vhnt, số 251
2 December 1996
Trong số này:
thư vhnt..........................................................Nguyện Ý
T h ơ :
1 - Dạo khúc 8 .........................................Nguyễn Quang Tấn
2 - Nụ cười buồn tênh ....................................Thận Nhiên
3 - Ðêm trên bến Circular Quay ...............................Thụy Phong
4 - Tại sao tôi không là chiếc lá ...................Nguyễn Bá Dĩnh
5 - Sáng, trưa .................................................Trương Chi
6 - Casino Việt Nam ......................................Luân Hồ Triệu
7 - Chim bay về núi ............................................Sương Mai
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - dịch thơ "Ký Viễn" của Lý Bạch ......................Hữu Nguyên
9 - Phố phường Hà Nội ..............................Phạm Thế Ðịnh
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
10- Căn nhà ma .............................................Bùi Thanh Liêm
Một đêm.
Ðối thoại với người bạn thân nhất đời mình.
Tôi hỏi:
- Tại sao bẻ bút?
- Tại không muốn đối diện mình, mổ xẻ mình. Tại không muốn phơi bày những gì sâu kín nhất, với chính mình.
Tôi lại hỏi bạn mình:
- Tại sao viết lại?
- Tới một lúc nào đó, chợt nhận thức ra rằng - Viết, đâu nhất thiết là đối diện mình, mổ xẻ mình, phơi bày mình. Bây giờ, viết là đứng giữa cõi hạnh phúc của sáng tạo, của cuộc đời, của linh hồn, để viết về hạnh phúc đó, khi đặt tâm hồn mình vào vị trí mình không còn nó nữa.
- Là sao?
- Là đứng giữa ánh sáng, gieo tư tưởng vào bóng tối vô tận, để tâm linh cảm nhận trọn vẹn hạnh phúc mình đang có do ánh sáng mang đến chung quanh, rồi đưa con tim vào ngòi bút. Và viết cho nát ý niềm hạnh phúc đó.
- Có nghĩa là biết hạnh phúc với những gì mình đang có bằng cách đặt mình vào vị trí mình mất nó.
- Ðúng. Có một điều.
- Ðiều gì?
- Là khi đứng giữa mặt trời, đặt mình vào bóng tối mà viết về mặt trời. Nhưng không vẽ mặt trời. Nhưng không diễn tả mặt trời. Mà định nghĩa mặt trời ở ý nghĩa chân thuần nhất của nó, từ bóng đêm.
Một đêm.
Tôi đối thoại với người bạn thân nhất đời mình.
Một đêm.
Tôi đối thoại với ngòi bút mình.
Với chính tôi.
Nguyện Ý
Dạo Khúc 8
Thôi cứ đặt niềm bất hạnh ấy vào nơi Chúa đã an bài
khoác cho hồn một manh áo mới
bước vào đời
hát trong nắng mai
Dẫu biết rằng sầu kia chẳng thể nói cùng ai
giữa ngựa xe phố xá đông người
nhưng từng đêm trong vườn khuya vắng lặng
nỗi buồn này ta kể với hàng cây
Ðành rằng máu đã ra sông
nước mắt nhân gian hòa chung biển rộng
thôi thì cứ để
môi em chìm trong những bọt rượu hồng
Nguyễn Quang Tấn
Nụ Cười Buồn Tênh
Sáng nay ngồi nhìn vào mắt con tôi
ngó mơ màng qua cửa sổ
rừng cây mùa đông trụi lá
con cười răng sún ...
12/95
Thận Nhiên
tại sao tôi không là chiếc lá
tại sao tôi không là chiếc lá
của cành cây bên đường em đi qua
nhờ cơn gió, sẽ lao mình rơi nhẹ
trên tóc em và theo đến tận nhà
em mở cửa, tôi nằm yên trên tóc
em vô nhà, tôi xin được vô theo
rất giản dị, đâu chờ em mời mọc
chỉ xin sao được kề cận sớm chiều!
em soi gương chải đầu, xin cẩn mật
gỡ tôi ra, xếp giữa tập thơ tình
em đọc thơ, tôi canh chừng đôi mắt
xin được buồn khi lệ nhỏ long lanh!
khi em ngủ, xin được nằm bên gối
sẽ lặng im, không khuấy giấc em mơ
như thế đó, tôi hiền hoà rất đỗi
xin chẳng xa nhau... xin chẳng bao giờ!
nguyễn bá dĩnh
Ðêm Trên Bến Circular Quay (*)
Một đêm trên bến Circular Quay
Nhạt nhẽo mưa rơi luống phụ phàng
Vào quán thưa người tìm hơi ấm
Ðể thấy mênh mông nỗi độc hành
Trong quán dưới trời nghe ta thán
Ðèn bàn leo lét ánh xám xanh
Chưa vội làm quen đây khách lạ
Mưa mùa còn đọng cổ áo thưa
Ngoài ngõ mưa rơi mưa vẫn nhịp
Xen kẽ không gian dăm gót giày
Khua lẽ đường khuya nghe khô khản
Vài bóng bâng quơ trên vỉa hè
À - vài đôi nhân tình khép nép
Thờ thẫn theo qua dưới hoa dù
Không cười không nói chỉ lặng lẽ
Như giữ cho nhau phút hạnh tình
Chạnh lòng nỗi nhớ một đêm mưa
Một thoáng hương xưa lại đến buồn
Ðêm ấy, đêm này, bao đêm nữa?
Còn mãi theo nhau để trách hoài
Ừ thì đã lỡ chỉ than thở
Tia Maria vị đắng chuốc đêm gầy
Jamaican cà phê cơn say nhạt
Mặc hồn trả vay nỗi đọa đày...
Vang tiếng còi gầm tim như thét
Theo chuyến phà đêm bóng lạnh lùng
Ra vào mệt mỏi, thân lảo đảo
Chẻ sóng bạc đầu phận nổi trôi
Về đâu đêm nay đôi chân mỏi?
Bến dài biển rộng nặng lòng trai
Mơ chi hải đảo hoang vu ấy
Khi đời đối diện cũng quạnh tanh.
Thụy Phong
(11/1996)
* Bến Circular Quay là một địa điểm khá thơ mộng ở Sydney, Australia, nhất là về đêm. Bến nối dài với Darling Harbour, một khu khá sầm uất với một lối kiến trúc theo mô hình một chiếc thuyền bườm cổ xưa.
Có lẽ cái thơ mộng của bến này về đêm là một lối đi dài từ bìa phố Sydney kéo dài ra tới tận biển, thêm vào đó là những hàng quán về đêm với những bàn ngoài, bàn trong được trang trí thêm với những ngọn đèn dầu xinh xinh, vừa đủ để tăng thêm cái nét lãng mạn và tình tứ.
Từ bên bến Circular Quay, khách tham quan có thể thấy bên kia bờ là hai kỳ quan khá nổi tiếng của Sydney là Harbour Bridge và Opera House (nhà con sò). Cũng dọc theo bến này khách cũng có thể đón những chuyến phà đi du ngoạn một vòng xuyên dưới cầu Harbour và dừng lại bên phía Opera House, hoặc quay trở lại về bến Circular Quay.
Sáng
Sáng em vẽ lại màu môi
Ðen quầng mắt
Trắng tóc rồi
Trần gian!
Nhón chân
hôn vội
ngày dài
Vô thường giọt lệ
trên vai
sương mù.
Trưa
Thôi nhắm mắt
Cho đời qua
Thôi cúi xuống
vì độ hoa
sắp tàn
Ðời thiêm thiếp
ngủ bên ta
Giữa trưa
thức giấc
sao xa vắng đời.
Trương Chi
25/11/96
Casino Việt Nam
Tôi gặp ai?
bên sòng
Casino Việt nam
đang say men
chiến thắng!
Những lá bài đỏ đen nhún nhẩy
Ðỏ như máu người
Ðen như đất hiền hòa
như đêm dài đại dương buốt giá
đón chào người ra đi
như cơn mưa nửa đêm
trên hàng cây thập tự
bên bờ rào địa ngục
Casino Việt Nam!
Sao buồn quá mức?
Tôi gặp tên chủ sòng
của canh bạc mà ai đeo đuổi
trong đêm khuya
khi vạn vật thông minh chìm trong giấc ngủ
phết từng lớp dầy trên những lá bài đen
một màu trắng tang thương, tủi nhục
rồi tô hồng với máu thắm
để làm vui ai?
người no cơm ấm cật?
người trai trẻ Việt Nam?
Casino Việt Nam! Casino Việt Nam!
Rồi mai đây
Trên biển Ðông mặn mà
biển dấu yêu một thời
nước nhiều nhưng tình cạn
còn gì mà vớt vát!
còn gì mà gỡ gạc!
ngoài mấy lá bài đen nổi trôi theo vận
nước
Sẽ vui gì?
khi màu hồng rã rời!
Vớt vát gì?
những lá bài đen đượm muối nhớ thương!
Nhớ thương màu đất quê hương
Ðất-Thơ, Chồng-Vợ tình thương mặn mà
Nhớ thương mưa dại vườn hoa
Thánh đường trầm lặng thầm ca thanh bình
Nhớ thương biển sóng rập rình
Ðắp bồi mảnh đất cong hình rồng bay
Nhớ thương em bé ngày mai
Gạo cơm là nỗi chua cay làm người
Casino Việt Nam Casino Việt Nam!
Ai khổ đau? Ai thầm tủi?
Ai thương nhớ? Ai lưu đày?
Cảnh gông cùm? Ai chịu mặc ai!
Chủ sòng Casino Việt Nam
vẫn khề khà say men
vì luôn luôn thắng cuộc
Ai cúi mặt che dòng lệ tủi?
Ai đợi chờ một ngày mai?
Luân Hồ Triệu
Chim Bay Về Núi
Hơi đâu mà giận người dưng
Giữ làm sao được chim rừng nó bay
Một mai chim bỏ bay về núi
Bỏ lại mình ta với ngậm ngùi
Một thuở rừng xanh vang tiếng gọi
Lòng thương nhớ mãi, dễ đâu nguôi
Một mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một mình ngó nhánh sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
Một mai chim bỏ bay đi mất
Mà nói gì đâu tiếng giã từ?
Trang sử tình yêu theo gió thoảng
Thủy chung ai có hứa gì đâu?
Sương Mai
11/3/96
dịch thơ "Ký viễn" của Lý Bạch
Ký viễn (II)
Riêng gởi Ðông A ,vhnt #249
Ức tạc đông viên đào lý hồng bích chi
Dữ quân thử thời sơ biệt ly
Kim bình lạc tỉnh vô tiêu tức
Linh nhân hành thán phục tọa tư
Tọa tư hành thán thành Sở Việt
Xuân phong ngọc nhan úy tiêu tức
Bích song phân phân hạ lạc hoa
Thanh lâu tịch mịch không minh nguyệt
Lưỡng bất kiến
Ðãn tương tư
Không lưu cẩm tự biểu tâm tố
Chí kim giam sầu bất nhẫn khuy.
Lý Bạch
Gởi người phương xa
Nhớ thuở vườn đông đào mận đỏ
Cành xanh... là lúc biệt ly nhau
Bình vàng, giếng thẳm không dò thấy
Ði nhớ, ngồi thương, mãi ngập sầu
Sầu cách núi sông như Sở Việt
Xuân về sắc ngọc ngại phai mau
Hoa rơi tơi tả ngoài song biếc
Gác vắng mơ màng bóng nguyệt cao.
Không thấy nhau
Thì thương nhớ nhau
Còn đây lời gấm, ý tình châu
Giờ đang lắm nỗi buồn, thương, nhớ
Chẳng dám xem thư sợ chữ nhàu.
Hữu Nguyên dịch
Phố Phường Hà Nội
(phần II, tiếp theo loạt bài ký sự về Hà Nội)
Sau khi đã điện thoại về Úc, báo tin nhà rằng chúng tôi đã đến Hà Nội, gần đúng giờ như dự tính. Quá nôn nóng đi xem phố xá, tôi không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Nhìn đồng hồ thấy đã 9 giờ đêm. Tôi qua phòng ông P. (người bạn đồng hành Úc) để rủ ông ta xuống phố đi ăn.
Ông P. đã về Việt Nam một lần vào cuối năm ngoái. Một phần vì không biết tiếng Việt, một phần vì thiếu người hướng dẫn, ông ta đã phải vào ăn trong những quán quá đặc thù Việt Nam. Ông ta đã thành thật nói với tôi là khi nhìn thấy những đôi đũa tre cáu đen dọn trên bàn, ông ta đã phải gọi một ly Whisky để ngâm đôi đũa vào đó, mong rằng rượu mạnh sẽ đủ giết những loại vi khuẩn, có thể vô hại với người bản xứ, nhưng rất độc với những người tây phương. Sự khác biệt văn hóa quả nhiều khi là một vấn đề cần nên nghiên cứu.
Ông B. cẩn thận mang theo một đôi đũa riêng để đi ăn. Ðể chiều lòng ông, tôi cũng mang theo một đôi đũa tre. Trong thâm tâm, tôi nghĩ rằng sẽ chẳng cần dùng đến chúng. Nơi tôi đã được sinh ra chỉ cách đây khoảng 200 cây số, tại thành phố Thái Bình. Thành phố này còn nghèo hơn Hà Nội, trong cơ thể tôi đã được cấy đủ mọi loại vi khuẩn của xứ này, tôi cho rằng tôi đã được miễn nhiễm gần như những người Việt khác.
T. hướng dẫn chúng tôi đến một quán ăn, mang tên tiếng Anh là "Piano Bar", nằm trên đường Phùng Hưng, về phía tây hồ Trúc Bạch.
Em T. hiểu tôi muốn thấy thật nhiều hình ảnh trong đêm đầu tiên, vừa lái xe chầm chậm vừa giải thích bằng tiếng Việt, những sinh hoạt của thủ đô nước Việt. Những con đường chính mà chúng tôi đi qua khá lớn, so với những con đường của những khu phố của những thành phố cổ khác tôi đã đến. Nét ảnh hưởng trong lối kiến trúc của miền Nam nước Pháp rất nặng. Nhưng những đường nét đặc thù của Việt Nam vẫn rõ rệt. Chẳng hạn như những hẻm dẫn sâu vào bên trong một dẫy nhấ Ðiểm đặc biệt là khoảng cách từ lề đến mỗi căn nhà, tuy có, nhưng hầu hết đều bị lấn để dựng xe, kê bảng hiệu. Phần đông, những nhà tư nhân ở đây đều hẹp chiều ngang, và dài vào phía trong. Hầu như không có nhà nào có vườn trước cả. Một vài căn nhà khá lớn tươm tất, có cổng dẫn vào một cái sân trước, rồi mới vào hiên nhà.
Chiếc xe chở chúng tôi qua Phố Tuệ Tĩnh, Phố Bà Triệu đến hồ Hoàn Kiếm, chạy một vòng bờ hồ, rồi theo những con đường nhỏ đến đường Phùng Hưng. Trời về đêm, Hà Nội vẫn còn một số người đi xe đạp, xe gắn máy đi ngoài đường. Hà Nội rất ít đèn xanh đèn đồ Số đèn hiện có rất cũ kỹ, có lẽ để lại từ thời Pháp. Thỉnh thoảng có một người công an đứng trên lề đường, nhưng với vẻ rất lơ đãng, không màng đến việc giữ gìn trật tự lưu thông. Tới ngã tư, mạnh ai tới trước người ấy đi. Còi bấm thường xuyên để tránh việc đáng tiếc. Tuy thế, tôi không thấy người ta lộ vẻ nóng giận, chửi rủa nhau như ở một vài quốc gia phương Tây. Quá lắm là một lời than.
Quán ăn "Pianos Bar" chỉ nhỏ thôi, gồm vài cái bàn và một piano kê sát vào tường. Các em tiếp khách không mặc đồng phục, nhưng quần áo tử tế. Hiền và nhã nhặn. Chúng tôi gọi vài món ăn nhẹ và rượu đỏ, và chỉ kịp nghe hai người trẻ (1 vĩ cầm, 1 dương cầm) đánh vài bản nhạc bán cổ điển rồi là bài tạm biệt vì đã khuya. Chúng tôi trả tiền bằng dollars Mỹ. Giá một bữa ăn như vậy là khoảng 30 dollars, 20 dollars đã dành cho chai rượu, nhập cảng từ Pháp, 10 dollars cho hai người ăn, không mắc cho những người lãnh lương ngoại quốc, nhưng với một khoảng lương chánh thức của một giáo sư đại học ở Việt Nam là 70 dollars một tháng, thì là nhiều.
Về lại khách sạn, tôi đến quầy trò chuyện cùng nguời gác giấc đêm. Hỏi thăm vài tin tức cần thiết như dịch vụ đổi tiền, chỗ mua sắm, phương tiện giao thông... Sau đó, lên phòng để ngủ qua đêm đầu tiên ở Hà Nội.
Nằm trong căn phòng đìu hiu, không có tiếng trẻ đùa như ở nhà riêng tại Úc. Tôi ôn lại những hình ảnh vừa nhìn thấy ở Hà Nội, và những khoảng Hà Nội đã có trong tôi, qua sách vở, âm nhạc, chuyện kể hay phim ảnh.
Văn chương Việt Nam đã dành cho đất Hà nhiều ân cần. Từ những huyền thoại rồng bay lên trời, để có tên Thăng Long. Rồi những câu thơ mang đầy sử tính:
Ai về đất Bắc cho ta gởi
Một tấm lòng thương giống Lạc Hồng
Từ thưở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long
- Phạm Thế Định -
Hay những câu thơ kín đáo, hoài cổ:
Dấu xưa, xe ngựa, hồn thu thảo
Nền cũ, lâu đài, bóng tịch dương
- Bà Huyện Thanh Quan -
Ở vào thời đó, văn chương nhiễm nặng hình ảnh Trung Hoa, ít có thành phố Việt Nam nào khắc được những dấu ấn riêng như Hà Nội trong văn học nước nhà. Sĩ phu Việt ta dễ cảm động với những hình ảnh ở xa như Bắc Kinh, Tô Châu, Xích Bích hay Cô Tô hơn.
Qua đến giai đoạn chữ quốc ngữ thịnh hành, thì Hà Nội nghiễm nhiên thành thủ đô văn hóa của Việt Nam. Văn Thạch Lam chở những cơn gió đầu mùa ở đây vào lòng người đọc, tùy bút Nguyễn Tuân tả những đêm Hà Nội chờ chiến, huyền ảo và rạo rực. Thơ Nguyễn Bính phủ làn sương lãng mạn vào mùa thu Hà Nội, khóc người trinh nữ: Hà Nội, ba mươi sáu phố phường...
Sau này, một trong những thiên tài về lãnh vực sáng tác nhạc của Việt Nam, Cung Tiến, vô tình hay cố ý, đã gói được vào trong một bài nhạc valse nho nhỏ, dễ thương, hình ảnh một buổi chiều thu Hà Nội, có lá vàng rơi, có sự cô đơn, cô độc, có một chút hoài cảm, có tâm sự của một chàng trai mới lớn.
Rồi thì đến lúc Hà Nội lên đường nhập cuộc vào cuộc chiến tranh kháng Pháp. Trong khoảng 9 năm, 1945-1954, Có rất nhiều bài thơ, bài nhạc trực tiếp hoặc gián tiếp dành cho Hà Nội. Những hình ảnh của Hà Nội đã được gói nhiều trong lòng những người đi kháng chiến:
Ðêm nhớ Hà Nội dáng kiều thơm
- Quang Dũng -
hay:
Hà Nội bây giờ có đẹp không
Có còn những khóe mắt xanh trong
Có còn những buổi bình minh dậy
Cô gái bên song thẹn má hồng...
- Phạm Thế Định -
Sau đó, cuộc di cư vĩ đại đầu tiên trong lịch sử nước Việt đã đưa khoảng một triệu người Bắc vào Nam. Những chiếc tàu há mõm làm con thoi, đổ những con người của nửa mảnh hình hài đất Việt, bên ni vào nửa bên n Ðàng ngoài vào tới đàng trong. Chia tay đưa đến khóc lóc, nhớ thương. Hà Nội biến thành "Hà Nội trong lòng người đi". Mai Thảo trong nhóm Sáng Tạo viết "Ðêm giã từ Hà Nội". Vũ Bằng tiếc thương những món ăn Hà Nội. Nhạc Hoàng Dương qua bài "Hướng về Hà Nội" đem cả tiếng guốc Hà Nội vào lòng người nghe, sau khi đã tả dáng huyền Hà Nội, liễu Hà Nội, nước hồ Hà Nội.
Cuộc chiến tranh đau buồn nhất của phận dân Việt đã tặng cho Hà Nội vài cái áo thời thế. Có người thì hát "Hà Nội ấy, niềm tin yêu hy vọng..." (tác giả). Có người khác lại ca "Tôi xa Hà Nội, năm lên mười tám, khi vừa biết yêu..."(Anh Bằng). Hoặc "Lìa xa thành đô yêu dấu..." (Vũ Thành). Lịch sử mai sau sẽ còn phải để nhiều trang cho giai đoạn này.
Vào những năm đầu 70, sau hòa đàm Ba Lê, những người di cư có dịp nhìn lại những hình ảnh của Hà Nội, qua quyển sách của Phạm Huấn và những bài viết của Dương Phục, hai quân nhân miền Nam theo đoàn công tác về Hà Nội.
Hà Nội trong lòng những người trẻ lớn lên tại miền Nam, dù là gốc Bắc, Trung, hay Nam, đều mang nhiều tính chất huyền thoại, lãng mạn hơn là thực tế. Hà Nội được họa bằng nhạc "Mưa hoàng hôn, trên thành phố buồn gió heo may vào hồn..." hay bằng thơ, trong đó người tình nam muốn "... đưa em đến công viên, nơi anh sẽ hôn em đắm đuối" để tưởng tượng "hay nửa đêm Hà Nội..." (Thanh Tâm Tuyền).
Cuộc di cư vĩ đại thứ hai lột đi hồn lãng mạn. Thực tế hơn, văn chương Việt viết về Hà Nội từ hải ngoại, cố gắng chỉ ghi nhận những hình ảnh hay kỷ niệm. Trong hồi ký Phạm Duy viết về giai đoạn ấu thơ, Tạ Tỵ viết về những người bạn văn nghệ, Hà Nội vẫn còn đó, nhưng vẻ nồng nàn không thấy nữa. Như một kỷ niệm đóng khung hoàn toàn. Không còn ai muốn đập nó ra để tìm lấy bóng, hay xếp nó lại để dành hơi. Cho đến loạt bài viết rất sắc cạnh gần đây của Phan Thiết với tựa "45 ngày thăm VN Xã Hội Chủ Nghĩa không Chủ Nghĩa Xã Hội" đăng trong tờ Văn Nghệ Tiền Phong, thì Hà Nội đã bị lột trần dưới ngòi bút của tác giả, một người gốc Bắc. Mà theo ông, chỉ muốn ghi lại một cách trung thực những điều tận mắt thấy, như một ống kính của 1 máy chụp hình. Cái trí t rong lúc này đã hoàn toàn chủ động. Trong loạt bài viết này, một số người Hà Nội có những hành động không được thanh lịch gì cả, như chửi thề, buôn bản không nghiêm chỉnh; thậm chí "ống máy chụp hình" của ông Phan Thiết còn ghi lại cảnh đàn bà "đứng" đái đường.
Những hình ảnh về Hà Nội đã ghi trong trí tôi, dần dần trở về như một cuốn băng video quay lại. Tôi nằm gối đầu trên tay chờ sáng. Ngày mai tôi sẽ được thấy nét sinh hoạt của Hà Nội bằng chính mắt của mình. Tôi biết rằng sự ghi nhận này, vì chỉ trong một thời gian ngắn ngủi và bận rộn, sẽ rất phiến diện và vội vẩ Tuy nhiên tôi muốn làm sao ghi lại được thật nhiều dữ kiện để làm giầu kiến thức, và có dịp sẽ kể lại để trình bầy cùng dư luận, như một quà tặng của tâm hồn. Cái lạnh se se của đêm Hà Nội dẫn tôi dần vào giấc ngủ không ch
oOo
Hà Nội bước vào ngày không bằng những tiếng động cơ xe như ở những thành phố lớn Tây phương. Khoảng 6 giờ sáng, tôi bị nhẹ nhàng đánh thức bởi vài tiếng rao hàng lẻ tẻ đến từ nhiều góc phố, như những chiếc chìa mở dần làn sương mai, đi vào cuộc đời làm việc. Nhiệt độ khoảng 23 độ C. Tôi để nguyên quần áo ngủ đi tới cửa sổ phòng, nhìn xuống những căn nhà phía dưới.
Những mái ngói của những căn nhà khu tôi thấy đã bị hư hại rất nhiều. Những hiên sau nhà phần đông để lộ thiên với tường gạch đổ nát. Tôi thấy ngay là Hà Nội đang cần 1 sự tu bổ cấp thời. Tuy vậy vẻ khả ái của thành phố này quả nhiên có thật. Hà Nội có 1 đặc tính rõ rệt mà các thành phố lớn như Tokyo, Hồng Kông, Melbourne không có. Chỉ cần ngắm từ 1 góc cạnh nhỏ nhặt từ đây, tôi đã thấy ngay là Hà Nội đang đập nhịp tim của sự sống.
Trên bước đường lưu lạc, tôi rất ít khi có được cái cảm tưởng như vậy. Paris đã cho tôi cái cảm giác đó khi bước dọc theo bến sông Seine vào buổi chiều, hoặc len lỏi dạo chơi trong "quartier Latin" vào những buổi tối chớm đông. Có lẽ đây là một cảm nhận rất chủ quan hay chăng, tôi thấy rằng Paris và Hà Nội là 2 thành phố hiếm hoi có linh hồn.
Cái linh hồn ấy có thể đã đến từ sự cổ kính hay chăng? Có lẽ nhưng không đủ vì tôi đã qua Lyon, Genève, Marseille, Montpelier và ở đó có rât nhiều khu phố cổ. Hay đến từ sự sang trọng, giầu sang? Chắc là không vì Hà Nội rất nghèo. Tôi cho rằng linh hồn của 1 thành phố phải là sự kết hợp của sự cổ kính, những tâm hồn yêu văn hóa và 1 cái gì đó mà tôi không thể giải thích được.
Phố phường Hà Nội vào năm 1994 chứng kiến 1 cơn sốt văn hóa rất rõ rệt. Một phần Hà Nội còn đang ngủ trong 1 giấc quá lâu. Phần đông những căn nhà đều giữ nét của hơn 50 năm về trước. Những khu chợ lộ thiên, chật hẹp với những xập hàng thịt, hàng rau, hàng gà sống... Không có 1 nét nào của nền văn minh công nghệ. Tất cả đều còn nằm trong dạng thủ công. Những hàng quà sáng, khách ngồi xộp để ăn hay mua mang đi, đầy mọi ngả đường. Không thiếu thứ gì, từ khoai, xôi, trứng luộc cho đến cháo, phở, tiết canh... Những người bán và kẻ mua đều xuề xòa, lững thững.
Bên cạnh đó, một Hà Nội khác đang gắng sức tu bổ để đón khách ngoại quốc. Những căn nhà to lớn được xây lên để cho mướn. Những khách sạn có những người gác cổng, chờ xe khách đến hoặc về, ra mở cửa. Một vài tiệm bán tủ lạnh, căn nhà rất cũ kỹ nhưng chứa cả 20 cái tủ lạnh mới toanh. Ông bạn Úc tôi còn ngạc nhiên với sự thay đổi mau chóng, so với lần ông đến đây vào 3 tháng trước.
Ông bạn Úc và tôi hỏi thăm em T. để đi thăm 36 phố phường, em ngớ ra vì không hiểu. Tôi mở bản đồ và tìm thấy ngay 1 khu trên đó toàn là những con đường mang tên những nghề nghiệp. Tất cả khoảng 43 phố mang tên phường nghề: Nghe rợn nhất là phố hàng hòm, ngọt nhất là phố hàng đường. Những khu phố đó ngày xưa chắc hẳn bán riêng một loại hàng nào đó. Bây giờ thì bán tùm lum cả.
Tôi thấy đáng tiếc, vì nếu mà giữ được những truyền thống đó, thì đây sẽ là nơi khách du lịch muốn đến để nghiên cứu cách tổ chức xã hội của người nước ta. Biết đâu chả là một trong những khu Supermarket đầu tiên trên thế giới.
Cái tuyệt của thuyết tiến hóa, là bảo tồn được cái cổ mà vẫn tiếp cận được cái tân. Công gìn giữ phải rất là quan trọng, khó khăn và đòi hỏi những cố gắng đều đặn. Nhưng ở một quốc gia mà chinh chiến là một ám ảnh không rời trong hơn cả trăm năm thì hậu quả là đây.
Trong khi đi thăm những thắng cảnh nổi tiếng như đền Quan Thánh (đời Lý, thế kỷ 11), chùa Ngọc Sơn (thời Trần, thế kỷ 13), Quốc Tử Giám (đời Lý, thế kỷ 11), tôi đi chung với ông bạn Úc. Thấy ông ta cứ im lặng mà ngắm, không phê bình khen, chê gì cầ Tôi hỏi ông thích Sài Gòn hay Hà Nội. Ông ta trả lời là ông thích Hà Nội hơn, vì ở đây có một tính chất rất đặc thù. Tuy vậy, tôi không thấy ông năng nổ mua hàng như ngày chúng tôi ở bên Hồng Kông. Tôi hiểu thầm là người ta đâu có mua hàng ở 1 viện Bảo Tàng bao gi Văn hóa và đồ dùng thường không bán cùng chung chỗ.
Trong những lúc chúng tôi có được tý thì giờ đi thăm thành phố, tôi có nhận xét rằng Hà Nội rất ít khách du lịch. Thỉnh thoảng 1 vài toán du khách Pháp, có lẽ muốn tìm lại dư hương của 1 thời vàng son cũ, đi chỉ chỏ, bàn tán. Ở sân Văn Miếu, nơi có những mộ bia Tiến Sỹ Việt Nam, tôi có nghe họ than phiền với nhau là Pháp đã mất quá nhiều ảnh hưởng văn hóa ở đây. Một bà trong đám trả lời "Dĩ nhiên rồi, chúng mình đối với dân tộc họ như kít vậy...".
(Tôi có nói chuyện với họ 1 lúc, nhưng không dám làm phiền, dài dòng ở đây)
Sau này tôi có nghe một số người dân than phiền về thái độ hống hách của những du khách Pháp khi đến đây. Có một người Pháp đã làm tình, làm tội một người hầu bàn, hết kêu món này, lại đổi món khác, cả chục lần. Sau khi ăn xong còn không chịu trả tiền, bị người hầu bàn nằn nì đòi, hắn ta nhét một nắm tiền vào mồm người hầu bàn Việt Nam khốn nạn rồi đi ra. Ở một phần đất nào đó của Việt Nam mang tên Ðiện Biên Phủ, một vài toán đang tổ chức đón một số Pháp kiều khác tới du lịch, không biết ở đó, họ đối xử với đồng bào minh ra sao?
Vì muốn đi thăm những khu phố bình thường ở Hà Nội, tôi nhờ 1 anh bạn chuyên gia, tốt nghiệp Ðại học Bách Khoa chở Honda đi lăng quăng, anh chở tôi đi chơi trong những khu chật hẹp của 36 phố phường, tôi tiếc thầm trong bụng đã không nhớ số nhà của nhạc sĩ Phạm Duy, hay của học giả Nguyễn Hiến Lê để ghé nhìn thăm. Tuy nhiên, tôi cũng cố gắng ghi những hình ảnh của phố phường mà họa sĩ Bùi Xuân Phái đã thiết tha ghi lại trong những họa phẩm của ông.
Ði ngang qua hồ Hoàn Kiếm, anh bạn nói "Trước đây, tháp rùa ở giữa hồ phủ rêu phong coi cổ kính lắm, nay mới quét vôi lại, coi mất đi vẻ ngày xưa". Tôi không trả lời vì đang nghĩ đến những công trình kiến tạo khác, rồi thì Hà Nội cũng sẽ được tu chỉnh. Những hệ thống đường hầm xe điện, ống cống thoát nước, hệ thống lọc nước, vệ sinh thành phố sẽ phải được thiết kế. Ðương nhiên là người ta không thể chấp nhận là thủ đô của Việt Nam vẫn còn xài hệ thống thùng phân mà những người phu phải đến đổ đi. Ðương nhiên là người ta khó có thể tiếp tục chen chúc sống cả chục gia đình trong những căn nhà hôi hám, hư hại. Tôi rùng mình khi nghĩ đến Hà Nội và Hồng Kông chỉ cách hơn 1 giờ bay. Nhưng cả nửa thế kỷ khác biệt về kỹ thuật. Năm 1997, 3 năm nữa thôi, Trung Hoa Lục Ðịa sẽ tiếp thu lại Hồng Kông.
Anh bạn chở tôi đi rất chịu khó nghiên cứu về sử, anh chỉ cho tôi những di tích tuyệt vời như bức tường thành cổ Hà Nội, nơi còn dấu đại bác của quân Pháp, những lỗ châu mai đã bị bít, những khu phố mà các tướng lãnh, hoặc những cán bộ cao cấp đang ở. Những dinh thự thời Pháp để lại. Chúng tôi đi băng qua nhà các ông ấy, kín cổng, cao tường nhưng không có lính gác. Tôi thắc mắc hỏi, thì anh bạn trả lời là lính họ đóng phía trong. Mở cổng ra là biết liền.
Chúng tôi đi thăm cầu Long Biên, đường Yên Phụ rồi chạy dọc theo Hồ Tây, chung quanh hồ có nhiều quán cà phê vườn, như những cái chòi trong vườn để nam, nữ vào uống nước tình tự, rất nghèo nhưng có vẻ nên thơ. Khu này có rất nhiều khách sạn mới lập dành cho người giầu và du khách ngoại quốc như khách sạn Thắng Lợi, khách sạn Tây Hồ.
Người Hà Nội rất mê ông Lý Quang Diệu, hay giấc mơ mà ông ấy đã tả cho hỗ Một Singapore thứ hai, tôi nhớ ngày xưa thưở còn đi du học ở Nhật, phe ta học giỏi hơn mấy chàng Tân Gia Ba nhiều. Bây giờ thì cả nước chậm lụt hơn họ cả mấy mươi năm. Bạn cũ người Tân Gia Ba của tôi ơi, tôi đang ngồi sau 1 chiếc Honda, bạn đang lái xe gì hở bạn?
Tôi còn được may mắn, vào một dịp khác ghé thăm đền Hai Bà gần phố 336. Các em bé chạy tới xem tôi chụp hình, 1 em nói "Chú vào trong sân mà chụp, đẹp hơn". Tôi nghe lời em, nhưng sui cho tôi khi ra phi trường tôi để 2 cuộn phim đã chụp trong valise, khi qua máy kiểm soát bị hư cả.
Nhưng may mắn thay, tôi còn giữ lại mùi thơm và vị đắng của tách trà sen Hà Nội, được mời uống chung với người chủ quán, một giáo viên rất trí thức. Chúng tôi nói chuyện trao đổi rất ít, chỉ im lặng mà thưởng thức. Nhìn anh và người bạn chuyên gia chậm rãi uống trà, tôi suy nghĩ về chuyến bay vài ngày nữa về lại Úc. Tôi sẽ mua mang theo cốm thơm và trà Thái, tôi sẽ mời vài người bạn thân đến nhà, cung kính và thân tình mời nếm những món quà ở đây. Quà của một quê hương, trời ơi xa quá!
Phạm Thế Ðịnh
Căn Nhà Ma
Có nhiều người, như bà chị của tôi chẳng hạn, rất sợ ma mà lại thích xem phim kinh dị, nghe kể chuyện ma. Thậm chí cho đến sau này, qua Mỹ và có gia đình rồi cái tính chết nhát vẫn còn tồn tại trong bả, và dĩ nhiên là bả vẫn ghiền nghe kể chuyện ma. Sống ở vùng Nam Cali, bà chị tôi có dịp được nghe Thanh Toàn, con trai ca sĩ Nhật Trường, đọc truyện ma trên đài phát thanh vào lúc nửa đêm mỗi chủ nhật. Ông anh rể tôi cứ than phiền là mỗi lần như vậy là ổng lại bị đánh thức dậy vào lúc nửa đêm về sáng để dắt bà chị sợ ma của tôi đi tiểu.
Bản thân tôi, tôi từng không tin mấy chuyện ma quỷ nhảm nhí. Hồi còn bé, tôi thường bị mấy bà chị xách đầu ra nghĩa địa để coi mấy chị chơi trò cầu cơ. Mấy chị tôi nghe người ta nói là phải ra ngoài nghĩa địa cầu cơ thì nó mới linh thiêng. Nhưng đi một mình thì mấy bả sợ, phải dắt theo tôi, chẳng cần biết một thằng bé con hỉ mủi chưa sạch như tôi làm sao chống cự lại được mấy con ma! Nhưng rồi lần nào mấy bả đi cầu cơ cũng đều thất bại. Cho đến một hôm, bà chị cả đổ thừa cho tôi:
- Tại thằng Lý này chứ không ai hết. Có lẽ tại nó cao bóng vía nên ma, quỷ, thần, thánh không thèm nhập.
Nghe vậy tôi đâm giận và vùng vằng bỏ về. Tôi đinh ninh mấy bả phải chạy theo tôi năn nỉ, nhưng ô hay sao họ vẫn ngồi lì ở nghĩa địa không thèm về. Tôi nghĩ có lẽ hôm nay có thêm chị bạn học tháp tùng nên hai bà chị của tôi dạn hơn mọi khi, và mấy bả đã quyết định cho tôi ra rìa. Từ giận tôi đâm ra thù, và tôi tìm cách trả thù. Tôi về nhà rủ thằng Tèo bạn hàng xóm trở ra nghĩa địa để nhát ma mấy bả.
Hai thằng tôi, mỗi thằng trang bị một chiếc drap trắng đục lủng hai cái lổ nhỏ chừa hai con mắt. Ðến nghĩa trang, tụi tôi trùm kín từ đầu đến chân, chia ra mỗi thằng một góc, nhảy tưng tưng từ nấm mộ này qua nấm mộ khác, vừa nhảy vừa cất lên những tiếng tru dài.
Ba tiếng "Á" cất lên nghe kinh tâm khiếp đảm phát ra từ ba cái miệng con gái. Hét xong họ đá văng bàn cơ, bỏ của chạy lấy người. Tôi nhìn kỹ thì thấy đó là hai bà chị yêu dấu của mình và cô bạn học của họ đang chạy trối chết. Tôi thích chí dí theo họ một đoạn dài, vừa chạy vừa ôm bụng cười.
Qua một đêm phá phách mệt đừ, tôi ngủ thẳng cẳng một giấc cho đến sáng. Tờ mờ sáng hôm sau, vừa mới mở mắt ra là thấy hai bà chị của tôi đang nhìn tôi trừng trừng. Trên tay bà chị cả là tấm drap màu trắng có 2 lổ thủng nhỏ; tấm drap mà tôi ném vào nhà bếp tối hôm qua chưa kịp giấu đi. Sau đó là tôi bị hai bà chị yêu dấu đè ra cú vô đầu cho chừa cái tật nhát ma.
Nhưng rồi vẫn chứng nào tật nấy, tôi vẫn thỉnh thoảng giả ma đi nhát mấy bà chị yếu bóng vía của mình. Làm riết đâm ra ghiền, thét rồi nó trở thành cái thú của tôi. Khi thì nấp trong mấy hàng dây treo quần áo, chờ lúc mấy bà chị đêm khuya ra treo quần áo ướt, tôi đội mền nhảy ra nhát. Khi thì treo lủng lẳng trên cành cây, cóng cỗ lên mà tru tréo, đợi mấy bả đi học thêm về khuya. Lần nào cũng vậy, cũng đều có kết quả, mấy chị đều sợ điếng người, mấy chị càng sợ thì tôi càng ôm bụng lăn ra mà cười. Ðây mới đúng là vui sướng trên sự đau khổ của kẻ khác.
Thời gian thắm thoát thoi đưa. Tuổi thơ rồi cũng qua đi. Những kỷ niệm vui tươi hồn nhiên thuở nhỏ bây giờ chỉ còn là cuốn phim dĩ vãng. Cho đến hôm nay, chị em chúng tôi ai cũng đã yên bề gia thất, thỉnh thoảng chúng tôi điện thoại cho nhau và nhắc lại chuyện xưa để cùng nhau cười. Tôi cứ ngỡ là bà chị của tôi đã trưởng thành thì tất nhiên là mấy chuyện ma cỏ không còn áp phê gì đối với chị, nhưng tôi đã lầm. Như đã kể ở trên, chỉ có nghe đọc truyện ma trên đài phát thanh không thôi cũng đủ làm chị phải đánh thức chồng dậy, bắt dẫn đi tiểu.
oOo
Ðọc đến đây chắc các bạn nghĩ rằng tôi không tin có sự hiện hữu của thế giới huyền bí, bởi vì tôi cứ lập đi lập lại mấy chữ ma cỏ, nhảm nhí. Tôi còn tự cho mình là người cao bóng vía, còn dám giả ma đi nhát người khác. Chắc hẳn các bạn sẽ nghĩ là tôi không tin là trên đời này có ma. Nghĩ thế thì các bạn lầm. Sự thật thì tôi chỉ tin những gì chính mắt mình thấy. Chuyện ma cỏ thì tôi chỉ nghe kể thôi mà chưa thấy bao giờ. Và cuối cùng rồi thì tôi cũng phải tin.
Câu chuyện xảy ra đã gần 20 năm, bây giờ nghĩ lại tôi còn thấy gai ốc nổi khắp người. Ðó là những năm đầu sau ngày miền Nam được giải phóng, lúc tôi vừa tốt nghiệp phổ thông và thi đậu vào trường đại học Ðà Lạt, ngành nguyên tử học. Trong khoảng thời gian này, khi miền Nam vừa đổi chủ, còn được tiếp tục trên con đường học vấn là cả một vấn đề, cho nên bằng bất cứ giá nào bố mẹ tôi cũng phải cố gắng gửi tôi về Ðà Lạt. Thế là đầu năm 1977 tôi khăn gói quả mướp, thu xếp hành trang để tìm đến với Ðồi Thông hai Mộ, Thác Cam Ly, Hồ Than Thở, Ðồi Cù và nhiều danh lam thắng cảnh khác của Thành Phố Mộng Mơ này.
Vì điều kiện kinh tế eo hẹp lúc bấy giờ nên sinh viên bọn tôi phải thuê lại những biệt thự ngoại trú và cùng nhau chia tiền nhà. Căn villa bọn tôi chung sống là một tòa nhà 4 phòng rộng rãi, nằm ở ngoại ô Ðà Lạt. Không ai trong nhóm 7 thằng con trai bọn tôi biết rõ chủ cũ của căn biệt thự này là ai. Bọn tôi chỉ biết tháng tháng nộp tiền cho một gã cán bộ, người mà bọn tôi đoán rằng là chủ mới của căn biệt thự này.
Dân chúng trong vùng kể lại rằng trong căn nhà này có ma, và gia đình của tên chủ mới của căn nhà này đã bị con ma này quấy phá phải bỏ của chạy lấy người. Gia đình gã buộc phải dọn ra một khu chung cư chật hẹp trong phố, và cho thuê lại để căn biệt thự rộng thênh thang này. Cũng theo lời dân trong vùng thì trước khi bọn tôi dọn đến đã có nhiều người đến đây thuê lại, nhưng chỉ được ba bảy hăm mốt ngày là phải cuốn gói ra đi. Bọn tôi, bảy thằng thanh niên ở tuổi mới lớn, nghe kể chuyện ma chỉ phì cười. Có thằng còn nói đùa:
- Ừa, tao đang muốn gặp ma đây, hy vọng là ma cái cho vui nhà vui cửa, chứ suốt ngày ra vô gặp mấy bản mặt đực rựa tụi bây nom mãi phát chán!
Riêng tôi, tôi nghĩ trong căn nhà này nếu có ma, gặp phải bảy thằng thanh niên ồn ào như bọn tôi chắc nó cũng phải dọn đi nơi khác. Rồi cho đến một đêm không trăng không sao. Hôm đó nhằm mùa hè, sau một mùa thi mệt mỏi, cả bọn kéo nhau ra vườn sau nhà nhậu nhẹt cho đến khuya. Lúc cả bọn lục đục kéo nhau vào nhà để đi ngủ, tôi kiểm lại thấy vắng mất một tên. Bọn tôi chia ra khắp các góc vườn tìm kiếm tên bạn bị mất tích. Chúng tôi vừa lục lọi vừa gọi tên của nó, nhưng chả thấy tăm hơi gì. Hơn nữa 6 thằng còn lại vừa mệt vừa say nên bọn tôi chỉ tìm qua loa cho có lệ mà thôi.
Cho đến sáng hôm sau, chúng tôi tìm thấy tên bạn bị mất tích đêm qua bị nhốt trong cái chuồng bò bỏ hoang, miệng thì bị nhét đầy đất sét. Chúng tôi hỏi thì nó trả lời là không biết ất giáp gì, lúc nó là ngà say mò ra gần cái chuồng đi tiểu thì còn đang trong trạng thái mê man bất tỉnh. Bọn tôi nghĩ là nó bày trò hù bạn bè, nhưng thằng bạn mang ông bà tổ tiên ra thề thốt là nó không hề có ý định chơi khăm bạn bế Bọn tôi nghe nó nói vậy thì chỉ còn nước là người này nghi ngờ người kia, một trong 5 người còn lại phải là kẻ ném đá giấu tay, vì không ai trong chúng tôi tin là có thằng bạn bán trời không mời thiên lôi kia bị ma bắt cóc, rủ nhậu đất sét.
Rồi vài tuần sau đó sau đó, lại một tên bạn khác đinh ninh là chính nó thấy có một bóng người, không rõ là già hay trẻ, ngồi chải tóc bên cửa sổ. Thằng bạn kể lại là đêm hôm đó nó đi tiểu, lúc bước xuống cầu thang, đi ngang phòng khách để bước vào nhà vệ sinh, nó thấy có bóng người. Ánh trăng từ bên ngoài hắt vào đủ để cho nó thấy cái bóng đen hắt lên trên tường. Nó tưởng là có tên bạn nào đang ngồi suy tư trong bóng đêm nên đi giật lùi lại để nom cho rõ là ai. Nó nhìn chòng chọc vào cái bóng này, thấy rõ ràng là cái bóng của một người đàn bà, đang rung lên theo màn đêm, mái tóc thì xỏa dài chảy xuống tận sàn nhấ Nhìn đến đó tên bạn của tôi kinh hồn vắt giò lên cỗ, chạy thẳng một mạch lên cầu thang, trở lại phòng ngủ, quên cả việc giải quyết ứ đọng, mà thật ra thì nó cũng chẳng cần phải đi tiểu sau khi đó vì nó sợ quá đã vãi đái ra quần.
Càng ngày càng có nhiều người trong nhóm chúng tôi tin là trong căn nhà này có ma. Anh em kể lại là họ nghe rõ có tiếng khóc sụt sùi giữa những đêm khuya thanh vắng, giọng đàn bà nức nở. Có nhiều người trong bọn chưa thấy, nhưng chỉ nghe bạn bè kể không thôi cũng đâm hoang mang. Chỉ riêng có Toán, tên bạn cùng phòng, và tôi chưa tin là trong nhà này có ma, vì có thấy đâu mà tin. Toán kể cho tôi nghe thỉnh thoảng hắn cũng có nghe tiếng khóc, nhưng hắn nghĩ là mấy thằng bạn trong nhà giả giọng nhát mấy người yếu bóng vía. Riêng tôi, tôi thuộc loại người ngủ rất say, đặt lưng xuống là tôi đánh vèo một giấc đến sáng. Cho nên ma quỷ có khóc có hờn gì tôi cũng coi như pha.
Cho đến một hôm, vào lúc không giờ, tôi bị Toán đánh thức dậy. Ðang lúc ngủ say, tôi đâm cáu, định mắng nó một trận nên thân, nhưng nhìn thấy bản mặt của nó lúc đó tôi tỉnh giấc ngay. Cho đến bây giờ tôi còn có thể chưa quên được cái khuôn mặt đó, cái khuôn mặt thất hồn, hay nói đúng hơn là bị hớp hồn. Tôi choàng người dậy, mở công-tắc đèn. Toán vẫn run lên từng cơn bần bật, miệng ú ớ không nói thành lời. Tôi lay mạnh vai thằng bạn, và văng tục:
- ÐM mày thằng khốn, làm gì mà run như cầy sấy vậy? Làm như bị ma nhát không bằng!
Rồi tôi thầm nghĩ dám thằng này bị ma nhát thật. Ý nghĩ này chỉ thoáng qua đầu trong thoáng chốc rồi phựt tắt. Xưa nay tôi vẫn nghĩ là Toán thuộc người cao bóng vía, và cũng như tôi, Toán không tin là có ma trên cõi đời này. Hay là nó đang bày trò nhát ma mình?
Thằng bạn cùng phòng của tôi vẫn mặt không một cắt máu, hơi thở dồn dập như lực sĩ điền kinh vừa mới về đến đích. Tôi tát mạnh vào mặt nô Ðôi mắt của Toán từ từ có hồn trở lại. Miệng nó ấp a ấp úng:
- Tao vừa thấy... ma, Lý ạ!
- Giỡn chơi hoài mậy! Ừ, thì tin là mày thấy đi, kể cho tao nghe xem con ma nó dài ngắn ra sao?
Toán lắc đầu mấy cái liên tiếp, miệng lẩm bẩm:
- Tao không tin là tao nhìn gà hóa cuốc.
Vừa lúc đó 6 tên bạn khác cùng nhà đổ xô vào căn phòng ngủ của 2 đứa tôi. Tụi nó tra hỏi:
- Thằng Toán hồi nãy làm gì mà la ré lên như heo bị cắt tiết vậy?
Tôi trả lời thay cho Toán:
- Nó vừa thấy ma.
Rồi tôi pha trò nói tiếp:
- Một thứ ma men, đi đến đâu là bia rượu cạn đến đô
Toán bây giờ đã hoàn hồn, chậm rãi kể:
- Hồi nãy khát nước tao mò xuống nhà bếp để rót nước uống. Khi từ nhà bếp trở lên thì thấy một bóng người đàn bà ngồi lù lù chắn lối đi ở mấy bậc tam cấp...
Một thằng bạn khác đâm ngang:
- Mày có nhìn thấy rõ mặt mũi của bả không?
Toán nhíu mày hồi nhớ:
- Tao không rõ lắm, chỉ thấy một cái bóng trắng toát, tóc dài chấm đất. Lúc đó tao bị chết trân nên không tập trung để nhìn cho rổ Tao hãi quá, rú lên một tiếng, vừa mở công-tắc đèn thì thấy nó biến mất...
Toán kể xong, thò tay vô túi móc thuốc ra đốt. Bàn tay của nó run cầm cập thấy rõ, đánh lửa mãi không được. Thằng bạn đứng bên cạnh phải móc túi tìm diêm quẹt đánh lửa dùm cho nó.
Tôi bĩu môi, không tin những gì mình nghe nãy giờ. Tôi nghĩ rằng chắc một trong mấy thằng còn lại giả ma nhát bạn bè. Tôi còn lạ gì cái trò nhát ma hù thiên hạ, vì chính tôi cũng từng là kẻ đóng vai trò này. Tôi vẫn nghĩ rằng ở thời đại nguyên tử này làm gì có chuyện ma quái. Có lẽ là tôi sẽ vẫn giữ mãi ý nghĩ cổ hữu ấy, nếu mà không có câu chuyện sau đây. Câu chuyện xảy ra đã gần 20 năm, bây giờ mỗi lần nhớ lại mà tôi còn cảm thấy lạnh xương sống.
Ðêm hôm đó, sau một kỳ thi căng thẳng, mấy đứa bạn rủ nhau đi coi chớp bóng. Ở cái thành phố cao nguyên đèo heo hút gió này tìm ra mục giải trí là chuyện không phải dễ, vì thế hễ rảnh rỗi là cả bọn kéo nhau đi coi phim màn ảnh đại vĩ tuyến. Ðêm đó tôi mệt, vì đã phải thức suốt trắng đêm hôm trước học thi, nên quyết định ở nhà một mình. Ðêm hôm đó tôi giăng mùng đi ngủ sớm.
Tôi chìm vào giấc điệp dễ dàng vì bị thiếu ngủ mấy hôm liên tiếp. Ðến khoảng nửa đêm, tôi cảm thấy có một luồng gió lạnh toát từ ngoài hắt vào, làm như có người vừa vén mùng chui vào. Tôi nghĩ là thằng Toán mới đi coi phim về. Tôi hỏi, trong lúc mắt vẫn còn nhắm:
- Sao về sớm vậy mậy? Bộ phim ẹ lắm hả?
Tôi không nghe tiếng trả lời, thay vào đó là tiếng thở khò khè và tiếng sụt sùi nức nở, giọng con gái rõ ràng. Tôi nghĩ là thằng Toán hay thằng bạn nào đó đang phá mình. Tôi bực mình văng tục:
- ÐM mày, cút đi chỗ khác cho ông ngủ.
Lần này có tiếng người:
- Trả lại nhà cho tôi.
Giọng đàn bà rõ ràng. Tôi khen thầm thằng nào giả giọng hay thật. Tôi nghĩ mình càng tỏ ra tức giận, chửi bới lung tung thì bọn nó sẽ càng khoái chí mà phá tiếp nên tôi làm mặt lì, quay mặt vô trong vách ngủ tiếp.
Rồi sau đó, có một bàn tay lạnh như nước đá đặt lên vai tôi lay mạnh. Cái hơi lạnh kỳ lạ khó tả, chuyền nhanh vào cơ thể, chạy dọc theo xương sống, làm tôi rùng mình mấy cái. Ðến nước này thì tôi chịu hết nỗi rồi, tôi gằn giọng:
- ÐM thằng này giỡn dai, tao đạp cho một phát lọt xuống giường bây giờ!
Tôi vừa nói vừa quay qua, thì... hỡi ôi!
Trước mắt tôi là một cái bóng trắng toát. Cái bóng lờ mờ không rõ nét nhưng cũng đủ để cho tôi nhận ra đây là một cái bóng đàn bà; thân thể gầy đét trơ xương, tóc dài chấm đất đúng y như lời mấy tên bạn cùng nhà thường hay tả lại. Tôi nhìn kỹ hơn nữa để xem cho rõ có phải là mấy tên bạn giả ma nhát mình hay không, và tôi tìm ra câu trả lời là không. Cái bóng "ma" này không khác nào một làn sương khói mong manh, và tôi có thể nhìn xuyên qua nó. Theo bản năng tự vệ tôi vùng dậy, nhào về hướng cái bóng này, đạp mạnh.
Tôi cảm thấy bị hụt hẫng. Tôi nhận ra rằng là tôi vừa lọt xuống đất. Tôi quay lại nhìn về phía chiếc giường đi-văng. Bên trong tấm mùng có một bóng đen rọi lên trên tường. Bóng đen hất mái tóc dài về phía sau lưng, ngửa cỗ ra cười vang lên ha hầ Tràng âm thanh kỳ quái mà tôi chưa từng nghe qua trong đời, thứ âm thanh dài và chua, nghe đinh tai nhức óc, thứ âm thanh mà tôi đoán là đến từ cõi âm.
Tôi bịt hai tai, tung cửa phòng chạy nhanh xuống cầu thang. Trong giây phút hốt hoảng, tôi sơ ý bị trượt cầu thang, lăn cù mèo mấy vòng trên mấy bực tam cấp, cuối cùng đập đầu xuống đất và rơi vào trạng thái mê man bất tỉnh.
Lúc tôi tỉnh dậy thì mấy người bạn cùng phòng đã đi xem chớp bóng về. Tôi đưa tay sờ lên trên trán thấy có một cục u rất to. Tụi bạn hỏi chuyện gì đã xảy ra, chúng nó về thì thấy tôi nằm sóng soài dưới chân cầu thang. Tôi nói chửa thẹn:
- Tao bị trượt chân té!
Tôi nói dối bạn bè, một phần vì xưa nay tôi từng tuyên bố với chúng nó là tôi không bao giờ tin là có ma trên đời này, một phần vì ngay giây phút đó tôi chưa hoàn hồn, tôi chưa tin ở mắt của mình được. Tuần lễ sau, chúng tôi dọn ra khỏi căn nhà ma này.
Bây giờ, nếu có ai hỏi tôi:
- Bạn có tin là có ma trên đời này không?
Tôi sẽ trả lời, không một chút hoài nghi:
- Có, tôi rất tin!
Vì chính tôi đã nhìn thấy.
Bùi Thanh Liêm
Halloween 1996