp
Quay đầu lại nhìn quê hương
Chốn chôn nhau cắt rốn
Núi Sơn Chà sừng sững, hiên ngang
Nhưng nhỏ dần, nhỏ dần, nhỏ dần thêm
Dưới ánh mặt trời đang lên đỏ ối
Màu đỏ ối
Như máu mẹ của Việt Nam
Phẫn uất, nghẹn ngào không nên tiếng
Hay đó là mắt của Thần Rồng nhìn đàn con vô tội
Ðang lên đường tìm một chốn dung thân?
Chúng tôi cho thuyền trực đông
Chạy cả ngày không hề đổi hướng
Ðêm đó đại dương bảo chướng
Thuyền ghập ghềnh
Sóng bềnh bềnh
Ba thước lên cao, mười thước xuống
Phổi phèo đảo ngược, óc nhược, tim run
Có lúc tưởng đã chìm
Trong hãi hùng tôi nghe đủ lời cầu nguyện
Kẻ đọc kinh mân côi người vái tên bồ tát
Có kẻ gọi mẹ cha nhớn nhác
Tôi nằm im dưới khoang thuyền
(Vì bị đè lên bởi mất người ngồi bên cạnh)
Trong phút giây thập tử nhất sinh
Tôi bỗng thấy mình bình tĩnh chi lạ
Tôi nguyện cầu cho mẹ được yên vui miền tây hạ
Rồi một đời hiện rõ như cuốn phim
Tôi thấy ba, chị, cô, cậu, chú, dì
Những người thân yêu nhất
Tôi nghĩ ngợi
Nếu chết chỉ có một điều đáng tiếc
Và một điều cầu mong
Chẳng có chi dài dòng
Chỉ mong được hết toàn thây không bị rã miếng
Và được trôi vào bờ biển
Ðiều đáng tiếc: Người đời thường nói Tứ Khoái
Tôi chỉ mới biết có ba...
Trong lúc hãi hùng có người cất tiếng ca
"Lạnh lùng sương rơi heo may..."
Làm chúng tôi bừng tỉnh
Người tát nước, kẻ sửa tàu
Lúc trời vừa rạng đông
Bão tố lặng yên
Chúng tôi vui sướng như điên
Còn sống,
Chúng tôi vẫn còn sống
Hôm nay tôi đứng bên bờ Ðại Tây Dương
Cuối thu người thưa vắng lặng
Từng cơn sóng trắng
Vỗ mạnh vào khoảng hư không
Nhìn vào cõi mênh mông
Tôi nhắm mắt tưởng tượng
Cùng đêm tôi đi bao nhiêu người ra đi chẳng được
Ở một nơi nào đó âm thầm
Hàng loạt AK nỗ dòn ác nghiệt
Tiếng trẻ thơ hãi hùng thảm thiết
Tiếng ré của mẹ hiền trắng dợt bi thương
Tiếng của cha kêu như xé đêm trường
Người ngã chết, kẻ bò tán loạn
Da toét thịt rơi ngời ngời máu loáng
Ngừng tiếng súng
"Bắt bọn chúng, bắt bọn chúng..., bắn bọn chúng"
Súng lại nổ vang trời
Cùng đêm chúng tôi bị bão cuốn vùi
Trên một chiếc thuyền nào đó
Cũng trôi giữa dòng đại dương
Nhưng họ đã mấy tháng trời phiêu bạt muôn phương
Ðành ăn thịt người để sống
Biển trời lồng lộng
Họ còn có con đường nào khác?
Lại cũng trong đêm ấy
Có tàu chìm vào đại dương sâu thẳm
Tiếng kêu cứu thất thanh
Ngụp lặn, ngụp lặn, ngụp lặn
Rồi trở thành những hồn ma vô danh
Sống bị bắt bỏ quê hương, chết không yên mồ mả
Trên đời hàng ngàn tội đã tả
Ðâu phải tội nào họ cũng phạm vào
Mà phải đoạ đày thịt róc, xương tan?
Ôi! Biển của oan khiêng, biển chít khăn tang!
Trên bờ Ðại Tây Ðương
Và bao nhiêu bờ biển khác
Ðà Nẵng, Nha Trang, Bidong, Hai Khẩu...
Chiều nay sóng vẫn vỗ rầm rì
Tôi nghe như tiếng khóc than rên rỉ
Của những oan hồn không chốn dung thân
Sổ phong thần
Có ghi lại bao nhiêu người đã khuất?
trần thái vân
Thư Gửi Các Bạn Văn Trẻ
Pascal nói: "Cái tôi là cái đáng ghét, le moi est haissable."
Nhưng học giả Lâm Ngữ Ðường cũng có nói: "Viết văn mà không dám viết về cái tôi của mình thì khó trở thành nhà văn lớn."
Mới đây, trong một bài phỏng vấn, trả lời câu hỏi của Nguyễn Mạnh Trinh, "Có người nói tác phẩm đầu tay thường có nhiều chất cảm và có hồn tuy kỹ thuật chưa cao. Còn những tác phẩm sau, thường có nhiều tiến bộ về kỹ thuật nhưng chất cảm và hồn giảm đi. Theo anh, vấn đề này nên phân tích thế nào ?", Nguyễn Mộng Giác có nói: "Tay nghề cầm bút ngày càng cao là chuyện bình thường. Còn xúc cảm, nhiệt tâm tác giả gửi gấm trong tác phẩm ngày càng giảm đi, thì theo tôi nghĩ, không phải ai cũng như ai. Cái mất đi theo tuổi tác là sự hồn nhiên, chứ không phải xúc cảm, nhiệt tâm. Thông thường, một người cầm bút lúc khởi nghiệp viết về mình, cho mình, nên dễ đạt được ước muốn. Hàn Mặc Tử từng ước muốn: Tôi muốn hồn trào ra đầu ngọn bút. Mỗi lời thơ đều dính não cân ta. Nhưng viết về mình một thời gian rồi cũng cạn, tác phẩm sau là bản sao của tác phẩm trước. Nhà văn đối diện với một thử thách lớn, từ viết về mình chuyển qua viết về người. Những ai không qua được thử thách này, giá trị tác phẩm của họ chứng minh được điều anh vừa đưa ra..." (thực hiện tại thành phố Westminster, California, USA ngày 15-12-1995).
Trước đây, trong bài Dựng Bàn Viết Lữ Thứ, Nguyễn Ngọc Ngạn cũng có viết: "Nhà văn nào thì thường cũng bắt đầu bằng những nội dung có liên quan đến mình, đến những người chung quanh mình, rồi mới thoát hẳn ra cái tôi để tiến lên sáng tạo đích thực, như con thuyền bỏ sông lạch ra đại dương." Và, qua nhân vật chính, Nguyễn Ngọc Ngạn còn cho nêu ra thêm: "Nàng đòi chuyển sang truyện dài bởi nàng quan niệm rằng chưa có truyện dài thì chưa thành nhà văn chính thống." (Làng Văn, số Xuân Tân Mùi, 1991).
Như vậy thì, trước hết, đừng chê "cái tôi." "Cái tôi," đối với người cầm bút, sẽ không "đáng ghét" nếu mình biết lèo lái nó. Rất có thể sẽ trở thành "đáng thương" cũng không biết chừng. Và thứ đến, ngoại trừ những ai đó có thiên tài... a thần phù viết về người liền, chớ nếu mới bắt đầu viết thì viết về mình vẫn hay hơn, dễ hơn. Nhưng, lẽ dĩ nhiên, viết về mình hoài trước sau gì rồi cũng đi đến chỗ tịt ngòi. Nếu không, thì cũng chỉ là... nhơi lại.
Ðể không phải đau khổ rơi vào cảnh... nhơi lại, thì tự mình phải khai phá, đốt đuốt, tìm đường mới mà đi. Tôi có cái kinh nghiệm "vượt thoát" cái chỗ đau thương này nên muốn trau đổi cùng các bạn...
Số là sau bốn tác phẩm đầu Một Ðời Ðể Học, Một Thuở Làm "Trùm," Một Chuyến Ra Khơi, và Một Cảnh Hai Quê... thì tôi cảm thấy hết ý, cạn lời. Cạn luôn cả đề tài. Rồi vì không ưa chuyện nhơi lại nên tôi định gác bút dẹp nghề luôn..., nhưng có lẽ cái nghiệp dĩ chắc còn nặng, nên một hôm tôi buồn tình đích thân viết thư hoặc gọi điện thoại những người đi trước, nhiều lắm mà tôi không muốn kể ra đây, để vấn kế. Ðại khái: Làm sao viết truyện người? Hoặc giả: làm sao viết truyện dài? Hầu như mọi người đều có lên tiếng theo ý riêng của mình, chỉ bảo lối này, đường kia... vì thương tình cũng có, mà vì đãi bôi cũng có. Thử hỏi có bao nhiêu người thật lòng muốn đem hết ngón nghề, tuyệt kỷ của mình mà truyền lại cho lớp hậu sinh?
Thành thử tôi phải tự suy nghĩ, nghiền ngẫm, đãi lọc lấy. Và trong số rất nhiều câu trả lời đó có 2 câu làm tôi sáng mắt ra. Cũng giống như các họa sĩ, tình cờ, được thầy "điểm nhãn" vậy. Một là, áp dụng vào chỗ viết truyện người, rằng thì là... Hưng có biết Nguyễn Công Hoan đã từng nói "truyện là bịa, anh nào bịa giỏi như thật là anh đó ăn tiền." Hai là, áp dụng vào chỗ viết truyện dài, rằng thì là... người xưa có nói "cái gì không thể gói ghém được trong một truyện ngắn thì để dành viết truyện dài, vậy chớ nẵm nay Hưng viết cái giống gì?"
Ô hay, thì ra vậy, thì ra vậy...
Từ bao lâu nay tôi cứ đinh ninh rằng, trên cương vị của mình là một người cầm bút mình phải sống thật với lương tâm và chức nghiệp của mình, "nhà văn không biết nói láo." Tôi không muốn rời xa sự thật, đọc truyện nào không trung thực tôi không ưa. Song, ngẫm nghĩ lại, "bịa" không phải là nói láo, mà có thể chỉ là "dựng đứng lên một câu chuyện tưởng tượng" chưa từng xảy ra. Cũng chẳng hề nhằm đặt điều để vu khống hay ám hại một ai. Ừa, vậy cũng được! Mình cũng nên thử từ từ rời bỏ nhưng sự thật trần trụi, đôi khi không đẹp đẽ gì cho lắm, trong dòng đời ô trọc này xem sao!
Và tôi bắt đầu với Một Nỗi Buồn Riêng bằng cái ý tưởng rất là lớn lao, rất là hiện đại ở thời buổi bấy giờ... "quốc gia hưng vong thất phu hữu trách." Tôi sẽ viết 8 truyện ngắn với 8 nhân vật mang tên bằng 8 chữ bất hủ đó. Mải cho đến nay có nhiều người bình, bàn về tập truyện này nhưng họ vẫn không hề nhận ra cái ý đó, mặc dù tôi có nói bóng gió ở phần... thay lời tựa. Bởi, đặt vấn đề là một chuyện mà thực hành là một chuyện khác. Vì kết quả đã không đưa đến những gì tôi định liệu trước. Mà có phần nào trái ngược lại những điều tôi mong muốn nữa. Vì trong tuyển tập đó có một bài hơi hơi trật trờ là... Tuyệt Lộ, với nhân vật Vong, Vương Phóng Vong.
Ấy, mà thấy ra cũng buồn cười thật, vì thất bại ở chỗ này đôi khi lại là thành công ở chỗ kia. Thất bại là không có gì dính líu đến việc "quốc gia hưng vong thất phu hữu trách" hết, mà toàn là chuyện... dâm bôn, dâm đảng. Nhưng thành công là, bỗng dưng, nhiều người lại thích bài này. Từ lúc anh Viên Linh dám cho đăng trên tờ Thời Tập, rồi tiếp theo, tôi lấy làm lạ là rất nhiều báo khác xin đăng lại. Kể cả các tờ báo nằm trong quỹ đạo Kháng Chiến. Ðặc biệt hơn, với tờ Ngày Nay ở Witchita, Kansas, chính anh chủ nhiệm kiêm chủ bút Lê Hồng Long đã liên lạc thẳng với tôi ngõ lời... xin đăng lại, nhưng rồi vẫn gởi trả nhẩm xà $US 50.00 tì nhuận bút. Còn đòi hỏi gì hơn nữa chớ!
Nhưng, đúng ra, cái đó cũng không khoái bằng chuyện có một vài bạn văn thật thà bày tỏ: "tội nghiệp cho bà Hưng quá hả!" Trời đất, vừa thôi mấy cha! Ðâu phải thật, tội nghiệp cho tôi quá thì có! Thì ra, tôi nghĩ mình "bịa" cũnghuộc hạng khá!
Rồi với đà đó tôi muốn quay ra làm một cái gì lớn hơn những cái tôi đã có: truyện ngắn, truyện dài, thơ, nhạc, họa... Tôi bèn viết... trường thiên. Ðộng cơ thúc đẩy chính chính là vì cái câu hỏi ngược đời của một anh bạn văn... "vậy chớ nẵm nay Hưng viết cái giống gì." Câu hỏi này làm tôi... bật ngửa, chưng hửng. À, hóa ra tôi đã có hai truyện dài rồi Một Ðời Ðể Học và Một Thuở Làm "Trùm" mà tôi không hay ? Chỉ tại vì tôi viết dưới dạng một chuỗi truyện ngắn nối kết theo thứ tự thời gian nên trong thâm tâm tôi, tôi không hiểu hai tác phẩm của mình đó có được người đời chấp nhận như là hai truyện dài thật sự, thuần túy hay không ? Hay họ chỉ coi như là một tập truyện ? Với sự xác nhận bằng câu hỏi hơi bất thần đó tôi đã nghiệm ra và tự tin với chính mình...
Với những ai khác ra sao tôi không biết, nhưng với tôi, truyện dài là một chuỗi truyện ngắn. Trường thiên là một chuỗi truyện dài, tức là một chuỗi... thiệt dài các truyện ngắn. Chỉ có vậy thôi, tôi tìm ra chân lý. Và rất có thể, vô tình, tôi lại tạo ra một trường phái, một style cho riêng tôi. Gì chớ viết một chuỗi truyện ngắn theo thứ tự thời gian, đối với tôi, là... nghề của chàng. Vì tôi đã làm nhiều lần rồi!
Tôi liền nhập cuộc... trường thiên với cái vốn riêng ít ai có như mình: hải quân. Vẽ ra trong đầu ba cuốn, cho ba giai đoạn. Một Trời Một Biển cho giai đoạn sinh viên sĩ quan, Một Thời Lênh Ðênh (tức Một Trời Một Biển II) cho giai đoạn đi tàu, Một Áng Mây Trôi (tức Một Trời Một Biển III) cho giai đoạn tan hàng...
Cũng hên, qua vụ "quốc gia hưng vong thất phu hữu trách" bất thành nói trên, tôi lượm được và cất vào túi ngon ơ cái ngón... "lăng ba vi bộ." Dựa vào sự thật có chút xíu mà vẽ ra, ôi thôi, đủ thứ nội tâm, tình người, yêu đương, ngăn cách... Thì cũng chẳng khác gì người xưa thường nói, chuyện bé xé ra to, chuyện bằng hột tiêu mà thổi lớn ra như con bò. Hiển nhiên, phải có nghệ thuật, có lớp lang, thứ tự đàng hoàng...
Và rồi tôi tự biết tôi có chút chút thành công mặc dù trong làng văn và các bạn văn chẳng ai thèm để ý, ngó ngàng, đếm xỉa gì tới hết. Vì nếu không thành công thì còn khuya mới lọt vào mắt xanh của ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng. Nhứt là khi ổng dám bỏ ra $US 1500.00 để trả tiền tác quyền. Mà thật ra cũng chẳng phải dễ, bao nhiêu tác phẩm gởi về... dự thí, thì eo ơi, con số được tuyển lựa và chấm đậu rất khiêm nhường. Nhiều người cứ nghĩ rằng tờ Văn Nghệ Tiền Phong không phải là một tờ báo văn học nghệ thuật thuần túy, cho nên sách của Văn Nghệ Tiền Phong in ra là sách thiếu văn chương? Nhưng có điều tôi cũng tin tưởng rằng, với số lượng trên dưới 15,000 độc giả đôi khi vẫn sáng giá lắm so với 500 hay 1000 độc giả của Văn, Làng Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21... Kỳ thực, có làm việc với ông Nguyễn Thanh Hoàng rồi mới thấy ổng rất có tấm lòng đối với văn chương chữ nghĩa. Ổng đọc bản thảo từng chữ một để sửa lỗi chính tả và còn đề nghị thêm, bớt một vài chữ cho câu văn không tối nghĩa, không rườm rà và gãy gọn hơn. Phần lớn, tôi chiều theo ý của ổng vì ổng trả tiền tác quyền mà, nhưng đổi chữ "dĩa" tiếng Nam ra chữ "đĩa" tiếng Bắc là tôi hoàn toàn... xin miễn. Không hợp với giọng văn "miệt vườn" của tôi. Và tôi hơi tức cười khi ổng hỏi tôi chớ lái tàu mà "lái cầm rai với người ta" là lái như thế nào! Nhờ vậy, mới chợt nghiệm ra rằng hai tiếng "cầm rai" đầu môi đó có thể là tiếng rút gọn từ những chữ "cầm chừng, lai rai" mà dân quê thường hay "đía" thế thôi!
Nói cho ngay, tôi tự biết tôi có chút chút thành công cũng không phải vì sách được ông Hồ Anh nhận lời xuất bản và phát hành. Mà là tôi đã "nhập tâm" với những nhân vật tôi xây dựng, tôi tạo ra. Tôi nhớ... anh chàng Tần, tôi nhớ... cô Hiền, ngay khi tôi ngưng ngang, quay sang viết thêm một trường thiên khác. Vào lúc ban đầu, nhân vật và tâm lý nhân vật... mới xuất hiện chưa rõ nét, đã cứ làm tôi lẫn lộn hoài...
Sở dĩ tôi bỏ dở trường thiên Một Trời Một Biển (đang viết quyển 2 và quyển 3) để khởi sự viết trường thiên Một Giấc Mơ Tiên là tại vì anh Hồ Trường An réo tới réo lui... chuyện quê hương miệt vườn vẫn còn ăn khách lắm Hưng ơi... Hừm, gì chớ chuyện quê hương miệt vườn thì, đối với tôi, cũng là... sở trường của chàng mà, tôi kết luận suôn. Vả lại, để thay đổi bầu không khí và để độc giả đỡ ngán ngẫm mấy anh chàng hải quân, tôi liền vẽ trong đầu bốn quyển, bốn giai đoạn cho bộ trường thiên tình cảm, ướt át thứ hai. Một Giấc Mơ Tiên cho giai đoạn học trò tỉnh lẻ, Một Ngày Ðẹp Trời (tức Một Giấc Mơ Tiên II) cho giai đoạn sinh viên Ðại học Sư phạm, Một Vợ Một Chồng (tức Một Giấc Mơ Tiên III) cho giai đoạn đi dạy học, và Một Kiếp Nổi Trôi (tức Một Giấc Mơ Tiên IV) cho giai đoạn bị động viên vào lính...
Cho đến bây giờ, viết gần xong 44 chương, 44 truyện ngắn, tôi lại thấy chưa đủ, chưa hết. Vì còn... mất nước, vượt biên, tha hương trên đất tạm dung nữa chi. Bèn gom 4 cuốn đầu làm thành tập thượng và dự trù sẽ viết thêm 4 cuốn nữa làm thành tập hạ. Kể cũng hợp tình hợp lý thôi. Nói chung, nhờ... phân tán mỏng các truyện ngắn trong hai bộ trường thiên mà tôi có bài đều đều trên nhiều mặt báo, làm thiên hạ lại tưởng mình viết nhiều. Có... ăn gian như vậy thì mình mới còn thì giờ làm thơ, viết nhạc, vẽ vời "cầm rai" với người ta chớ!
Kể cũng vui... Nhứt là lúc bắt đầu làm hồ sơ riêng cho từng nhân vật. Vì nhiều quá, không nhớ nổi. Từ diện mạo bên ngoài đến cá tính bên trong. Dễ bị tréo cẳng ngỗng lắm. Ai làm chồng ai, ai làm con ai. Tóc tai cắt ngắn có thể mọc dài ra chớ nước da bánh mật thì, trong phút chốc, khó trở thành trứng gà bóc. Ðại cương, những chi tiết lỉnh kỉnh ấy dễ bị mất cảm tình với độc giả lắm...
Bây giờ, nếu đem so sánh, tôi không ngần ngại so sánh nhà văn với các nhà tu. Ngoại trừ những người có căn duyên thuận lợi, bỗng chốc giác ngộ thành Phật, còn phần lớn vẫn cả đời chuyên tâm trì giới, lập hạnh. Người cầm bút cũng vậy, ngoại trừ những thiên tài văn chương, hầu hết chúng ta đều phải luôn luôn trì chí, miệt mài ôn tập, ngày đêm sống chết với chữ và nghĩa, để đến một lúc nào đó giác ngộ, như cá vượt vũ môn... biến thành rồng. Mặc dù, tùy duyên nghiệp, mỗi người giác ngộ một cách khác nhau. Trường hợp của tôi kể ra cũng giống giống câu chuyện đối đáp giữa tổ Bồ Ðề Ðạt Ma với ngài Huệ Khả, "tâm con chưa an, nhờ hòa thượng an tâm cho," "đem tâm ra ta an cho," "dạ, con tìm tâm không được," "ta đã an tâm cho ngươi rồi," thế là ngài Huệ Khả bừng lên, ngộ. Và ngay cả việc... biến thành rồng cũng mỗi người một cách khác nhau. Chẳng biết những nhà tu đã tu chứng lúc thành Phật như thế nào, nhưng với tôi, câu chuyện cá vượt vũ môn biến thành rồng cũng chỉ có chừng ấy. Bắt chước Phật, tôi muốn nói... tôi là cá đã thành rồng và các bạn là cá sẽ thành rồng. Nếu bạn chịu khó suy gẫm, tìm đường giác ngộ, vượt vũ môn. Còn việc từ "con cá hoá long" mới vượt vũ môn đó bạn muốn tiếp tục biến thành rồng vàng, rồng xanh, rồng lớn, rồng bé, rồng trắng, rồng đen, rồng lộn, rồng lửa... gì gì nữa thì quả nhiên câu chuyện còn dài dài, cứ thủng thẳng hà hồi phân giải...
Nói tóm lại, khi bạn đã thành rồng, giống như nhà tu dẫu chưa thành Phật đi nữa cũng được hưởng quả vị La Hán, Duyên Giác, Thanh Văn, Bồ Tát... thì trên bước đường chữ nghĩa hay trong cõi văn chương, bạn sẽ cảm thấy... an nhiên tự tại, thoải mái vô chừng. Vì có lẽ đã đến lúc bạn không còn phân biệt thế nào là viết chuyện mình, chuyện người nữa. Vì, lúc viết về mình là đã viết cho người và lúc viết về người là đã viết cho mình. Tất cả chỉ là một thôi, ở một thế giới bao la hơn, cao cả hơn. Cũng như nhà tu đã quay về, hướng nội mà tu và đã, đột nhiên, cảm nhận... tâm, thân này chỉ là một vậy thôi. Và rồi biết đâu chừng, bạn lại sẽ thông cảm sâu xa với tôi hơn nữa, ừ nhỉ, có viết cũng được mà chẳng viết cũng xong...
Nguyễn Tấn Hưng
Tin về lưu diễn và sáng tác mới của nhạc sĩ Phạm Duy
Vào chiều thứ Bảy 1.6.1996 nhân dịp nhạc sĩ PD ghé thăm London, hội trường VLC Community Center có tổ chức một Buổi chiều Phạm Duy với chủ đề "hành trình nửa thế kỷ âm nhạc Phạm Duy"; nội dung chương trình gồm có mạn đàn về sự nghiệp nửa thế kỷ hoạt động âm nhạc của người nhạc sĩ Việt Nam của Thế Kỷ XX và nghe những sáng tác tuyệt vời của ông trong suốt hành trình 50 năm sáng tác.
Thời gian: 7:30 pm June 1st
Địa Điểm: Hội trường Trung Tâm Việt Miên Lào
Whiston RoađHaggerston London E2 Tel 0171 739 3650
Nhạc sĩ Phạm Duy cũng đang đắm mình trong công việc sáng tác mới về Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhạc sĩ nói không phổ nhạc truyện Kiều là sự thiếu sót lớn. Ông muốn 'Minh Họa Kiều Bằng Âm Nhạc'- Illustration Musicale bằng nhạc cảnh gồm bốn phần chính:
- Kiều gặp Đạm Tiên tức gặp số phận
- Kiều gặp Kim Trọng, gặp tình yêu
- Kiều gặp tai nạn qua những nhân vật Tú Bà, Sở Khanh
- Cuối cùng Kiều gặp cứu tinh Từ Hải, cứu nàng ra khỏi bể trầm luân.
- Và kết luận (epilogue), nàng phải chết nơi sông Tiền Đường
Ông cũng có nói nhũng sắc thái, âm thanh lần này hoàn toàn dân tộc không phải mượn từ nhũng âm thanh Tây Phương như trước, do đóng góp của Duy Cường đã ghi âm lại được đầy đủ âm thanh của các loại nhạc khí dân tộc từ Nam ra Bắc.
Gần đây bác sĩ đã khuyên nhạc sĩ phải tịnh dưỡng nghỉ ngơi vì bị tim nhưng nhạc sĩ PD thì đang đắm mình vào công trình sáng tạo mới này.
Xin kính chúc nhạc sĩ lúc nào cũng được khoẻ mạnh để hoàn tất tất cả các chương trình dự định.
Đỗ Danh Đôn ghi
Trên Sông Hương
"Vì thế nên khi gió thu đến thổi bay những xác ve trên cây phượng vĩ, nàng công chúa qua đời." Bằng một giọng kể chuyện buồn rầu, Má loan báo cái kết thúc bi thảm của nàng công chúa. "Anh ngư phủ vô tình lúc đó đã thả thuyền trôi xuôi theo giòng sông đến một nơi quá xa..." Ba Má và tôi đang dạo đò trên sông Hương. Con đò lướt đi trong ánh hoàng hôn, giữa những chấm sáng lấp lánh màu vàng cam nối đuôi nhau đến tận chân trời. Tựa đầu lên đùi Má, tôi nằm trên thuyền ngắm Ba. Ông ngồi ở đầu mạn thuyền kia, tay khuấy mấy viên đá trong ly rượu đã gần cạn. Một liếp tre mỏng ngăn chia chúng tôi. Hôm nay, trong buổi đi chơi và ăn tối trên sông sau cùng trước khi Má và tôi trở về Sàigòn, nơi trú ngụ an toàn ở miền Nam, Ba đã uống quá chén. Ông nốc từng ngụm Johnny Walker, Nhãn Ðen, quà của mấy ông cố vấn Mỹ. Ðằng sau Ba, người lái đò đang tài tình dùng chiếc chèo dài và mảnh lướt đò trên sông, và đằng sau lưng anh loáng thoáng chiếc cầu sắt đã gãy - cầu Trường Tiền - cây cầu nối liền hai bờ của cố đô Huế, nơi Ba tôi đang giữ chức Tư lệnh tiền phương Quân đoàn Một. Từ đây nhìn lên, hai vài cầu còn nguyên treo lơ lửng như đôi cánh nhỏ dính lên vài người chèo đò. Vào những hôm như ngày hôm nay, Má thường hay kể những câu chuyện bi thảm nhất của má. Những câu chuyện Má nghe kể từ hồi còn ở Hà Nội, thành phố bây giờ nằm trong tay cộng sản và do già Hồ cai quản , kẻ thù của Ba ở phương Bắc, lúc nào cũng kết thúc thật bi thảm. Ðối với Má, những nàng công chúa lúc nào cũng phải chết bi thảm, các ông vua buồn rầu đến nỗi phải tự tử, những ông chồng, vì chiến tranh, vì vợ hầu vợ mọn, vì bài bạc rượu chè hay vì những lý do nào khác, cuối cùng đều rồi từ bỏ những bà vợ trung thành của hỗ "Biệt tài của Má là kể những chuyện bi thảm," có lần Ba đã nói như thế. "Má nhắc đến cái chết hàng triệu lần như để chuẩn bị cuộc đời cho Trứng Mỏng yêu quý của Mâ" Trứng Mỏng là tên Ba đặt cho tôi. "Lẽ ra nàng công chúa phải nói cho vua cha biết tình yêu của cô với anh ngư phủ chứ," tôi đề nghị với Mâ "Con ngốc quá," Má mắng tôi. Má xếp lại thân áo trước may bằng gấm màu xanh lục làm gối cho tôi. "Có nói cũng chẳng thể khác hơn. Người đàn bà Việt Nam luôn luôn kiêu hãnh. Phụ nữ Việt Nam phải biết đời là bể khổ, phải biết trân quý truyền thống, phải im lặng, chịu đựng..., nhất là một người đàn bà quý tộc. Người đó không bao giờ được phép lấy một dân dã làm chồng, hay một anh ngư phủ."
Tôi mường tượng ra một nàng công chúa có mái tóc dài thướt tha nằm chết trong một toà lâu đài có thể ở đâu đó đằng sau bụi lau sậy mọc dọc theo bờ sông Hương. Nàng không bao giờ nhìn rõ mặt người ngư phủ. Nàng chỉ nghe giọng hát đa tình của anh từ dưới sông vẳng lên mỗi lần nàng chải tóc. Trời đất! Tại sao một nàng công chúa xinh đẹp thế kia lại đi yêu một giọng hát. Lạ lùng quá! Nhưng chuyện có thật, Má bảo vậy. Thật sự nàng công chúa đem lòng yêu thương anh ngư phủ. "Thân hình mảnh khảnh của anh đổ bóng trên sông lúc hoàng hôn, gịọng hát của anh từ sông vọng lên mỗi lúc rạng đ ông, chừng đó cũng đủ đối với công chúa. Nên khi anh ngư phủ đưa thuyền xuôi dòng đi xa đến một nơi nào đó để đánh cá, nàng nhớ nhung giọng hò thánh thót của anh, rồi nàng tương tư. Nàng vô vọng chờ đợi, mong thấy được hình bóng của anh. Và khi anh không trở lại, giòng sông trở nên im vắng, công chúa ngã bệnh... "Vua cho vời các thái y đến trị bệnh. Họ bảo công chúa bị ma ám. Hay công chúa bị gió chướng. Trong lúc các thái y chẩn đoán và tìm phương cách chữa trị, công chúa vẫn giữ im lặng về mối tình thầm kín của mình." Mấy ông thái y này sao dở đến thế! Chẳng lẽ họ lại không biết! Má bảo là không có thuốc gì chữa được bệnh tương tư, ngay cả những phương thuốc thần hiệu nhất. Thế mà họ vẫn cho công chúa uống n hững thứ thuốc hiếm quý, quý hơn cả penicilin hay các thứ thuốc trụ sinh mua ngoài chợ trời, còn hiệu nghiệm hơn cả sinh tố One-a-day của Mỹ, còn tuyệt hơn cả cam Sunkist." "Họ cho công chúa uống nước sâm ngàn năm," Má nói, "củ sâm lâu đời đến nỗi có hình thù giống người, hoà với sừng tê giác nghiền thành bột, trộn với nước quả linh chi mấy trăm năm mớí mọc một lần trên những đỉnh núi tuyết Tây Tạng. Những thứ thuốc quý giá này có thể cải tử hoàn sinh, nhưng vẫn không sao chữa lành được bệnh tương tư của công chúa. Thuốc chỉ làm cho công chúa càng thêm đau k hổ mà thôi." Hết hè sang thu, công chúa qua đời, chết dần mòn như những con ve nay đã khô xác, chẳng bao giờ còn được hưởng chút mùi vị thơm ngọt của những quả xoài có vỏ dày màu vàng lục. Tôi nghĩ đó là một trong những câu chuyện buồn nhất của Má, một câu chuyện đau thương bi thảm nhất.
Nhưng chuyện của Ba Má tôi thì không giống vậy. "Khi tôi gặp nàng," Ba tôi kể với Ðề đốc Nguyên Tuân, người bạn thân nhất của Ba trong một bữa ăn tối tại biệt thự của chúng tôi ở Sàigòn, "Tôi nghĩ là trong đời mình chưa bao giờ gặp một người đàn bà đẹp đến thế. Tôi biết ngay là phải cưới nàng cho được. Và tôi đã lấy nàng." Ba cười lớn. Ông đề đốc đang phì phèo chiếc tẩu, vừa cười nhẹ vừa chăm chú nhìn Má qua làn khói thuốc. "Này ông bạn đề đốc thân mến, tôi gặp ông ấy lần đầu ở trong bệnh viện." Má trả lời, đôi mắt má rực lên, có chút hờn giận. "Tôi thầm bảo người gì đâu đen điu thế này, miệng thì la ỏm tỏi m ỗi lần tôi thay băng cho ông ấy, tôi tự hỏi đây là một người đàn ông miền Nam can đảm sao?" Nghe thế Ba tôi cười vang. "Vì thế nên khi ông này, cái ông miệng to lại nhát đau, cả gan xin cưới tôi, tôi nói với ba má tôi là có đem lầu vàng mà đổi tôi cũng chẳng bao giờ lấy ông ấy làm chồng." "Chị cứ nói chuyện thoái thác, chống đối nhưng rồi chị vẫn lấy anh, phải không?" Ông đề đốc nheo mắt đùa. "Tôi có dự đám cưới, chắc chị còn nhớ chữ" "Lấy vì bổn phận, vì nghĩa vụ," Má thở ra. "Giờ thì đã quá trễ, chẳng thay đổi được gì, Anh có trách thì cứ trách ba má tôi." "Chà," Ba nâng ly rượu, "nhưng em quên không nói là mình đã cảm phục người đàn ông đẹp trai học trường Tây này rồi. Em quên nói đến những lần ân ái tuyệt vời của mình. Và còn nữa, cưng ơi, cưng quên không nói rằng sống với anh em chưa bao giờ thấy nhàm chán, cho dù chỉ trong giây phút." "Còn anh thì lại quên không nói bọn Tây đã biến anh thành một con người thô lậu như thế nào," má đáp, đập mạnh chiếc vòng ngọc thạch lên mặt bàn gỗ trầm hương thẫm màu. "Chẳng phải ai họ cũng thương như anh đâu! Ngoài Bắc, ai không chịu làm tay sai hay cu li cho họ đều bị bỏ tù hay đem giết..." Má giảng thuyết liên hồi về sự tàn ác của người Pháp, nhưng Ba chỉ nhún vai phớt lỡ. Ba thường bảo người Bắc họ hay nói thế thôi. Thay vì trả lời má, Ba huýt sáo một điệu nhạc gì nghe vui vui với ông đề đốc lúc đó đang mỉm cười và ngồi nhả khói lên trần nhà. Sau đó, khi ông đề đốc ra về, Ba nói, "Này anh Ðề đốc, anh thấy chưa, ở nhà bà là thượng cấp của tôi." Cả hai cùng cười rồi vỗ vào lưng nhau, cùng hẹn gặp lại tối hôm sau ở vũ trường Maxim. Nhưng tối hôm đó, tôi nghe có tiếng ba la mắng má trong phòng ngủ, rồi có tiếng má cãi lại. Tiếng cãi vả của họ trộn vào nhau, âm vang qua bức tường nghe như tiếng dông chiều từ xa vọng lại. Những chuyện cãi vả bây giờ đều đặn và thường tình như cơm bữa. Những lần cãi vả nặng nề thường xảy ra vào lúc khuya, trong những dịp ba từ mặt trận về nghỉ phép quá lâu. Gia đình Ba rất giàu cô Có lần Ba nói cho tôi nghe rằng ruộng đất của ba gần Bạc Liêu mênh mông đến nỗi cò bay một ngày không hết. "Bà nội con mỗi lần xoa mạt chược thì đánh bằng hồng ngọc, thạch ngọc đựng trong tô," Ba nói với tôi như thế. Còn Dì Hai, tức bà dì của con, mỗi lần đi thâu tiền tá điền phải mang theo cả hàng chục chiếc thúng mới đủ. Nếu không vì bọn cộng sản, không vì ý thức hệ , không vì những kẻ xách động phá rối, Trứng Mỏng ơi, đời sống sẽ rất dễ dàng, dễ dàng như đời sống của người miền Nam." Gia đình của Má, trái lại, bỏ hết sản nghiệp ở Hà Nội. Khi Hồ Chí Minh và quân lính của lão tràn vào thành phố, và cũng nhân dịp ấy chiêu dụ luôn hai người anh của Má, cả gia đình còn lại trốn vào Sài Gòn. Lúc họ đang phấn đấu gầy dựng lại cơ nghiệp thì Ba đến xin cưới má, Má từ chối. Ba lại cầu hôn. Má lại từ chối thêm lần nữa, nhưng ông bà ngoại lại nghĩ tốt hơn nên chấp thuân lời cầu hôn của Ba. Vả lại, ông bà ngoại lấy lý do bây giờ má trở thành chị cả có bổn phận lo cho các em, nên làm vợ một người miền Nam thanh thế như Ba. Sau đó, tại một ngôi chùa, giữa tiếng pháo đì đùng, Ba và Má thành hôn. Một ban nhạc cổ truyền gồm các nhạc sĩ đánh đàn thập lục, thổi sáo trúc, đánh chiêng trống giúp vui. Ðám cưới thật rình rang, cả Sàigòn ai cũng bàn tán: Con đại điền chủ miền Nam lấy gái đẹp miền Bắc. Nhưng kể từ khi chiến tranh bùng nổ, Ba lên cấp tướng rồi đi đâu cũng có đào; từ khi rượu whiskey hiệu Johnny Walker trở thành thức uống được ưa chuộng nhất, từ khi có những lần cãi vả giận hờn , và cũng từ khi, có một dạo không cầm được cơn giận, Má lấy súng lục bắn vào chân ba, cũng chiếc chân má đã săn sóc cho ba ngày nào; từ khi bom bắt đầu dội lên Hà Nội, thành phố tuổi thơ của Má; từ lúc bóng dáng hai người anh của má mất hút đâu đó trên đường mòn Hồ Chí Minh dù biết đâu đã bị lính của Ba hay đồng minh Hoa Kỳ của họ bắn chếtù thì má lúc nào cũng xác quyết là chẳng bao giờ có tình yêu, chẳng bao giờ biết được tình yêu là gì. "Chỉ có bổn phận," má thường nói, "chỉ có bổn phận và nghĩa vụ đối với gia đình."
"Ðiều ai cũng biết là một khi người ta đã yêu say đắm thì chẳng có gì chữa được bịnh tương tư," Má thở dài. "Công chúa biết trằng mình chẳng bao giờ còn nghe lại được tiếng hát của anh ngư phủ n ên công chúa sẽ không thoát khỏi định mệnh bi thảm của mình. Toàn vương quốc đau buồn trước cái chết của nàng. Hôm tang lễ, hạc trắng bay thành đàn trên không tạo thành một giải khăn tang trắng xoá vắt ngang bầu trời; dưới sông cá tự động nhảy vào lưới thuyền chài. Ðêm hôm đó, cái đêm toàn cả kinh đô tụ họp bên bờ sông phóng đăng tưởng niệm công chúa. Con sông tối đen bỗng nhiên biến thành một con rồng vĩ đại với hàng ngàn chiếc vảy sáng rực lấp lánh..." Một gợn gió thổi lên luồn vào trong chiếc áo xanh tôi đang mặc trên người và làm tóc má bay tung trông như một lá cờ đen rách nát. Gió mang theo hơi nước biển, nồng tanh mùi cá, mùi rong khô, mùi muối ma (.n, lại phảng phất mùi nước hoa nhài của mâ Gió thổi qua khoang thuyền, đến chỗ Ba ngồi ở đầu mui kia. Gió làm thuyền chồng chềnh, lắc lư kẽo kẹt như đang phàn nàn. Ðằng sau lưng ba, người lái đò gầy ốm đầu đội nón lá phải ì ạch mãi với mái chèo mới giữ được cho con thuyền lướt êm trên sông về hướng đông. Má mở xắc, tìm chiếc khăn tay để cột tóc. Chiếc xắc tay nhỏ màu đen của má bên trong lót một lớp vải đỏ đựng không biết bao nhiêu thứ: một chai dầu khuynh diệp dùng để cạo gió, một lá bùa trừ ma do một ông thày pháp ở Ðà lạt cho; một lọ đựng mấy viên thuốc trụ sinh màu đỏ; tử vi của cả nhà, một cuộn bạc giấy và một cây súng nhồ "Theo tục lệ thời bấy giờ, sau khi chôn ba năm, người ta đem xác hoả thiêu," Má kể tiếp, mắt đang nhìn vào đám lau sậy bập bềnh cạnh đố "Ba năm sau, người ta đem xác công chúa đặt trên một dàn hoả bằng củi trầm hương, một loại danh mộc. Nhưng khi ngọn lửa tàn, một việc lạ xảy ra..." "Chuyện gì hở Má?" Một cơn gió lạnh thổi vào lưng nên tôi ôm chặt eo mâ Một tai kê sát vào bụng má, tôi chăm chú tìm nghe cho ra cái âm sắc áo não thoát ra từ ngay chính cội nguồn của nỗi buồn trong lòng má." Ngay chỗ trái tim của nàng công chúa, người ta tìm thấy một viên đá màu đỏ, cứng như hồng ngọc. Ðốt không cháy, đập không vỡ. Nhà vua, vì thương yêu con quá đỗi nên truyền giữ lại viên đá. Một trong những quan cố vấn trong triều tâu vua cho tạc thành một cái chén uống. Vài tháng sau, một người thợ tài ba nhất trong nước tạc viên đá thành một cái chén tuyệt đẹp. Cảnh sông nước, lầu vàng, thôn xóm thơ mộng, những chiếc thuyền buồm, mây bay- được chạm khắc vào chén. Nhưng khi nhà vua rót rượu vào chén, thì một chuyện lạ khác lại xảy ra." "Trứng Mỏng ơi!" Giọng nói ồ ồ thoát ra từ cổ của ba tôi vang lên ở đầu mạn thuyền, xuyên qua tấm liếp che. Từ bên tả ngạn, một con cò lớn cất cánh bay, miệng kêu oang oác. "Gì thưa Ba?" Tôi ngẩng đầu lên. "Trời đất," Má thở dài rồi lắc đầu, "giọng nói đó không những đuổi được Việt Cộng mà còn đuổi luôn các thiên thần, các hồn ma nữa đấy." "Con qua đây!" Ba ra lệnh. Tôi lục đục ở bên dưói mái che, bò trên tấm chiếu tránh đụng vào cây súng M-16 và chiếc máy truyền tin quân đội đang phát ra những âm thanh lào xào, đầu mang hình ảnh chiếc chén ngọc đầy rượu, rồi bo ` qua tới mạn thuyền bên kia. Con sông giờ rực một màu vàng cam. Mặt sông phản chiếu ánh nắng cuối ngày lúc mặt trời đang lặn khuất dần sau hàng cây. Ba và tôi ngồi trên một băng ván và nhìn bóng má phản chiếu trên mặt nước. Nhưng từ chỗ tôi ngồi, bóng má dường như hoà lẫn vào mặt sông, và nếu không chú mục tôi sẽ thấy một vài chấm sáng cuối ngày đâm thẳng qua hình bóng của má.
"Uống chút Johnny Walker không?"
"Dạ không, thưa Ba?" Tôi lắc đầu rồi cười khúc khích.
"Chắc không? Có muốn thử chút không?" Ba đưa ly rượu cho tôi.
"Con liệu hồn đấy!"
Giọng Má la lớn từ ở đầu kia khoang thuyền đầy gió. Tai má rất thính. "Má kể cho con nghe chuyện gì thễ" "Chuyện thần tiên." "Một chuyện buồn?" "Vâng, thưa ba, buồn... Chuyện một nàng công chúa tương tư một anh ngư phủ có giọng hát hay rồi chết." "À, chuyện đó," ba vừa nốc ly rượu vừa lầm bầm, tay cạ thành ly lên cằm. "Nhưng chính anh ngư phủ mới là người hết lòng yêu thương công chúa kia mà. Hắn đã chết - chết vì giọng hát, vì nghe phải giọng hát của công chúa. Công chúa quả thật xinh đẹp, nhưng lại hát quá dở, nên giọng hát của nàng đã giết chết tình yêu của hắn. Giọng cô làm cho hắn phải rách màng nhĩ. Thật không tưởng tượng được! Má đã đổi câu chuyện đó họ đổi trắng thay đen, biến vuông ra tròn, lật ngược câu chuyện... Họ làm cho con điên đầu, xem Ba đây này. Nhưng.... thôi bỏ đi. Quên mấy chuyện nhảm đó đi con... Con bây giờ đã thành người lớn rồi, phải không? Ðã là đàn ông thì phải biết chuyện gì thật sự xảy ra trên sông." "Nhưng thưa Ba con đã thành đàn ông đâu, con vẫn là Trứng Mỏng mà!" Ba cười, đặt tay lên vai rồi lắc người tôi. Mùi mồ hôi nồng nặc và mùi rượu dâng lên tận mũi, trong khi bộ quân phục cứng cỏi của Ba cạ vào má tôi, nhưng tôi vẫn mặc kệ. Tôi lắc người và cười đùa theo bà.
"Con có thể tưởng tượng hai năm về trước chính con sông này đã cháy rực lên không?" Ba hỏi, tay lắc chiếc ly rượu khiến nó lấp lánh trong ánh nắng chiều. "Lính gọi đó là Mùa hè đỏ lửa. Cả ngàn người chết. Một số thường dân Huế bị bắt đem đi rồi bị Việt Cộng chôn sống trên mấy ngọn đồi kia. Xác người trôi sông,... giòng sông máu. Trứng Mỏng ơi, chiến thắng quả gian khổ. Tiểu đoàn Bốn chiến đấu thật anh dũng, và sau trận đó, hơn một nửa quân số thiệt mạng."
Má không bao giờ thích nghe Ba kể những chuyện ồn ào như thế. Những câu chuyện mà mỗi lần về phép, Ba thường kể cho tôi nghe sau khi đã uống mấy ly rượu. Trực thăng, chiến xa, máy bay phản lực, từ trong người ông tuôn ra, đột nhiên cả một trời lửa đạn, lính tráng chiếm ngụ khoảng không gian êm thấm của gia đình chúng tôi làm cho má phải bực bội. "Ðừng làm hư đầu óc thằng nhỏ," má thường nói. "Ðừng nói những chuyện kinh hoàng đó nữa!" Nhưng tôi phản đối. "Má cứ để Ba kể chuyện đi Mâ" Tôi khẩn khoản xin má cho đến lúc má lắc đầu rồi nói, "Ðược, được, Ba thắng, Má thua."
Mỗi lần Ba về phép sau khi thắng trận ngoài chiến trường, bàn ăn gia đình chúng tôi lại biến thành bãi chiến: hai chai nhỏ đựng tiêu muối trở thành xe tăng và chiến hào-chiếc khăn ăn thêu tay biến thành một khu rừng già đầy mìn chông, vắt muỗi và rắn độc. Mấy chiếc đũa biến thành sông suối. Mấy chiếc chén úp ngược lại làm đồi, làm đồn lính. Bên trên mấy chiếc chén, Ba giả tiếng bùm bùm của B-52 dội bom, trong khi mười ngón tay nhún nhẩy của Ba lại là hàng ngàn những thiên thần mủ đỏ nhảy dù xuống chiếm khu rừng già nơi chiếc khăn thêu, chỗ Việt Cộng đang chờ chết.
"Sau khi chiếm lại Huế," Ba nói tiếp, "mình tiến về phía Bắc để tái chiếm Quảng Trị. Dọc đường lại thấy có thêm nhiều người chết. Dân quê Quảng Trị bị kẹt giữa hai lằn đạn của bạn và pháo kích của cộng sản, chạy toán loạn ra các ruộng lúa, rồi lại bị bom B-52 của Mỹ. Chết... bị thương... thật hỗn độn. Vào mùa nắng, thân xác họ khô cứng lại cùng bùn đất. Những đêm trăng sáng ngồi trên trực thăng bay qua các cánh đồng, có khi ba thấy các hồn ma xục xạo khắp đồng tìm kiếm người thân của mình, nhưng họ đâu biết là những người thân yêu kia đã trốn thoát được từ lâu."
"Ba có sợ không?"
"Không, nhưng xác người chết thối rình. Con, Trứng Mỏng, con phải tẩm chiếc khăn tay của con nửa chai dầu thơm của Má may ra mới át được mùi thối. Vào mùa hè, chỉ cái nóng không thôi cũng đủ giết người thì toàn cả vùng đó um lên mùi thịt rữa. Thối nồng nặc! Mùi thối làm cho nghẹt thở đến muốn điên. Mùi thối quyện vào người, vào tóc, vào áo quần trong suốt mấy hôm, có khi cả tuần lễ. Vì vậy nên con đừng mong gì tìm được một nàng công chúa đẹp tuyệt vời nào ở đây cả, nghe không Trứng Mỏng."
"Ba, má nói là không có thuốc gì chữa đuợc bệnh tương tư, có đúng không Ba?"
"Này Trứng Mỏng ngây thơ ơi, kinh nghiệm của ba là nếu có chai Johnny Walker nhãn đen, thì thứ gì cũng chữa được." Sau đó ba gượng đứng dậy. "Nhưng bây giờ ba phải đi tè cái đã." "Con cũng đi luôn, Ba!"
"Tốt" Ba cười. "Vậy thì đi nhanh lên, đừng để cho mấy mụ bán hàng trên sông thấy chim mình đấy."
Ba và tôi đứng bên mạn thuyền, vin vào nhau và vào mui thuyền cho khỏi té xuống nước. Hai vòng cầu vàng ánh phóng xuống sôngùmột lớn, một nhỏùtrong khi ở đầu kia có tiếng má la lên. "Ðồ mọi rợ!" Má lập đi lập lại. "Mọi rợ làm bẩn nước sông Hưong."
Nhưng cha con tôi phớt lờ má. Ánh trăng nhợt nhạt lấp lánh trên mặt sông, và Ba bảo là nếu cả hai cha con cố gắng tè cho thật mạnh thế nào cũng làm mặt trăng vỡ ra hàng triệu mảnh.
Nàng công chúa đã chết. Nàng không còn sống để ăn những tô bún giò heo, thưởng thức những cây chạo tôm trên sông. Nàng chưa bao giờ được đi chơi trên sông như má và tôi, chưa bao giờ được ăn những gói xôi bọc trong lá chuối, hay ăn những hàng quà bên chợ, nghe thầy bói xem chỉ tay bên chiếc đèn dầu hoả, xem những bản tử vi chi chít các vì sao. Má độ chừng nàng công chúa chết vào năm mười tám hay mười chín tuổi gì đó, sắc đẹp thì không ai bằng, nhưng cuộc đời lại quá ngắn ngủi.
Có thể cô đã lấy anh chàng ngư phủ nếu hồi đó cô ra sông và nói cho anh ta biết cô yêu anh ta. Họ sẽ có một đàn con, và vào những ngày Chủ nhật, vợ chồng con cái sẽ cùng nhau bồng bềnh trên mặt sông trong hạnh phúc. Anh ngư phủ sẽ hát cho vợ con nghe, biết đâu giờ này anh đang hát nhạc rock-n-roll, hay những bài hát ru con của Pháp, chứ không phải lúc nào cũng hát nhạc buồn. Anh đâu có phải đi đánh giặc, anh vốn là một người ngư phủ yêu đời. Và nàng công chúa sẽ vô cùng yêu thích những buổi chợ trên mặt sông Hương, việc gì phải chết trong một lâu đài lạnh lẽo trống gió ở một nơi xa xôi như thế.
Tối nay, Má, Ba và tôi đang bị mấy chiếc thuyền nhỏ chỉ bằng chiếc ghế bố nhà binh vây quanh, chiếc nào cũng ăm ắp thức ăn. Giọng các người bán hàng xứ Huế vọng trên mặt sông như giọng của ma rao.
"Mời bà mua!"
"Nhãn bọc hột sen, dạ mời bà mua!"
"Bánh lá chả tôm, mời bà mua!"
Má lo việc mua thức ăn. Má chuyện trò với mấy người bán hàng trong khi cha con tôi dọn chiếc chiếu trong khoang thuyền để có chỗ để thức ăn. Mỗi lần bước vào khoang, má lại mang cho chúng tôi một thức ăn mới. "Ăn đi, ăn đi, đừng bao giờ than là tôi không cho ăn," má vừa nói vừa rót trà sen cho cha con tôi, rồi lại biến mất, trở ra chuyện trò với mấy người bán hàng. La liệt những đĩa xôi nước dừa, những tô bún giò heo, bánh lá chả tôm, cá hấp, nằm đầy trên chiếc mâm đặt trước mặt tôi. Trên đầu tôi là một chiếc đèn lồng bằng giấy nhỏ mù mờ, trông như một vầng trăng nhợt nhạt.
Khi đĩa bánh lá và mấy tô bún giò heo sắp cạn thì con đò đang đi dần về hướng thành phố. Má dọn dẹp chén đĩa cùng với chai rượu đã cạn của ba. Ba đang nằm tựa đầu lên cây súng M-16, bỗng chụp lấy tay má rồi giữ một lúc, ngón tay cái của ba ve vuốt lên mấy ngón tay của má.
"Nam vô tửu như kỳ vô phong...." Ba vừa hát vừa hôn gió trước mặt má. Tôi bật cười và phải lấy tay che miệng: miếng bánh lá ăn dở suýt chút nửa văng ra khỏi miệng.
"Trai không vợ như thuyền không lái," Má nói, đưa mắt nhìn qua phía tôi. Ba nhìn theo mắt má, rồi má dựt tay ra và cầm lấy chai rượu.
"À, nhưng mà cưng ơi, phải để cho thuyền được trôi tự do chứ. Ðể nó ghé bến xa bờ lạ chứ." Ba tiếp tục hát bằng giọng cổ của mình. "Ði đâu rồi cũng tìm về bến cũ. Con thuyền ngoan mà."
"Một con thuyền không hướng, không người chèo lái, sẽ vấp đá vấp bờ mà chìm." Má nói.
Ba đáp lại bằng cách huýt sáo bài quốc ca của Pháp, "Marseillaise." Má lắc đầu chào thua rồi quay qua phía tôi nói, "Trứng Mỏng, má kể cho con ghe chuyện hồi ở Sa Đéc má thấy trực thăng của đại tá Alexander bị hoả tiễn bắn nỗ tung lên chưa?"
"Dù nàng công chúa đã chết, tim nàng vẫn còn. Trái tim của nàng trở thành chén rượu tuyệt vời. Mỗi lần rót rượu vào chén, một điều kỳ diệu lại xảy ra: hình ảnh anh ngư phủ đứng trên thuyền lại hiện ra cất tiếng hát. Hẳn nhiên là truyền thuyết về chiếc chén này lan rộng khắp nơi. Mọi người, giàu nghèo già trẻ ai cũng muốn nhìn tận mắt sự kỳ diệu này. Họ nghĩ nếu được uống rượu đựng trong chén đó, bao nhiêu bệnh tật đau buồn của họ sẽ tiêu tan. Người ngư phủ, lúc này đã trở lại kinh đô, cũng tò mò muốn thấy." "Vậy anh ta có nhìn thấy được mình trong chiếc chén không Má?"
"Có, nhưng lúc đầu hắn bị mấy người lính làm khó. Một người dân dã, con hiểu không, làm gì được phép nhìn thấy bảo vật. Khẩn khoản van xin mấy người ta vẫn không cho anh vào. Tuyệt vọng, con biết anh ta làm gì không? Anh cất tiếng hát. Giọng hát của anh vang vào cung, rồi song tấu với lời hát của anh hiện ra trong chén. Nhà vua lập tức vời anh ta đến, rồi đem chiếc chén ra trước mặt anh ngư phủ. Cuối cùng, người ngư phủ nhìn thấy hình ảnh bé tí của anh nổi trên mặt chén và nghe được chính giọng hát của anh."
"Nhưng anh ấy có yêu công chúa không má. Nếu như anh ta có người yêu khác thì sao? Hay có thể anh ta đã có vợ. Hoặc nếu là một kẻ rượu chè thì sao? "
"Con nói nghe lạ quá, chó con. Làm sao một thứ chó con như con lại biết được là anh ta đã có vợ. Con nói lạc đề rồi. Ngay lúc đó, quá đau buồn và thương tiếc, anh ngư phủ thấy tim mình nhói lên. Quên mất rằng mình đang diện kiến nhà vua, anh bật lên khóc. Nước mắt của anh rơi xuống chén, vung vãi lên hình bóng của mình trong chén."
"Và anh đã làm đắm chiếc thuyền phải không má?"
"Không. Khi nước mắt chạm vào chén, một việc lạ lại xảy ra. Trước sự kinh hoàng của mọi người, chiếc chén từ từ tan ra thành máu ở trong tay người ngư phủ."
"ồ, kết cuộc là thế hả má? Kết cuộc như vậy sao. Kỳ lạ quá, con không hiểu gì cả. Tại sao cái chén lại tan ra thành máu. Tại sao?"
"Con cứ suy nghĩ đi. Hay... đi ra hỏi Ba. Có thể Ba còn nhớ tại sao đấy."
Tại sao lại không để cho công chúa sống? Những chuyện của Má bao giờ cũng kết thúc một cách bi thảm. Có chuyện kể người đàn bà giận chồng, bỏ đi vào rừng rồi biến thành cây trầu. Chồng đi tìm, thấy cây trầu rồi biến thành một tảng đá. Thế nên khi nào ăn trầu người ta cũng quệt vôi, Má giải thích cho tôi như vậy. Lá trầu hợp với vôi làm cho nước miếng đỏ như máu. Còn có chuyện một người đàn bà ôm con chờ chồng đi đánh giặc ở xa. Nhiều đêm nàng ra biển đứng trên ghềnh đá bồng con chờ chồng. Một đêm trời giông bão, cả mẹ lẫn con hoá thành đá. Trong những truyện má kể, cuối cùng rồi người chồng nào cũng trở về, nhưng họ đều trở về quá trễ.
Ba nói ba không hiểu tại sao "cái chén khốn nạn kia lại tan ra thành máu," rồi nói, "giờ con đừng quấy rầy ba má nữa được không Trứng Mỏng." Ra ngoài ngắm sông đi. Cố gắng ghi nhớ càng nhiều càng tốt để khi về đến Sàigòn con viết thư kể lại cho ba nghe. Bây giờ ba có chuyện quan trọng cần bàn với má."
Chiếc đèn nến đặt trong lồng giấy bị thổi tắt. Dưới mái thuyền, bóng Má và Ba chầm chậm xích lại gần nhau rồi quyện thành một. Trời không gió, nhưng con thuyền lại tròng trành và kêu răng rắc. "Chiều anh đi cưng ơi, đêm cuối cùng bên nhau ở đây mà." Giọng ba thì thào, "Chiều anh đi." "Anh say rồi," có tiếng Má nói, nhưng lời trách của má nghe cũng thì thào như tiếng sóng vỗ nhẹ vào thuyền. "Anh say rồi," má lập lại một lần nữa. Tôi nghe có tiếng vải sột soạt. "Mọi rợ!"
Chuyến du thuyền trên sông của chúng tôi sắp chấm dứt. Đằng trước, tôi nhìn thấy cầu Trường Tiền, vài cầu sắt cong queo treo lơ lửng như một con quái vật hoen rỉ sắp rơi xuống nước.
Rồi đột nhiên tôi nghe máy truyền tin của Ba vang lên tiếng hồn ma của những người lính gọi nhau, tiếng rên ư ử của ba má hoà với tiếng ếch nhái bên kia bờ đáp lại. Họ đang cùng nhau ca lời giã biệt thật tình tứ nhưng cũng thật buồn.
oOo
Ba thương yêu,
Ba biết gì không? Con kể cho tụi bạn trong lớp về chuyến đi trên sông Hương, và cả bọn đều ganh tị với con. Con kể cho chúng nghe một câu chuyện khác về anh ngư phủ và nàng công chúa, nhưng lần nầy công chúa không chết. Con cho công chúa uống bột sừng tê giác pha với sinh tố Geritol One-a-day trộn với liều penicillin cực mạnh nên nàng thoát chết.
Cuối hè, khi ve sầu chết đi rồi xác chúng từ những cây phượng vĩ rơi xuống, gió nhẹ thổi lên mang theo mùi nước biển, mùi rong khô thì người ngư phủ trở về. Nghe tin công chúa lâm bệnh, anh ta đến thăm. Anh đẹp trai, nước da ngăm đen, còn công chúa thì xinh đẹp nhưng mặt hơi xanh xao. Tiếng hát của người ngư phủ đã chữa lành bệnh cho công chúa, và làm tắt ngay những cơn gió chướng.
Ba biết gì nữa không? Họ làm đám cưới ngay trên sông, trên một chiếc long thuyền, giữa tiếng pháo đì đùng và mùi hương trầm thơm ngát. Có nhạc công đánh đàn thập lục, có vũ công nhảy múa cùng với lính bảo vệ cung điện. Toàn kinh đô đến xem. Dân chúng ném hoa lài xuống sông, thanh niên nam nữ thả diều phất phới. Trẻ con ca hát.
Công chúa và anh ngư phủ sống bên cạnh giòng sông trong một túp lều tranh, vườn trồng nhiều xoài, con cái đông đảo. Chẳng có chuyện gì nguy hiểm xảy ra cho họ, không rượu Johnny Walker, không có bom từ B-52 rơi xuống, xách tay không có súng lục, không có xác người trôi sông, không có hồn ma xục xạo tìm kiếm người thân, không có hầm trú bom, không có lính mang M-16, không có nỗi buồn.
Chuyện có thật đấy Ba, tất cả đều có thật. Trong chuyện của con, đời sống lúc nào cũng thoải mái, dễ dàng như cách sống của người Nam, đúng vậy thưa Ba. Công chúa chẳng bao giờ đau ốm hay tức giận, và anh ngư phủ không bao giờ lớn tiếng với nàng hay phải bỏ đi xa đánh câ Vào những đêm hè nóng nực, lúc mặt trời chiều phủ lên vạn vật một màu vàng rực lửa như màu lửa bom napalm, công chúa và bầy con ngồi đong đưa trên võng, tay phe phẩy chiếc quạt đồi mồi bên cạnh một khay đầy ắp Coca Cola với thật nhiều nước đá.
Họ kiên nhẫn chờ đợi người ngư phủ trở về. Trong truyện của con, họ đều biết rõ, biết chắc chắn, là người ngư phủ bao giờ cũng trở lại với gia đình.
Andrew Lam
(Thạch Hãn chuyển ngữ)