vhnt, số 168
1 April 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ trẻ Saigon ...................................Nguyễn T Dũng p/t
- Tháng giêng đến và đi .................................Thứ Lang
- Bút ký thơ .........................................Hà Nguyên Dũng
- Giả thiết ......................................Nguyễn Phi Nguyện
2 - Dịu vợi .........................................Nguyễn Ðức Sơn
3 - Chuyện liễu ban đầu .......................................lephan
4 - Không đề ....................................................CỏMây
5 - Ðoạn đường ..............................................Sao Băng
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Giá trị tư tưởng của người sáng tác văn học ...Ðức Lưu
T i n T ứ c N g h ệ T h u ật / Ð i ệ n Ả n h :
7 - Phim "Cyclo" của Trần Anh Hùng đến US .............Dũng Nguyễn
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Phận đàn bà .......................................Bùi Thanh Liêm
9 - Trên đỉnh mùa xuân (tùy bút) ...........................Hoài Nam
'Này người thi sĩ trẻ, lên núi được bao lâu mà đã vội xuống núi. (*)
Ai đó nói rằng người Việt Nam là một dân tộc thi sĩ. Thơ được mùa nở rộ như hoa mùa xuân đủ mầu sắc ngoài đồng. Người ta làm thơ dễ như nói, nói dễ như là làm thơ! Tùy theo thái độ của người làm thơ đối với thơ, thơ ra đời vất vả chịu nhiều thử thách, cho đến khi thơ 'đi vào lòng ngườí, thì thơ đã trải qua rất nhiều gian nan. Rainer Maria Rilke nhắc nhở rằng "thơ không đơn giản là cảm xúc như người ta nghĩ, chúng là kinh nghiệm. Ðể viết được một bài thơ, thi sĩ phải viếng thăm nhiều thành phố, con người, sự vật; phải biết rành muông thú và các mùa chim. Nhà thơ phải băng qua các vùng xa lạ, các cuộc gặp gỡ bất ngờ, và những biệt ly. Phải có kỷ niệm của nhiều đêm ân ái, không lần nào giống lần nào, phải nghe các sản phụ gào la, canh chừng người hấp hối. Phải biết quên hết kỷ niệm và nhẫn nại chờ ngày chúng trở lại, bởi lẽ kỷ niệm không là gì cả. Cho đến khi chúng biến thành máu huyết của ta. (*).
Các nhà thơ lớn thường khuyên hãy quí trọng thương yêu đứa con tinh thần của mình, đừng tống nó ra đời khi hãy còn non yếu. Các thi phẩm con so thường èo uột. Rilke xé bỏ tập thơ đầu đời, Châu Phác làm thơ như nấu quặng luyện kim, Horace khuyên nên cất bản thảo trong hộc tủ chín năm rồi hãy trình làng, vì 'bài thơ chưa ra mắt thế gian có thể xé bỏ, nhưng một khi chữ đã lọt ra thì không cách nào thu hồi được nữa.
Thi sĩ là người cô đơn trong thầm lặng, đọc nhiều thơ, thuộc nhiều thơ (cả thơ của mình), đọc càng nhiều cho đến khi đầu óc tràn ngập hình ảnh chữ, ấn tượng từ ngữ và nhạc điệu. Một thi sĩ trẻ chưa thành danh, một hôm gửi Marllarmé bài thơ đầu tay nhờ phê bình dùm, nhà thơ bậc thày trả lời: 'Chỉ có cô đơn mới trả lời được!'
Hãy cô đơn thật nhiều, và hãy xuống núi khi đã sẵn sàng, khi đã chán ở trên núi.
thân ái,
PCL/vhnt
(*) Nghiệp Thơ, Chân Phương - tạp chí Thơ, mùa Xuân 1996
Tháng GIêng Đến Rồi Đi
1.
Sau cùng,
con lũ già nua cũng ẩn mình chờ dịp khác
dòng sông trải dài niềm nuối tiếc
khua những giọt nước mắt giận dỗi
mùa xuân đến
thả những bông hoa dại lấm tấm
trên lối đi ẩm ướt
cuộc mặc cả muộn mằn
(Ai đã vứt những hơi thở trên đường
như người hành khất trả lại những
đồng tiền xám hối.)
2.
Em đã may chiếc áo chưa? chiếc
áo dùng trong đêm dạ hội đầu tiên
chiếc áo sau cùng thời con gái
hồi hộp say mê thắc thỏm dại khờ
điều dự báo có từ bao năm trước
và em đã mở thêm trang giấy mới
trong cuốn sách riêng tư của đời em
không ngập ngừng không quả quyết
không lo sợ
như em đã sống
mà chưa từng chịu đựng
những hạnh phúc những khốn khổ
đến và đi không thương tiếc
3.
Ngày tháng cứ trôi đi như dòng sông
vô tội
như tiếng chuông mỗi chiều
ngân nga hiền lành
từ tháng giêng này đến tháng giêng sau
trong nỗi lặng thầm chờ đợi
Thứ Lang (Quảng Ngãi)
oOO
Bút Ký Thơ
Lên xe chuyển bánh luân hồi
Ðường thăng
trầm nỗi
thân rời rã theo
Xe bu đường cõng qua đèo
Cây bu vách núi cố trèo lên trông
Coi,
kìa em, những kiến ong
Gùi mồi bò cạnh đồi mông
quạnh chiều
Gió cầm hương chạy cây xiêu
Trời mua hết nắng ngày điêu tàn và
Ðây rồi!
Ðà Lạt lẳng hoa
Treo lưng chừng
gió
mưa
và
mây
sương
Những con đường cánh tay vươn
Níu đồi thông mỏi rụi
buông xuống tìm
Tủi thân?
đồi úp mặt im
Coi chừng,
em
vấp
lăn chìm khe sâu
Nào,
cầm thiệt chặt tay nhau
Kẻo không gió bạt ngoài nhau lạnh lòng
Chụm môi nhen ngọn tình hồng
Bùng lên mấy nụ hôn
chong sáng đời!
Hà Nguyên Dũng
oOo
Giả Thiết
Tặng TN
Nếu có ngày anh phải vắng em
Ðoá hồng nhung khép lại bên thềm
Làn hương nguyệt quế chùng trong gió
Trăng quạnh bên trời run sương đêm
Nguyễn Phi Nguyện
(TT 16-01-1996)
Dịu Vợi
Trong sương khói chiều nay tôi bắt gặp
Cả mùa thu vàng rụng xuống đôi vai
Và tôi đi không để lại dấu hài
Trên thi thể những mối sầu đã chết
Trời xa trời xa biết là quên hết
Rừng nơi đây từng buổi sớm âm u
Rừng nơi đây khi ngày lắng sa mù
Tôi bước nhẹ một mình qua bản vắng
Trong gió hiu hiu nước hồ im lắng
Tôi lạnh hồn nghe tiếng động chơi vơi
Kìa núi xa xanh chứng dám đôi lời
Nâng tiếng gió chiều nay đi xa tắp
Hồn tôi nữa sầu bay đi xa tắp
Trong sương khói chiều nay tôi đã gặp
Cả mùa thu vàng rụng xuống đôi vai
Và tôi nương sầu dịu vợi trên vai
Như thoáng ai theo tiếng gió lê dài
Trên những nẻo đường vàng đầy lá chết
Nguyễn Đức Sơn
(Sao Trên Rừng)
Chuyện Liễu Ban Đầu
Chẳng sông nước cách lòng nhau
Hỏi năm tháng
đổi thay nào
xuôi đưa
Vườn hương sắc nắng mưa chờ
Ðóa thơm thề hẹn,
trái mùa rụng xanh
Mưa tuôn trắng xóa đường tình
Phù hoa nắng vỡ giọt hanh lối người
Nụ hôn tầm gởi?
nhạt rồi
Nhắc chi chút mặn môi lời bể dâu
Mai đi,
xin nhắn dùm câu,
Chương Ðài chuyện liễu ban đầu
Thuỷ chung ai biết?
ngày sau nhớ về...
lephan
Không Đề
Cho Người đã khuất,
Ngày đã tắt
Ðêm về
Soi giấc nhớ
Cơn mưa nào
Ðập cửa - Gọi thinh không
Mưa thênh thang, em về cho tóc ướt
Mưa ôm quanh, phận người nhỏ, long đong
Bầu trời vỡ
Oà cơn bão lớn
Em quay cuồng
Ðau đớn nỗi sao rơi
Níu tay anh, như níu tuổi thơ mòn
Anh chẳng rộng vòng tay
Nên tình em chết ngất
Giấc mộng đầu tự tử buổi phôi phai.
Cỏ May
Những Đoạn Đường
Tôi vẫn đi tìm cuộc đời tôi,
Nổi trôi, trôi nổi, giữa dòng đời;
Bao nhiêu vết nứt, bao thương tích,
Hằn trên làn da sạm gió đờị
Tôi hãy còn đi một lối đi,
Ðường đi tuổi trẻ lúc xuân thì;
Chông gai, hiểm hóc nhưng vui thú,
Rọi đời qua ánh mắt ngây ngộ
Tôi sắp rẽ vào một lối đi,
Bắt tay xây lại giấc mộng Kỳ,
Như một lữ khách trên đường vắng
Ðã chán rồi cảnh lạ, rong chơị
Rồi một ngày mai tôi sẽ đi
Ðường xưa đổ máu nhuộm quốc kỳ.
Bên bờ Thái Bình xa xăm ấy,
Tôi, anh cùng dựng lại ngày maị
Sao Băng
Giá Trị Tư Tưởng Của Người Sáng Tác Văn Học
Trong khoảng thời gian gần đây, trên một số tạp chí văn học những mục văn khảo, nhiều độc giả, nếu có chút lưu ý, sẽ nhận thấy một mối quan tâm không nhỏ của nhiều nhà phê bình, liên hệ đến cái xu hướng sáng tác văn học hiện nay. Sự quan tâm không ngoài cái việc phong trào lãng mạn "thơ thẩn - ủ dột - buồn thảm" có phần tái xuất nhiều trên văn thi đàn hiện nay, và những cái tiêu cực xã hội, của nhân sinh, những cái chân gía trị của đời sống nhân loại trong văn học lại có phần bị lép vế.
Theo ngôn từ VH, đại khái mà nói, ng+ời ta than phiền cái lạm phát, cái leo thang đột ngột của khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật, trong khi cái xu hướng nghệ thuật vị nhân sinh ý chừng... xuống dốc. Có lẽ cũng vì quan tâm thái quá, một số bài viết đã vô tình làm tổn thương giá trị tư tưởng của người cầm bút nói chung, và đặc biệt là giới sáng tác văn học nói riêng. Sự tổn thương không chỉ nhằm vào một khuynh hướng sáng tác vị nghệ thuật, mà lẫn cả khuynh hướng sáng tác vị nhân sinh, mà nạn nhân là những người sáng tạo văn học chân chính.
Về phía vị nghệ thuật (sáng tác hầu phục vụ nghệ thuật, tiên chỉ vì cái đẹp của văn từ, cái "TÔI"vẫn thường chiếm ưu thế hơn hết), thiên hạ có ý trách cứ sự ra đời rầm rộ của phong trào thơ tình - loại thơ chỉ toàn thuần tuý ngâm nga, xướng hát, tiêu sầu, giải muộn, than th, xu hướng này thường thì bị xem là quá ư ủ dột, tiêu cực, không có ích, nói đúng hơn, không phù hợp với hoàn cảnh đất nước hiện tại... vân vân... và vân vân!!!
Tưởng cũng không cần nhắc lại, cái tư tưởng nhân loại, phàm ví như một vườn hoa thiên nhiên. Nó tự do, độc lập. Mỗi tư tưởng có một chiều sâu rung cảm khác nhau, như mỗi sắc hoa mang một hương vị riêng biệt vậy. Nói tư tưởng tự do vì khi gặp hoàn cảnh thích hợp, nó nảy sanh ngay một ý niệm nghệ thuật, tự tâm nó khơi màu ngay cái tư duy thiên phú,muốn ngăn cản cũng không thể muốn đè nén cũng khó lòng. Nói tư tưởng độc lập vì cái thành quả (nghệ thuật) của một tư tưởng này có sức quyến rũ, thu hút hoàn toàn khác biệt với sức thu hút, quyến rũ từ thành quả của một tư tưởng kia.
Nói thế không có nghiã là khi đói, người cầm bút, kẻ sáng tạo nghệ thuật không có quyền nhìn thấy cái đẹp trong tư tưởng mình:
Ðầu kèo mọt tạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.
(Hàn Nho Phong Vị Phú - Nguyễn Công Trứ)
Cơ hàn như Nguyễn Công Trứ, vẫn nghiễm nhiên xem mọt tạc như sao, ví mạng nhện như màn gió, há chẳng phải cái vốn tự do, cái độc lập tính trong tư tưởn ông đáng quý lắm sao? Nếu chẳng bằng lòng với sự sáng tạo trong tư tưởng ông, viện lẽ hoàn cảnh cơ hàn của ông không thích hợp mảy may cho lối so sánh véo von ấy, há ta chẳng phải đã chơi... ép cái tư duy của ông và đi ngược lại cái nghệt thuật sáng tạo lắm ru!
Hơn nữa, nếu nghệ thuật chẳng nên vị nghệ thuật, thì cõi đời này vô vị, tẻ nhạt biết là dường nào. Ðã bao năm trường quá quen thuộc, sống ngán, gượng ép sáng tạo quá nhiều những bài thơ mang nặng cái tính tập thể, cái đại đồng, cái "TA" vĩ đại ấy, thêm vào bao sức ép dồn dập, bon chen, tầm thường, nguỵ tạo trong thế giới quan hạn hữu nay, thì đôi lúc, có một vài phút tự do - mơ mộng, thẩn thơ - sống thật với lòng, quay về với cái "TÔI" thầm kín, riêng tư một vài khoảnh khắc, tưởng cũng là điều đáng làm lắm vậy.
Vì lẽ ấy, công kích giòng văn học lãng mạn vừa chớm tái xuất, cười mỉa những cây bút mới tập tành làm thơ... tình, đánh mạnh vào xu hướng vị nghệ thuật của những gương mặt mới trong bất cứ hoàn cảnh nào, quả hơi có phần quá đáng. Vả lại, người cầm bút, tự bản thể họ đã là người của nghệ thuật, viết cho nghệ thuật, và bởi nghệ thuật. Thành quả của họ là những tiếng gọi trong tận cùng tư tưởng, giá trị nghệ thuật còn có thể châm chước, chưa đáng nói, nhưng giá trị tinh thần là yếu tố tối cao đòi hỏi các nhà phê bình một sự thận trọng tối thiểu. Thiển gọi đó là sự tổn thương đáng tiếc cho những cây bút vị nghệ thuật chính vì lẽ ấy vậy.
Phía nghệ thuật vị nhân sinh cũng ít nhiều bị khiển trácThì đã quá hiển nhiên. Khi cái "TÔI" đã khống chế hầu hết trên văn thi đàn thì cái "TA" lẽ dĩ nhiên có phần nhượng bộ. Người ta cứ thắc mắc tự hỏi tại sao cái "TA" đại đồng ấy không còn mạnh mẽ chiếm ưu thế trên hầu hết các tuyển tập truyện ngắn, những bài tuỳ bút, ký sự... như những năm cuối của thập niên 70's, 80's nữa, rồi mạo muội tự hỏi có phải giới sáng tạo trong lãnh vực này đang dần dà rữa nát, hèn yếu, vị kỷ, và a dua theo thị hiếu mà bỏ mất cái lương tâm nhà văn, không màng vạch trần những hiện thực xã hội, đếm xỉa đến giai cấp vô sản, thành phần lao động nghèo, vân vân... và vân vân!!!
Khách quan một chút, những người vị nhân sinh vẫn còn nhiều lý do biện hộ. Câu trả lời tương đối khả quan hơn hết cho sự thiếu vắng sáng tạo trong nhóm này phải chăng là vì hoàn cảnh bắt buộc? Vì thời thế? Có lẽ vậy!!!??? Cũng có thể là thị hiếu độc giả đã dần dà thay đổỉ Những mẫu chuyện nông trường, hợp tác hoá, cái lối sống tập thể trên văn thi đàn đã dần dà không còn thích hợp nữa với điều kiện, nhu cầu đòi hỏi của giới mộ điệu VH hiện nay? Cũng là điều có thể. Những vần thơ vác súng, những khúc..."khải hoàn ca chiến thắng" dạo nào từng ngự trị suốt hơn hai thập niên, giờ đã không còn đất để...dụng võ nữa? Dân tình đã quá đỗi sống nhiều với cái "TA" rồi, giới trẻ giờ đây chừng như muốn lột xác, bừng dậy, ồ ạt tìm quen với những vần thơ tình mùi mẫn, lãng mạn, muốn nếm thử hương vị cái "TÔI", cái cá nhân tính, cái đời sống riêng tư, cái thế giới nội tại chỉ của chính họ, và không một va chạm nào của tập thể, của đoàn hội? Chính vì lẽ ấy, sản phẩm văn học hiện nay không còn mang nặng cái tính cách luân lý, cái hiện thực phê phán nữa, sản phẩm mang nặng thực trạng hiện tại có phần trống vắng? Thêm một lần nữa, cũng rất có thể. Thêm vào ấy, hãy nhìn vào đường lối, thể chế quốc nội thì cái nhân sinh quan của giới sáng tạo ngày nay có phản ánh được gì? Có phê phán, lên án được gì? Nếu có phê phán được, thì sự trung thực là bao nhiêu? Cái tuyệt đối của lên án như thế nào? Hay cũng chỉ lơ lửng, qua loa, bông đùa, rồi bị tắt nghẽn ở một địa hạt nào đó? Tưởng cũng không cần nhắc lại, đối với giới cầm bút một trong những phần thưởng cao quý nhất, chân chính nhất trong sản phẩm sáng tạo của họ là thốt lên được sự thật, nói được tiếng nói của con tim. Vì lẽ ấy, nếu không viết được điều mình muốn viết, thì thôi đành... gác bút vậy, chớ chẳng đành để tư tưởng mình nghẽn đọng một cách vô cớ.
Có thể vì lẽ ấy, cái "TA" một khi muốn tồn tại, nó phải có tính cách bưng bít, che dấu, và nguỵ tạo. Trong khi cái "TÔI" không nói được sự thật, không dùng được cho cái nhân sinh quan của mình, mà vì yêu sự sáng tạo, nên đành đem cái "TÔI" ấy dùng cho một xu hướng khác, nó vừa có khả năng tự do tuyệt đỉnh, vưà không gượng ép. đó là cái xu hướng lãng mạn đề cập ở trên vậy. Những điều vừa nêu, theo thiển ý tôi, hy vọng ít nhiều có thể giải toả được một số thắc mắc của các nhà phê bình, rằng tại sao cái nghệ thuật vị nhân sinh ý chừng bị lủng lép và thiếu sót. Nó lủng lép vì hoàn cảnh bắt buộc, nó thiếu sót vì điều kiện không cho phép. Vì cái môi trường tự do tuyệt đối ngõ hầu thúc đẩy những thành quả sáng tạo tuyệt đỉnh vẫn còn bị giới hạn nhiều, nhiều lắm so với thời kỳ bùng nổ văn học trong những thập niên 30's, 40's.
Hãy đi sâu nữa đi, hãy so sánh nữa đi, sẽ có rất nhiều lý do biện hộ cho sự trống vắng của cái chữ "TA", của sự im hơi lặng tiếng trong giới vị nhân sinh. Và trong tất cả những lý do ấy, có một điều chắc chắn là người sáng tạo trong giới này không ích kỷ, không hèn yếu, không rao bán lương tâm mình như một số thiên hạ đã vô tình gán chọ Kẻ sáng tạo luôn tôn trọng sự thật, nếu không viết được sự thật thì thôi đành gác bút chứ chẳng nỡ bóp méo tư tưởng mình. (Tôi muốn đề cập đến tất cả những tâm hồn yêu nghệ thuật chân chính). Chưa cân nhắc thận trọng hoàn cảnh kinh tế, môi sinh, ảnh hưởng tôn giáo, chính trị, xã hội... đã vội đặt một dấu hỏi ích kỷ, yếu hèn cho giới cầm bút, quả là một tổn thương tư tưởng đáng tiếc cho những tâm hồn yêu nghệ thuật chân chính lắm vậy.
Ðức Lưu
Ðiện ảnh Việt Nam: CYCLO ra mắt khán giả ở Mỹ
SAN FRANCISCO, ngày 21 tháng 3 (UPI) - Ðạo diễn người Việt Trần Anh Hùng, người đã mang tác phẩm đầu tay của mình "Mùi đu đủ xanh" , từng được đề nghị giải Oscar, diễn trên sân khấu nước Pháp, đã trở về Việt Nam để quay cuốn phim thứ hai của anh có tên là Xích Lô.
Tháng này, phim Xích Lô với nam tài tử Lương Triều Vỹ trong phim "Chungking Express" và nữ tài tử Trần Nữ Yên Khê đã hân hạnh ra mắt lần đầu tiên ở bờ biển phía Tây nước Mỹ nhân dịp Liên Hoan Phim Á Mỹ quốc tế San Francisco. Xích Lô là bộ phim nói về tay kéo xích lô trẻ tuổi bắt rễ vào thế giới tội ác, được quay trong thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận. Bộ phim phản ảnh sự đấu tranh sống còn trong một nước Việt Nam đang đô thị hoá. Trần Như Hùng tâm sự:" Khi về đến thành phố HCM năm 1991, tôi đã bị tràn ngập bởi một xúc cảm ngoại tại thuần tuý - tiếng rì rầm của thành phố, của nỗi mệt mỏi khó tin của những người dân, giống như là kiệt sức."
Phim Xích Lô, sẽ được trình chiếu vào mùa hè năm nay tại Mỹ, hình như sẽ lôi cuốn những người xem phim người Việt trên khắp nước Mỹ, những người đang khát khao mình được thể hiện trên màn bạc lớn.
Ngoài phim "Xích lô", liên hoan còn trình làng một số những tác phẩm Việt-Mỹ khác nữa như "To Ho Chi Minh City , From Saigon" của Trinh Nguyen và "Yellow Lotus" của Tony Bui, cả hai cuốn phim đều phản ảnh cái nhìn của thế hệ trẻ người Mỹ gốc Việt về Việt Nam, trong khi "A Tale of Love" của Trinh T. Minh Hà đã thể hiện một bài thơ tình Việt Nam cổ diển trong miền San Francisco đương thời.
Vụ muà phim này đang tạo ra những hy vọng là sự cởi mở trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, bắt đầu năm 1986 và được tiếp tục qua sự bình thường hoá với Hoa Kỳ năm ngoái, sẽ giúp đỡ cho việc nuôi dưỡng "nền điện ảnh Việt Nam mới mẻ" này.
Hoa Kỳ đã chín mùi trong chuyện này sau bao năm tỏ ra dị ứng với phim ảnh Việt Nam. Lương tri người Mỹ đã bị xâm chiếm từ từ qua những bộ phim như "The Deer Hunter", "Platoon", "Full Metal Jacket", "Heaven&Earth" và bộ phim truyền hình nhiều tập "China Beach", trong đó Việt Nam đã dược dùng như một bối cảnh đằng sau cho những câu chuyện chiến đấu của các nam nữ quân nhân Hoa Kỳ.
Andrew Lam, một chủ biên tin tức người Mỹ gốc Việt, phát ngôn viên trong buổi liên hoan, đã nói anh tin tưởng người Mỹ sẽ có lợi nhiều hơn khi xem những bộ phim được quay dưới quan điểm của người Việt Nam. Andrew Lam đã nói :"Rõ ràng là Viêt Nam đã không hiện hữu trước khi Oliver Stone đổ bộ xuống cánh đồng lúa. Nếu các anh không có được sự kiểm soát màn bạc, khi đó các anh sẽ bị loại bỏ khi kể lại câu truyện."
Việt Nam, một nước đã chịu đựng nhiều chinh chiến với các nước phương Tây và các nước láng giềng châu Á, hẳn phải có nhiều câu chuyện để kể. Những nhà làm phim Việt Nam hy vọng rằng với sự đầu tư vốn và dụng cụ của phương Tây, nhiều phim Việt Nam sẽ được chiếu trên màn ảnh lớn.
Dung Nguyen lược dịch
Phận Đàn Bà
Suốt đêm tôi trằn trọc mãi không ngủ được, hai con mắt ráo hoảnh cứ thao láo rọi lên trên tường. Ðến gần sáng, khi sức tàn lực kiệt thì tôi mới chợp mắt đi được một chút. Trên vách, kim đồng hồ vừa điểm 7 giờ sáng. Tôi biết dù mình có cố gắng cách mấy chắc cũng không ngủ lại được. Tôi ngồi dậy, khua chân tìm chiếc dép, bàn tay vô tình chống lên trên gối, và tôi cảm nhận được một hơi ấm, ướt đẫm còn đang đọng lại trên chiếc gối bông này. Như vậy là tôi đã âm thầm khóc lẻ loi một mình suốt đêm thâu.
Tôi đứng dậy, khoác chiếc áo len vào, đi ra phòng khách để đơm thêm củi vào trong lò sưởi. Tôi vén màn, nhìn ra bên ngoài. Phong cảnh thật ảm đạm không khác nào nỗi lòng của tôi trong giờ phút này; cả không gian dường như đang bị nhuốm bởi một màu xám ngoẹt, tối tăm. Texarkana, vào một ngày cuối đông, giá băng, tê tái hơn bao giờ hết.
Tôi đi vào phòng tắm để rửa mặt, dùng miếng khăn thấm nước lau nhẹ lên hai con mắt cay sế Tôi nhìn tôi trong gương. Một thoáng ngỡ ngàng. Chỉ sau một đêm mất ngủ mà dung nhan đã tàn tạ đến thế sao? Nhiều người quan niệm rằng đàn bà con gái ở lứa tuổi như tôi đẹp xấu là nhờ ở nước da. Xưa nay tôi vẫn tự hào có được làn da trắng muốt, nõn nà trời cho. Bạn bè tôi thường ganh với tôi, cứ gạn hỏi tôi dùng loại kem gì. Chúng nó không bao giờ tin được khi tôi trả lời rằng trong đời tôi không biết kem, phấn là gì. Bí quyết của tôi rất đơn giản, là ăn no, ngủ kỹ, và lạc quan yêu đời. Nhưng hôm nay niềm lạc quan yêu đời của tôi đã mất, và làn da trắng muốt trời cho cũng có dấu hiệu bị đe doẫ Trước mặt tôi là một hình dáng xa lạ, với màu da tái xanh và đôi mắt thâm quầng chứa đầy ưu tư, sầu muộn.
Như vậy là chàng đã lừa dối tôi. Người tôi tin tưởng, yêu thương cuối cùng đã lộ nguyên hình một tên sở khanh không hơn không kém. Tôi càng cố gắng nghĩ xấu cho chàng để thấy rằng chàng không đáng cho tôi để tâm thì tôi lại càng nhớ chàng hơn. Giữa chàng và tôi đã có quá nhiều kỷ niệm đẹp, không dễ gì phai nhòa một sớm một chiều được. Tôi trở lại phòng ngủ, gục đầu xuống gối, và tiếp tục khóc.
Tôi là con gái út và cũng là cô con gái duy nhất trong gia đình bao gồm năm trai một gái. Khi tôi chào đời không được bao lâu thì mẹ tôi qua đời, trên đường di tản từ miền Trung vào trong Sài Gòn, trong những ngày tháng đen tối của tháng 4, năm 1975. Biến cố đó bây giờ chỉ còn lờ mờ trong trí nhớ của tôi, đứa con gái mới tròn một tuổi, được bố cõng trên lưng, trôi theo dòng thác tị nạn, xuôi vào Nam, trôi ra biển Ðông, và cuối cùng được Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ vớt và đưa vào đảo Guam.
Sang Mỹ chúng tôi được tập trung vào trại Fort Smith, tiểu bang Arkansas. Từ nơi đây người tỵ nạn Việt Nam đã tung cánh bay đi khắp các phương trời. Họ rủ nhau đi định cư ở những vùng nắng ấm như Cali, Texas, hoặc Florida. Bố tôi thì khác, ông bảo anh em tôi rằng:
- Bây giờ sống ở đâu cũng được, vì nơi này đâu phải là quê hương của chúng ta.
Sau đó gia đình tôi được bảo trợ về một thành phố nhỏ, thuộc ngoại ô Little Rock. Tôi lớn lên trong sự đùm bọc và thương yêu của bố và các anh. Rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, anh em chúng tôi đã đến tuổi trưởng thành, như những con chim đã có đầy đủ lông cánh, sẽ có một ngày phải rời xa tổ ấm. Các anh tôi lần lượt rời xa bố; lớp lấy vợ, lớp đi lập nghiệp ở phương xa. Bố tôi thì dọn về Little Rock, sống với người anh cả, giờ đã yên bề gia thất. Vì muốn ở gần bên bố, nên tôi ghi danh lên đại học cùng tiểu bang. Bốn năm sau tôi ra trường và xin đi làm cho cơ quan chính phủ, thuộc đơn vị bộ binh của Hoa kỳ, và lập tức được đưa về Texarkana để huấn nghệ. Và ở đây tôi đã gặp chàng.
Con gái Việt Nam theo học kỹ thuật đã hiếm rồi, con gái Việt Nam theo học kỹ thuật điện và đi làm cho bộ binh Hoa kỳ lại càng hiếm hơn. Do đó trong khóa huấn nghệ này, bao gồm hơn hai chục người, trong đó có 5 người là Việt Nam, và tôi là một người con gái Việt Nam duy nhất. Suốt mười mấy năm trời chung sống với gia đình, tôi ít nhiều đã bị tiêm nhiễm bản tính đàn ông con trai, từ cách trang phục, dáng đi, cho đến lối nói chuyện, tất cả đều là lập khuôn của các anh. Tuổi thơ của tôi không có đồ hàng, búp-bê, mà là bắn bi, đá dế, tạt lon, rượt bắt cứu bồ. Nói chung là chuyện gì mấy anh tôi làm được là tôi nhất định sẽ làm theo, thậm chí cái ngành kỹ thuật tôi theo đuổi cũng một phần là bắt chước các anh tôi. Các anh tôi thường hay chọc tôi:
- Con bé này "tom boy" quá, không khéo lại ế chồng!
Tôi cũng tưởng như vậy, tôi cứ ngỡ là trái tim của mình thuộc loại sỏi đá, không biết rung cảm. Nhưng tôi đã biết là tôi lầm, từ sau khi tôi quen chàng. Cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại yêu chàng. So với bốn thanh niên còn lại, chàng không hợp với tôi nhiều điểm. Chàng thuộc thành phần vượt biên qua sau, tiếng Anh còn nhiều ngọng nghịu. Chàng lớn hơn tôi gần một con giáp. Chàng ăn mặc lè phè, quần áo, đầu tóc không thèm chải chuốt. Chàng hút thuốc và uống bia nhiều quâ Chàng tối ngày đàn hát say sưa. Nói chung ở chàng chứa đựng tất cả những đối nghịch với bốn người con trai Việt Nam còn lại, những người cùng sang năm 75 như tôi. Nhưng có điều làm tôi để ý ở chàng là cái tính bất cần của chàng. Trong khi bốn người thanh niên kia thay phiên nhau săn đón, tán tỉnh tôi thì chàng lại tỏ ra dửng dưng lạnh lùng. Vì vô tình hay cố ý, chàng đã làm tổn thương tự ái đàn bà trong tôi. Và bằng mọi cách tôi phải tìm hiểu về con người kỳ bí này.
Cho đến giữa khóa học thì tôi và chàng đã trở thành đôi bạn thân. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy chàng cũng như một ông anh của tôi vậy, và tôi chủ quan tin rằng chàng vẫn coi tôi như là đứa em gái, vì vậy trong đầu óc của tôi chưa bao giờ có nghi vấn về mối quan hệ anh em này. Có những hôm tôi đến học bài chung với chàng, tôi mệt và buồn ngủ. Chàng nói tôi mệt thì hãy ngả lưng một chút. Tôi leo lên giường của chàng, nằm ngủ tỉnh bơ, và đã không có chuyện gì xảy ra. Người đời thường hay tiểu thuyết hóa về những mối quan hệ nam nữ, chẳng hạn như một cái nắm tay thôi cũng đủ làm cho hai người đê mê. Nhưng tôi thì không thấy như vậy. Tôi vẫn để cho chàng nắm tay hoặc vuốt ve an ủi tôi những lúc tôi xuống tinh thần, nhưng tôi chưa bao giờ có cái cảm giác xúc động mảnh liệt như người ta đã ví.
Nhưng quan hệ giữa tôi và chàng bất chợt chuyển sang một khúc quanh, vào một đêm gần cuối khóa học, nhằm lúc tôi đến nhà chàng ôn bài học thi như thường lệ. Bên ngoài trời nỗi cơn giông, mưa gió bão bùng, sấm xét chớp tắt liên hồi. Ðêm đó, chàng đề nghị tôi ngủ lại đây qua đêm. Việc tôi ngủ lại đây qua đêm thì có gì mà phải ngại ngùng, vì tôi đã từng ngủ lại đây, lần nào chàng cũng nhường chiếc giường lại cho tôi và chàng vác mền ra ngoài sofa mà ngủ. Nhưng đêm nay tôi linh tính có điều gì bất ổn. Tôi có thể nhìn thấy điều này, qua đôi mắt của chàng, đôi mắt đã làm tôi sợ hãi.
Trao cho chàng cây dù, tôi nói:
- Vâng, anh nói đúng, giờ này lái xe về nguy hiểm quá, nhưng em không có mang theo đồ ngủ thì làm sao ở lại qua đêm được. Hay anh có bộ pyjama nào không, cho em mượn đở?
Chàng vẫn không nói gì, đôi mắt vẫn nhìn tôi đắm đuối.
- Anh, anh đừng làm em sợ!
Câu nói của tôi đã kéo chàng trở về thực tế. Chàng sực tỉnh:
- Em vừa hỏi gị Anh nghe không rõ.
Tôi lập lại:
- Anh cho em mượn tạm bộ đồ ngủ.
Chàng đi vào phòng, lát sau trở ra với bộ pyjama màu xanh lục, còn nguyên trong bao chưa xé ra. Chàng nói:
- Anh có mặc mấy thứ này bao giờ. Bộ đồ này bà chị của anh mua tặng nhân ngày sinh nhật của anh hồi năm ngoái. Anh tặng lại em đó.
Tôi giẫy nẫy:
- Ai lại làm vậy bao giờ, quà sinh nhật của mình lại đi tặng kẻ khác. Hơn nữa, chắc gì em đã mặc vừa. Em chỉ mượn tạm một đêm nay thôi.
Nói rồi tôi bước nhanh vào phòng tắm. Hồi nãy tôi không nghe lời chàng, đòi ra về, vừa bước xuống bãi đậu xe thấy mấy cành cây bị gió đánh đổ che khuất lối đi, có nhiều cây còn bị bật gốc nữa, cho nên tôi đổi ý quay trở lại đây xin tá túc qua đêm. Từ trong nhà chàng bước ra bãi đậu xe không có xa, nhưng tôi đã bị mưa tạt ướt hết quần áo. Sợ bị cảm lạnh nên bây giờ tôi muốn tắm rửa sạch sẽ trước khi đi ngủ. Tôi cho xã nước nóng vào trong bồn, rồi từ từ trút bỏ quần áo. Một chút hổ thẹn thoáng dâng lên trong lòng. Tôi nghĩ là mình quá bạo tợn, dám khỏa thân lồ lộ trong nhà một gã đàn ông lạ, mặc dù tôi biết rõ là cửa nhà tắm đã được cài then kỹ lưỡng. Tôi nghiêng người ngắm mình trong gương. Tôi rất hãnh diện với những đường cong hiện rõ trên đó. Tôi ngắm tôi một cách thỏa mãn, từ bờ ngực vươn lên cao ngút, tươi mát cho đến những lồi lõm lôi cuốn ở phía dưới lưng; tất cả tròn trịa, căng đầy nhựa sống. Tự nhiên tôi thèm được vuốt ve, che chở. Tôi đưa tay vuốt đôi trường túc, một cảm giác lành lạnh chạy dọc theo xương sống. Tôi có cảm giác có ai đang nhìn mình, theo phản xạ, tôi vội đưa hai tay che chéo phía trước ngực. Tôi quay lại nhìn, không có ai hết, tôi chỉ khéo tưởng tượng. Tôi bước vào bồn tắm, dòng nước nóng bao phủ lấy tôi, như muốn gột rửa tất cả những cảm giác tội lỗi vừa mới hiện lên trong tôi.
Tôi tắm xong, mặc bộ đồ dài thòng lòng của chàng vào. Mùi thơm của áo mới tỏa ra, tạo cho tôi một cảm giác thật dễ chịu. Tôi định mặc áo ngực vào, nhưng thấy còn ướt, nên đổi ý. Bộ đồ ngủ mỏng quá, làm hai gò ngực của tôi cương lên thấy rõ. Ở đó, tất cả như muốn nhún nhẩy theo từng cử động của tôi. Tôi hé cửa, hỏi mượn chàng cái máy sấy tóc. Chàng trả lời là không có xài máy sấy, đến nỗi cái lược cũng không có để mà chải đầu. Tôi bực bội, lục bóp tìm cái lược của mình. Tôi còn đang loay hoay cúi đầu xuống bồn nước để chải tóc thì cảm thấy có một bàn tay rắn chắc đang đặt lên trên vai mình. Lần này không phải do ảo giác mà ra. Tôi liếc nhìn trong gương, chàng đang đứng đó tự bao giờ, hai bàn tay vẫn đặt lên trên vai tôi, xoa bóp nhè nhễ Bình thường những động chạm giữa tôi và chàng chẳng tạo cho tôi một cảm giác gì, nhưng tự nhiên lúc này tôi như đang lạc vào mê hồn trận. Cái cảm giác đê mê, lạ kỳ đang truyền về tim làm cho tôi ngây ngất. Cái cảm giác thèm thuồng được vuốt ve, che chở ban nãy bỗng trở lại với tôi. Cái cảm giác hàm chứa đầy tội lỗi. Tôi đang đứng ở ngã ba đường. Tôi phải làm gì đây. Nhưng rồi bản năng đã chiến thắng lý trí trong tôi. Tôi hành động theo bản năng. Tôi quay lại phía sau, nhắm mắt chờ đợi.
Nụ hôn đầu đời tôi vừa trao cho chàng có vị mặn trong đó. Ðầu óc tôi mê man, ngây dại. Ðôi môi chàng mân mê trên cỗ tôi làm tôi nhột nhạt, khó chịu một cách sung sướng. Tôi để mặc cho bờ môi tham lam đó di chuyển từ từ thấp xuống dần. Chàng cởi phanh nút áo bộ pyjama, gục đầu lên trên vùng da trắng mát rượi. Ðôi môi chàng di động trên đó, làm tôi muốn chết ngất, cơ thể của tôi rung lên từng cơn chầm chập. Chàng thấy vậy nên dừng lại. Tôi vội níu kéo chàng trở lại, ghì sát vào người chàng. Hai tay tôi kẹp hai bên má chàng, tôi ôm hôn chàng đắm đuối, lần này tôi đóng vai chủ động. Chàng gỡ tay tôi ra, nói giọng đứt quãng:
- Không thể được. Anh phải giữ cho em. Nhưng em phải giúp anh. Ôi, anh yêu em quá. Em có biết không?
Tôi đáp lời chàng bằng hành động, bằng những nụ hôn tới tấp. Tôi như con thú đói lâu ngày, giờ này không có gì có thể ngăn cản tôi được. Chàng vẫn luôn miệng nói "không thể được", nhưng lại bế xốc tôi, ẵm tôi vào phòng, đặt tôi lên trên giường ngủ của chàng. Cũng trên chiếc giường này tôi đã từng ngủ trên đó, vào những buổi trưa học thi mệt mỏi. Nhưng hôm nay nó bỗng trở nên êm ái lạ thường. Chàng chậm rãi lột bỏ từng mảnh vải trên người tôi, rồi sau đó tự thoát yy. Tôi bỗng nhiên cảm thấy xấu hổ vô cùng. Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy đàn ông lõa lồ. Tôi nhắm mắt lại. Chàng hiểu ý, lấy tấm mền mỏng đắp lên trên hai người. Bên dưới tấm mền mỏng đó là hai thân thể đang hừng hực lửa, tưởng chừng như có thể thiêu đốt cả thế gian. Tôi nằm ngửa, gồng mình trong tư thế chờ đợi. Tôi tưởng tượng giây phút chàng và tôi hòa lại thành một, có lẽ sẽ mang lại nhiều đớn đau. Nhưng rồi chàng lại chầm chậm vuốt ve khắp người tôi. Các bắp thịt căng cứng trong tôi bắt đầu giãn ra. Khi tôi cảm thấy thoải mái dễ chịu cũng là lúc chàng đi vào đời tôi, nhẹ nhàng, êm ái, và tê dại. Tôi quấn chặt lấy chàng, cả thân thể tôi rung lên từng cơn, trong niềm đau tuyệt vời.
Ba tháng trôi qua, từ cái đêm mưa định mệnh, cái định mệnh xui khiến tôi dâng hiến trọn vẹn cho chàng. Suốt thời gian đó cho đến nay, chúng tôi lúc nào cũng quấn quít bên nhau như hình với bóng, như vợ với chồng. Chúng tôi vẽ ước mộng tương lai, sau khi ra trường, hai đứa tôi sẽ xin chuyển về căn cứ STRICOM ở dưới Florida, và chuẩn bị tiến hành đám cưới.
Có chàng, trong tôi như có mùa xuân. Tôi không còn là con bé ngỗ ngáo, bị mấy ông anh trêu là "tom boy" nữa. Tôi bắt đầu biết làm dáng, biết nũng nịu, nhõng nhẽo, như bất cứ cô gái nào trên đời này, khi đang biết yêu. Lúc nào tôi cũng muốn có chàng bên cạnh, rời chàng chút xíu tôi cũng đã cảm thấy bất an, tôi còn muốn dọn vào sống chung với chàng, nhưng chàng khăng khăng từ chối. Chàng nói:
- Chúng mình đã tính chuyện lâu dài, trước sau gì cũng sẽ sống chung bên nhau trọn đời, không việc gì phải hấp tấp. Vả lại, em chưa là vợ anh, anh không muốn em bị thiên hạ dị nghị.
Tôi không ngờ một người bất cần đời như chàng mà cũng coi trọng dư luận như vậy. Tôi nghĩ rằng chàng chỉ nói như vậy thôi, có lẽ sự thật là chàng còn đang tiếc rẻ một chút tự do cuối cùng của cuộc đời độc thân. Từ khi quen nhau, chàng đã hy sinh cho tôi khá nhiều thời giờ, chàng đã bỏ bê bạn bè và những bữa nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng.
Ngày tháng lặng lẽ êm trôi. Gần đến ngày tốt nghiệp tôi nhận được một tin sét đánh, là chàng đã có vợ và 3 con đang sống ở Florida. Người đưa tin này là một trong 4 người bạn trai độc thân cùng khóa, hắn là người từng theo đuổi tôi sát nhất và đã bị tôi cho ra rìa. Tôi không thể tin được. Tôi đã chửi như tát nước vào mặt hắn, tôi còn nói nếu mà hắn cứ tiếp tục cái trò vu khống dơ bẩn này thì tôi sẽ biện pháp. Hắn nói là hắn có bằng chứng rõ ràng, hắn nói tôi đừng hiểu lầm, hắn không còn theo đuổi tôi như xưa, vì hắn bây giờ đã có bạn gái. Việc hắn giúp tôi không xuất phát từ lòng thương yêu, mà là vì thương hại. Tôi đuổi hắn ra khỏi nhà. Hắn chuồn êm, sau khi để lại một mẫu giấy nhỏ, ghi rõ số điện thoại, nói là số điện thoại của vợ, con chàng dưới Florida, nói nếu tôi không tin thì cứ việc kiểm chứng. Tôi cầm lấy mẫu giấy, xé ra thành từng mảnh vụn, kiểm chứng làm gì, nếu như điều này đúng sự thật, liệu tôi có can đảm để chấp nhận không.
Mấy ngày liên tiếp sau đó, chàng bỗng dưng biệt tăm. Người quản lý khu chung cư cho biết chàng đã trả nhà hồi tuần rồi. Tôi vào trường hỏi thì cấp trên cho biết là chàng có chuyện gia đình cần phải giải quyết nên đã trở về Florida, có thể sẽ không trở lại đây để dự lễ ra trường được, và có lẽ sẽ chuyển thẳng xuống căn cứ STRICOM để làm việc. Tôi hỏi một câu tò mò về gia cảnh của chàng thì người ta từ chối không cho biết, viện cớ rằng đây là chuyện bí mật đời tư. Bất đắc dĩ lắm tôi mới phải làm một công chuyện tôi không ưa thích, là dùng máy computer ở nhà nối vào trong sở, tìm cách len lõi vào trong hệ thống lưu trữ hồ sơ của trung ương. Việc này đối với tôi chẳng có gì là khó, xưa nay tôi vẫn được mệnh danh là "computer hacker" mà.
Cuối cùng tôi cũng tìm được hồ sơ của chàng. Tôi cảm thấy trời đất xây xẩm, tôi không tin ở mắt của mình. Ðúng như lời người bạn cùng khóa của tôi đã nói, chàng đã có vợ và 3 con. Tôi còn chưa tin đây là sự thật, tôi ghi lại số điện thoại, quay máy gọi xuống nhà chàng ở Florida. Bên đầu kia, nhấc máy là một người đàn bà Việt Nam, bà xác nhận với tôi là tôi gọi đúng số, chính bà là vợ của người tôi đang muốn kiếm. Bà hỏi tôi kiếm chồng bà có chuyện gì. Tôi dằn nén xúc động, nói không có chi, chỉ là một người bạn học cũ ở Việt Nam, gọi lại hỏi thăm.
Chuyện đã xảy ra mới ngày hôm qua mà thôi, chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ mà tôi có cảm tưởng dài như cả thế kỷ. Tôi gục đầu vô gối, tiếp tục nức nở. Tôi tự hỏi rồi đây số phận tôi sẽ ra sao. Chắc chắn là tôi không thể chuyển về căn cứ STRICOM để đối diện với con người đểu cáng ấy. Tôi sẽ xin chuyển về căn cứ MICOM ở tiểu bang Alabama. Tôi nghe kể rằng ở đó rất buồn và lạnh, nhưng cái lạnh bên ngoài làm sao mà so sánh được cái lạnh tê tái toát ra từ cõi lòng này. Ðúng rồi, tôi sẽ về xó rừng miền Nam xứ Alabama để chôn vùi quá khứ đau thương trên những vùng tuyết trắng giá băng.
Nước mắt tuôn ra dầm dề. Tôi phải đi vào phòng tắm để rửa mặt. Tôi mở tủ thuốc tìm vài viên thuốc an thần, tay tôi vô tình đụng phải hộp thuốc ngừa thai. Những kỷ niệm nhức nhối lại hiện về. Tôi bỗng dưng chẳng còn thấy thiết tha trong cuộc sống trên cõi đời này. Ý nghĩ quyên sinh thoáng hiện lên trong đầu. Tôi đổ hết đủ loại thuốc ngủ, thuốc ngừa thai, thuốc trụ sinh vào trong lòng bàn tay được thành một nắm to. Tôi thầm nghĩ nắm thuốc này dư sức đưa tôi sang bên kia thế giới. Nhưng trong giây phút ấy tôi thấy cha tôi hiện ra, nét mặt ông tràn đầy vị tha. Tôi thấy các anh của tôi đang làm một động tác ngăn cản. Tôi thấy cả một vùng trời ký ức hiện về, trong đó có tuổi thơ của tôi; sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trên đất người, được bao bọc trong vòng tay gia đình. Cuối cùng, tôi thấy mẹ của tôi trở về từ cõi âm. Hình bóng của bà trông rất thân quen, mặc dù tôi bị mất mẹ từ thuở ấu thơ. Tôi sụt sùi trong làn nước mắt chan hòa:
- Mẹ ơi! Mẹ hãy tha lỗi cho con!
Bùi Thanh Liêm
Tháng 3, 1996
Trên Ðỉnh Mùa Xuân
Khi tôi đến Dallas, mùa xuân cũng đang đến với đất trời. Tôi di chuyển đến và sinh sống nơi đây thật đột nhiên và vội vã.
Dọc hai bên đường, những hàng cây trụi lá khi tôi đến đêm qua còn co mình tránh cơn gío rét mùa đông, mà sáng nay đã hăm hở vươn dậy những mầm hoa trắng lấm tấm như hoa tuyết. Và tôi nhớ da diết đến những thân mai vàng mảnh khảnh, những cành đào rực rỡ trong ánh nắng của một mùa xuân xưa.
Cũng ngày hôm qua, bằng một sự tình cờ, tôi đã chọn một căn phòng trọ với cánh cửa kính mở rộng trên lầu ba. Tôi muốn ngắm lại những đám mây trắng trôi bồng bềnh. Tôi sẽ mở rộng cửa để đón nắng mai và luồng gío mát. Ðón cả ánh trăng ngà. Ðêm. Tôi sẽ ngủ vuìtrong ánh trăng, đưa hồn mình vào những giấc mộng có tiếng ngâm thơ dìu dặt, tiếng đàn, tiếng sáo...
Tôi sẽ ru quên những muộn phiền quá khứ. Tiềm thức sẽ ngủ yên trong đáy hồ dĩ vãng. Thật an thường. Và bình yên.
Sáng. Tôi sẽ vươn dậy. Con tim bình minh cùng nắng mới. Như mầm cây hồn nhiên và tinh khiết bên đường. Như những nụ hoa trăng trắng ngoài kia.
Hoài Nam