vhnt, số 115
13 December 1995
Trong số này:
thư vhnt
T H Ơ
1 - Café.................................................Cỏ Nhớ / Lộc Quy
2 - Ký Ức...............................................Chinh
3 - Bài Thơ Không Tên & Vô Đề............Hạt Cát / Tran M Hùng gửi
4 - Tôi Có Một Thằng Bạn.....................Phan Lê Dũng
5 - Thăm Thầy Tịnh Từ.........................Doãn Mạnh Tiến
6 - Thu Mơ.............................................Hoàng Hoa / Tuyết Phương Nguyễn
B I Ê N L U Ậ N
7 - Tìm hiểu thơ Haiku Nhật Bản (phần 3)...Nhật Chiêu
T R U Y Ệ N N G Ắ N
8 - Giới thiệu Milan Kundera: Chúa Ở Trong Lòng (đoạn 2)...Trịnh Ðình Tường dịch
13 tháng 12, 1995
Tháng chạp, mùa thương, mùa an bình, mùa hy vọng. Trong không khí rộn rã, rực rỡ nhiều mầu sắc của những ngày áp lễ, người ta nghĩ đến nhau không chỉ bởi những món quà và những tấm thiệp chúc Noel xinh xắn, mà nghĩ đến nhau bởi lòng quí mến, vì muốn chia sẻ một chút đầm ấm trong lòng, vì nhu cầu cho đi và nhận lãnh tình thương. Ðiều cần thiết này dường như nhân dịp lễ cuối năm mới có cơ hội bộc lộ Tình Thương dường như là một điều rất khó diễn tả.
Hôm qua tôi nhận được tấm thiệp từ một nơi rất lạ. Vỏn vẹn vài chữ 'còn nhớ tôi không?' và cái chữ ký mơ hồ gợi ra bao nhiêu là khuôn mặt. Ðiều mầu nhiệm của những giòng chữ, một câu nhắc nhở khiến tôi đã tự hỏi lòng rằng mình đã nhớ đủ và đã giữ đủ những mối thân tình?
Hẳn nhiên là tôi đã nhớ khi người ta hỏi 'còn nhớ tôi không?'. Tôi ngẩn ngơ. Phải chi tôi là người hỏi câu hỏi đó trước, để được trả lời rằng: Nhớ!
Cái tội của kẻ chậm chân là phải lục tìm trí nhớ, để rồi phải phân trần rằng tại thời gian chắp cánh và tại ngày xưa chẳng chịu ngừng lại và tại chúng ta cứ lớn mãi và tại không ai chỉ dạy làm thế nào nuôi dưỡng một tình thân. Ngày ấy chúng ta là những đứa bé thích rong chơi, tuổi thơ như những bọt bong bóng, đẹp nhưng dễ vỡ.
Sắp Giáng Sinh, cám ơn người bạn nhắc nhở, tôi mang sổ địa chỉ ra để viết những tấm thiệp Noel gửi đến những địa chỉ xa, để được nhanh tay hỏi trước câu hỏi 'còn nhớ tôi không?'
Sổ tay của bạn hẳn cũng có nhiều địa chỉ?
thân ái,
PCL/vhnt
Cafe
Tôi quenly cafe đắng
như mỗi lần đồng ẩm
vẫn quen
gởi em một lời khen
cô bé pha cafe thật tuyệt.
Em đi
thôi đành mộng
đồng ẩm tương giang thủy
tách cafe quen
sao đắng lòng
đắng lắm,
em.
Cỏ Nhớ
Ký Ức
Rũ bỏ ký ức. Ký ức người.
Thanh Tâm Tuyền
Ngửa bàn tay không
Mông lung chợt nhớ
Người ơi, tuyết trắng
Xô dạt tình xa
Ðất khách, bão gió
Dạt ngất hồn câm
Xoá trắng hư vô
Tình kia tiều tụy
Người ôm mây trắng
Cho đầy chiêm bao
Ta thả tình ta
Cho hết một thời
Ta như đám mây
Hoài mong cố quận
Tìm đâu nén nhang
Ðốt cháy kỷ niệm.
12.11.1995
Chinh
Thơ Hạt Cát, Nguyễn thị Diên diễn ngâm trong đêm "20 Năm Văn Thơ và Nghệ Thuật" tổ-chức tại Philadelphia đêm 28/10/1995. Thấy hay, tôi chép lại (từ tờ chương-trình) và xin gởi đến các bạn thơ của VHNT.
Thân ái,
Trần-Mạnh-Hùng
Bài Thơ Không Tên
Tuyết sương mùa cũ tan rồi
Em đem áo lụa khoác ngời vóc hoa
Ðường về bẽn lẽn chim ca
Gặp nhau đãi một chung trà ngát hương
Cầm tay ấm áp tà dương
Môi em nở một nụ hường thiết tha
Nhìn nhau khói phả la đà
Lòng anh mở sáng ngân hà tam thiên.
Vô Đề
Mênh mông mây trắng lưng trời
Cõi hiu quạnh nở nụ cười tháng năm
Hoa hồng thắm rộ đầy sân
Ngựa xe mờ mịt bụi trần thản nhiên
Nằm đưa võng ngủ ngoài hiên
Nghe chim ríu rít gọi duyên tình nồng
Tháng năm áo lụa nõn hồng
Hé trong hoa mọn tấc lòng hoài hương.
Hạt Cát
Tôi Có Một Thằng Bạn
Tôi có một thằng bạn
Bắn chết anh trong một trận càn
Bắn chết cha trong phút hoang mang
Bắn chết mẹ trong cơn điên loạn
Rồi ngày hòa bình đến
Bạn tôi qúa cô đơn
Chẳng còn ai để bắn
Một mình lên đồi vắng
Bắn mình trong cơn say.
Phan Lê Dũng
Thăm Thầy Tịnh Từ (1)
Ðường xa vượt núi ghé vào chơi
Ngày tắt, phương Tây rực đỏ rồi
Bóng tối thong-dong về vạn nẻo
Sương mù vần-vũ phủ muôn nơi
Kim-Sơn điện vắng, tìm vô bái
Phương-trượng người đâu, gửi mấy lời
Phận mỏng gian-lao nào đã gặp
Mới hay tương-ngộ có duyên Trời!
NTP
17Nov95
(1) Tu-viện Kim-Sơn, Watsonville, CA
Ở nơi nào khác, chắc trời đã vào đông, mưa lạnh hay tuyết rơi. Ở Cali, mùa thu đến muộn đang chậm rãi bước qua, tà áo vờn xôn xao những chiếc lá úa rơi vàng trên mặt đất. Gió lành lạnh, mưa đôi khi nhè nhẹ, nắng đôi khi thoang thoảng. Mùa thu dễ thương...
Thu Mơ
gió về qua khung cửa
vu vơ sợi tóc bay
và đôi mắt sầu mây
gọi mùa thu trải mộng
trên hàng mi khẽ động
gom lại chút sương tan
để nỗi nhớ mong manh
ngập ngừng vương khoé mắt
mưa mơ hồ tiếng hát
dìu dặt khúc tình thơ
để vài giọt ngẩn ngơ
lạc vào trong tim nhỏ
cổng vườn thu sẽ mở
xao xuyến bước chân ai
ngọn lá úa trên vai
nghiêng nỗi buồn ngây dại
giòng suối nào tuôn chảy
qua kẽ đá rêu xanh
những bọt nước long lanh
thơm mùa thu trái chín
giăng đầy trời tơ mịn
cho bát ngát cơn mơ
những cánh bướm ngu ngơ
say nụ vàng hoa cúc
mùa thu dài không dứt
những mộng ảo bâng khuâng
rung mãi tiếng tơ ngân
dù.. muà thu đã khuất...
Hoàng Hoa
Tìm Hiểu Thơ Haiku Nhật Bản
(phần 3)
3.
Nằm trên Thái Bình Dương, Nhật Bản ở gần lục địa để tiếp thu văn hóa Á châu, nhưng cũng ở xa đủ để tránh xâm lăng, kể cả xâm lăng văn hóa. Vì vậy, đối với văn minh Trung Quốc, Nhật Bản xưa n ay vừa hấp thụ vừa chối bỏ nó. Haiku xét về cội rễ không chịu ảnh hưởng của văn chương Trung Quốc. Nói thế không có nghĩa là không mang dấu vết gì từ văn hóa lục địa.
Mở đầu nhật ký du hành "Ðường lên phương Bắc" (Oku no Hosomichi) Bashô đã trích dẫn Lý Bạch: "Tháng ngày là khách du hành của thiên thu". Bashô cũng hay nhắc nhở tới những thắng cảnh Trung Quốc nổi t iếng mà ông chưa bao giờ nhìn thấy như sông Chiêng Giang, hồ Ðộng Ðình. Hay mượn cả hình ảnh người đẹp tiêu biểu Tây Thi để trình bày một cảnh Nhật Bản:
Vịnh Kisagata:
Nàng Tây Thi trong mưa nằm ngủ
Thấm ướt hoa mimosa.
Bởi vì nàng Tây Thi dù mắc mưa hay nhíu mày đều đẹp hơn người bình thường. Bài này chịu ảnh hưởng của bài "Hồ thượng ẩm" của Tô Ðông Pha:
Thủy quang liễu diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệu kỳ
Dục bả Tây hồ tỉ Tây tử
Ðạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
Nước lấp lánh nhảy múa - trong thời tiết tươi sáng, mới đẹp làm sao!
Cả trong mưa sương, núi non vẫn đẹp diệu kỳ
Có thể sánh Tây hồ với nàng Tây Thi
Dù trang điểm sơ sài hay trau chuốt đều đáng mê
Trong "Ðường Lên Phương Bắc" ta còn thấy Bashô nói tới màu sắc của gió: Trắng hơn đá trắng
Của ngôi Ðền Ðá
Là gió mùa thu
Mùa thu trong thi ca Trung Quốc đôi khi được gọi là "mùa thu trắng" (tố thu).
Bashô đôi khi dùng văn liệu Trung Quốc nhưng vẫn giữ được tinh thần của Haiku mà không bao giờ biến nó thành phiên bản của thơ Tống, thơ Ðưòng.
4.
Ðọc Haiku, ta luôn luôn bắt gặp các hình ảnh hoa đào, chim cu, trăng, tuyết, bùn, cỏ... Haiku luôn luôn gắn bó với thiên nhiên. Ở bài Haiku nào, ta cũng gặp những từ chỉ thời tiết và mùa.
Thời tiết và mùa là yếu tố rất quan trọng của thơ Haiku. Ai không từng cảm nghiệm sự thay đổi của thời tiết? Thậm chí niềm vui nỗi buồn của ta cũng phần nào chịu ảnh hưởng của mùa. Trong sự hình thành tính cách con người cũng như một nền văn hóa, khí hậu là một yếu tố đáng kể. Bầu trời trong sáng của Ðịa Trung Hải, sa mạc khô khan ở Ả Rập, mùa mưa ở Viễn Ðông... đều góp phần làm nên phong cách dân cư vùng đó. Theo Watsuji, có thể nói đến tính cách "bão tố" của dân tộc Nhật, tính cách có nhiều mâu thuẫn trong đường lối suy nghĩ và cảm xúc. Hình ảnh cây tre Nhật uốn mình dưới tuyết nói lên tính tổng hợp của khí hậu này, thì cũng cho thấy được những nghịch lý trong tâm hồn Nhật Bản.
Ðể giúp người đọc dễ liên hội với thiên nhiên, với cuộc sống cụ thể nhất chung quanh mình, các Haijin luôn đưa mùa vào thơ. Hầu như bài Haiku nào cũng chứa đựng một từ là tên mùa hay gợi lên d dược mùa mà bài thơ đang biểu hiện. Từ ấy gọi là từ mùa: Kigo.
Mùa xuân với tuyết đang tan,với chim Uguisu, là một loại họa mi Nhật, và đặc biệt là với hoa anh đào mà khi các Haijin nói hoa, ta có thể hiểu họ nói anh đào của mùa Xuân. Mùa Hạ với mưa tháng năm, đo m đóm hay những bông hoa anh túc. Mùa Thu với gió thu, với dòng sông Ngân, và đặc biệt với trăng thu màkhi các Haijin nói "trăng đêm nay", ta hiểu là trăng Trung thu. Mùa đông với lá rơi, sươngmù, mưa đá và những bông hoa trà...
Cách dùng Kigo như thế trở thành qui luật và hầu hết các tuyển tập Haiku đều sắp xếp các loại bài thơ theo từng mùa.
Nói thế không có nghĩa là Haiku trong thiên nhiên lấn mất con người. Thực ra hiện tượng thiên nhiên ở đây được dùng để gởi một tâm trạng và cảm xúc của con người.
Thiên nhiên đi đôi với con người và thậm chí có thể nói chúng hòa quyện vào nhau.
Chúng ta than tiếc
Mùa Xuân ra đi
Cùng với những người Ômi
Bashô
Nhấn mạnh đến yếu tố mùa, Haiku muốn cho thấy con người trong thiên nhiên cũng như thiên nhiên trong con người. Con người là thành phần của thiên nhiên, là thành phần của một Toàn Thể.
Haiku không cô lập con người vào chính thân phận của nó, mà gợi cho thấy mói tương quan không gì cắt nổi giữa con người và sức sống của vũ trụ.
Ngày đầu năm mới!
May sao! May sao!
Trời xanh xanh màu!
Issa
Con người trong Haiku không chấp nhận thụ động cuộc sinh tồn. Con người không bị ném vứt, không bị kết án vào sinh tồn như các triết lý suy đồi đặc tả. Trái lại, con người trong Haiku mang sức mạnh của vũ trụ trong bản thân mình, có thể đi trên vực thẳm như một nhánh hoa tươi:
Cầu treo vực thẳm đời
Quanh dây thừng quấn quít
Những nhánh trường xuân tươi
Bashô
Bashô cùng người học trò là Etsujin một hôm du hành qua núi Kisô. Bên trái là hẻm núi mà dưới sâu nghìn bộ đang cuồn cuộn một dòng sông chảy xiết. Họ dò từng bước một và đến chiếc cầu dây thừng giăng ngang hẻm núi phải vượt qua. Và bài Haiku của Bashô thành hình.
Con người trong Haiku thường xem các thiên thể trên cao là bạn đồng hành của mình và có khi trở nên hùng vĩ đến đáng kinh ngạc:
Tôi đem treo vầng trăng
Lên cành thông, và một lúc nào đó
Lại gỡ trăng ra nhìn
Hôkushi
(Trên là một bài Haiku biến thể, có hình thức bất thưòng: 6\-9\-3.)
Có thể nói bài Haiku trên viết theo một "thủ pháp kỳ ảo", kỳ ảo hơn cả các thủ pháp hiện đại. Bài thơ đem lại cho ta một cảm thức huy hoàng chưa từng có. Con người ở đây có một quyền uy thần thoại, mà đấy chính lại là quyền uy của con người. Tựa như một bài ca dao Việt Nam cho thấy con người không biết đặt tình yêu bát ngát của mình ở đâu trong sông núi, bèn đem đặt nó vào trong chính chiếc túi áo của mình!
Thương em chẳng biết để đâu
Ðể trong túi áo lâu lâu lại nhìn.
Haiku bao giờ cũng cố gắng qua một sự việc cụ thể, nhỏ nhoi, diễn tả cái tinh diệu của vận động thiên nhiên:
Trên bãi biển triền núi
Những gì nhặt lên được
Ðộng đậy bồi hồi
Chiyô
Trong bàn tay Chiyô, bàn tay người phụ nữ, không chỉ động đậy cái con vật bị sóng hắt lên bờ bãi, mà còn động đậy có lẽ một điều gì lớn lao như chính đời sống.
Trong cảnh Xuân này
Những cành hoa đang mọc
Nhánh ngắn, nhánh dài.
Cành hoa Xuân trên biểu hiện sự hòa điệu với đời sống, biểu hiện cuộc sống toàn vẹn tự nhiên như nhiên, sống trong từng khoảnh khắc một, sống đầy đủ trong cảm thức toàn bích tuyệt vời.
Nhật Chiêu
trích tập san Hợp Lưu số 23
(còn tiếp...)
Chúa Ở Trong Lòng
Phần 4
Thưa các bạn, những tuần lễ này làm cho Edward khổ sở vô cùng. Chàng thè khát Alice đến điên lên được; nhưng thân thể đó vẫn ở ngoài tầm tay chàng. Khung cảnh hò hẹn của họ còn làm chàng khổ hơn nữạ Hoặc là họ đi dạo với nhau vào buổi tối, hay là đi xi-nê với nhau, nhưng cả hai khung cảnh đó đều chán ngắt, xi-nê thì chỉ toàn là phim ấm ớ hội tề, ca ngợi những anh hùng lao động như những con người máy (mà có gì khác ngoài hai thứ đó đâu). Vì vậy, Edward nghĩ rằng nếu thay đổi khung cảnh, có lẽ chàng sẽ thành công dễ dàng hơn. Có một lần, biểu diễn một bộ mặt ngây thơ, chàng đề nghị với nàng cuối tuần về miền quê chơi thăm ông anh chàng, thăm căn nhà mát cạnh giòng sông trong khu rừng đầy hoa thơm cỏ lẫ Nhưng Alice (dù ngây thơ và khờ khạo trên mọi vấn đề) thấy ngay âm mưu của chàng và từ chối ngaỵ Không phải chỉ một mình Alice từ chối mà thôi. Cả Chúa của nàng nữa.
Ông Chúa này chỉ có một tư tưởng (Ổng không quan tâm đến các việc khác): Ổng cấm cái vụ tiền dâm hậu thú. Nhưng chúng ta đừng cười Alice về chuyện này. Trong mười điều răn Môi-se truyền lại, chín điều kia nàng coi chẳng nhằm nhò gì. Ðối với nàng, chín điều răn này đúng hiển nhiên: nàng không thích giết chóc, nàng tôn kính cha mẹ, và dĩ nhiên nàng không thèm khát gì bà vợ của ông hàng xóm. Chỉ có một điều, điều thứ bảy là nàng cảm thấy đó mới đúng là điều răn: Chớ phạm tội tà dâm. Nếu nàng muốm thực thi tín ngưỡng của nàng, muốn chứng tỏ và biểu hiện nó, nàng phải bám vào điều răn duy nhất này. Vì thế, nàng đã tự tạo cho mình, từ những tư tưởng, hình ảnh trừu tượng về Thượng đế, một Thượng đế rõ ràng, dễ hiểu và cụ thể: một ông Chúa cấm tà dâm.
Tôi xin hỏi bạn chứ sự tà dâm bắt đầu từ đâu? Mỗi người đàn bà đều tự tạo cho họ một biên giới giữa cái gọi là tà dâm với cái không tà dâm, theo những tiêu chuẩn rất là thần bí. Alice hoàn toàn đồng ý cho phép Edward hôn nàng, và nhiều cố gắng của chàng, nàng cũng cho phép chàng đặt tay lên ngực nàng. Nhưng, ở giữa thân thể nàng, nói thẳng ra là từ lỗ rốn, nàng vạch một đường biên giới rõ ràng, không hòa hợp hòa giải gì hết, và bên dượi biên giới này là cấm địa, không được léng phéng vào vì sẽ làm cho Chúa nổi giận.
Edward bắt đầu đọc kinh thánh cùng những tác phẩm căn bản về thần học. Chàng quyết định sẽ dùng chiêu thức gậy ông đập lưng ông để đoạt nàng. Chàng nói với nàng:
- Cưng nè, nếu chúng ta yêu Chúa, thì không có gì bị cấm hết. Nếu chúng ta mong muốn điều gì, thì đó là do ý chỉ của Ngài. Jesus không muốn điều gì khác hơn nơi chúng ta ngoài việc chúng ta phải để tình yêu dẫ dắt trong mọi hành động.
Alice nói:
- Ðúng, nhưng đó là một tình yêu khác hơn thứ tình yêu anh đang nghĩ tới.
- Chỉ có một tình yêu thôi.
- Anh thì hợp với tình yêu kiểu đó lắm, em biết. Nhưng chỉ có Chúa đặt ra những điều răn, vàchúng ta phải tuân theo.
- Ðúng, nhưng đó là Chúa của Cựu Ước chớ không phải Chúa Jesus.
Alice phản đối:
- Sao lại thế được ? Chỉ có một Chúa thôi.
Edward nói :
- Cưng ơi, người Do-Thái trong Cựu Ước hiểu Chúa khác với chúng ta hiện nay. Trước khi Jesus đến, mọi người phải tuân theo những luật lệ rõ ràng, điều răn phân minh, không cần biết trong đầu hắn nghĩ gì. Nhưng Jesus cho rằng một vài điều luậtAnh thì hợp với tình yêu kiểu đó lắm, em biết. Nhưng chỉ có Chúa đặt ra những điều răn, và chúng ta phải tuân theọ chỉ có tính cách ước lệ bề ngoài. Ðối với Jesus, điều quan trọng nhất là con người thật bên trong của mỗi người. Khi một người thành thật với chính hắn và hành động theo đức tin thì mọi điều hắn làm đều được Chúa hài lòng. Sau nữa, thánh Phao Lô có nói: "Mọi điều đều tinh khiết cho một tấm lòng tinh khiết."
- Em không biết anh có phải là người có tấm lòng tinh khiết không?
Edward nói tiếp:
- Ông Thánh Augustine cũng nói: " Hãy yêu Chúa và làm bất cứ điều gì con thích." Em có hiểu không, Alice ? Hãy yêu Chúa, và làm..."
Alice ngắt lời:
- Cái làm anh thích sẽ không bao giờ làm em thích đâu.
Edward hiểu ngay chiến thuật này đã thất bại hoàn toàn. Chàng buồn rầu nói:
- Em chẳng ưa gì anh.
- Anh đừng nói vậy. Alice trả lời. Chính vì em thích anh mà em không muốn chúng ta làm những điều mình không nên làm.
Như chúng ta đã biết, những tuần lễ này là những tuần lễ làm Edward khổ sở. Sự khổ sở này còn lớn lao hơn nữa khi chàng hiểu rằng sự thèm khát của chàng đối với Alice không phải chỉ thuần túy xác thịt, mà ngược lại, nàng càng cự tuyệt bao nhiêu, chàng càng thấy cô đơn bấy nhiêu và lại càng mong muốn chiếm được trái tim nàng. Nhưng cả thể xác lẫn tâm hồn nàng đều phớt tỉnh trước sự khổ sở của chàng. Nàng rút vào trong vỏ ốc tự mãn, và cảm thấy an toàn.
Chính thái độ này của nàng đã làm cho Edward khó chịu. Chàng muốn làm một hành động quá khích nào đó để có thể kéo nàng ra khỏi cái vỏ an toàn giả tạo nàng tạo nên. Nhưng lối đả kích niềm tin (giả tạo) của nàng, chàng sợ sẽ gặp phải những phản ứng không thuận lợi và có thể mất nàng luôn (mặc dù chàng khoái lối này hơn), chàng dùng biện pháp đối nghịch lại (khó hơn, nhưng theo chiều với nàng) thật quá khích để cho nàng, vì mắc cở, phải nhận chân ra được bản chất của mình. Nói dễ hiểu hơn - Edward cường điệu niềm tin của chàng. Chàng siêng năng đi lễ và khi vào nhà thờ chàng luôn luôn tỏ ra thuần thành hơn cả Alice: bất kỳ cơ hội nào chàng cũng quỳ xuống trong khi Alice chỉ đứng làm dấu vì sợ quỳ sẽ làm nhăn quần áo.
Một ngày kia, chàng chỉ trích về thái độ thành kính của nàng. Chàng nhắc cha nàng nhớ đến Chúa Jesus: "không phải kẻ nào cứ cầu ta 'Chúa ôi, Chúa ôi ' đều được vào nước thiên đàng". Chàng tấn công mạnh bạo hơn cho rằng niềm tin của nàng chỉ là hình thức và nông cạn, nàng quá thỏa mãn với chính nàng đến nỗi chẳng còn thiết gì tới ai nữa.
Khi chàng nói những lời này ( Alice hoàn toàn thiếu chuẩn bị nên chống đỡ yếu ớt). Chàng thấy một cây thánh giá bên kia đường, trên có treo một tượng Chúa bằng sắt đã sét rỉ. chàng làm bộ buông tay nàng ra và làm dấu thánh giá một cách hiên ngang ( như để phản đối sự lãnh đạm của nàng). Chưa kịp nhìn thấy tác dụng của hành động này, chàng bắt gặp bà lao công làm trong trường đang ngó chàng trừng trừng. Edward biết ngay phen này nguy rồi.
Phần 5
Hai ngày sau, mối lo của chàng thành sự thực khi mụ lao công chận chàng giữa hành lang:
- Chúng tôi cần nói chuyện với đồng chí lúc 12 giờ trưa ngày mai trong phòng Giám hiệu.
Edward lo lắng quá. Chiều hôm đó, chừng gặp Alice như thường lệ và đi dạo với nhau khoảng một hai tiếng. Chàng hết hứng nói chuyện về tôn giáo với nàng, nhưng chàng cũng không dám thố lộ những rắc rối cho nàng biết. Bởi vì chàng biết rằng chàng sẵn sàng chối Chúa để cứu lấy cái nghề chàng không ưa (nhưng không bỏ được). Vì thế chàng đành im lặng, và cũng vì thế chàng không được nànga n ủi một lời nào. Hôm sau chàng ủ rũ bước vào phòng giám hiệu.
Bốn ông quan tòa đang đợi chàng trong phòng: Bà Giám hiệu, bà lao công, một đồng nghiệp của Edward (một người đàn ông nhỏ thó, đeo mắt kiếng ), và một người đàn ông lạ mặt ( tóc bạc ) mà mọi người gọi là đồng chí Thanh tra. Bà Giám hiệu mời chàng ngồi và cho chàng biết đây không phải là phiên họp chính thức. Chỉ là một cuộc nói chuyện thân hữu thôị Lý do là vì họ biết Edward trong đời sống ngoài học đường đã có những hành vi khiến họ không thoải mái lắm. Khi nói xong, thị nhìn viên thanh tra. Y khẽ gật đầu đồng ý bằng mắt. Ông giáo mắt kiếng mở đầu bằng một tràng luận thuyết, nào là phải giáo dục con em thế nào để tránh thành kiến, nào chúng ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc giáo dục vì chúng ta (thầy giáo) là những mẫu mực cho chúng noi theo. Chính vì lý do này, chúng ta không thể dung túng được những kẻ nặng đầu óc tôn giáo trong học đường được. Hắn khai triển đề tài này ra dài dằng dặc và cuối cùng tuyên bố những hành vi của Edward là một sự sỉ nhục cho toàn trường.
Chỉ vài phút trước, Edward nghĩ rằng chàng sẽ chối việc đi nhà thờ và tin Chúa của chàng, và việc đó cũng như làm dấu chỉ là những chuyện đùa thôi. Tuy nhiên, bây giờ đối diện với thực tế, chàng mới biết là không làm như vậy được. Làm sao có thể nói với những ngưòi nghiêm túc đang hồ hởi chờ kết tội chàng là sự hồ hởi đó của họ chẳng qua chỉ do một chuyện hiểu lầm, ngớ ngẩn tạo ra? Chàng biết rằng làm như vậy có nghĩa là chọc quê họ, và chàng cũng nhận thức được rằng họ mong đợi chàng viện ra những lý do (mà họ đã tính sẵn) để đập. Chàng hiểu (trong một thoáng mắt, vì đâu có thì giờ đâu mà nghĩ ngợi) rằng lúc này điều quan trọng nhất là chàng phải tỏ ra thành khẩn. Chính xác hơn, chàng phải làm sao cho những điều chàng nói phù hợp với những định kiến họ đúc sẵn về chàng. Nếu thành công trong việc này, chàng có thể đấu trí với họ tới một mức nào đó. Vì thế chàng nói:
- Thưa các đồng chí, tôi có thể nói thẳng được không?
Mụ giám hiệu trả lời:
- Dĩ nhiên, đó là lý do đồng chí có mặt ở đây.
- Các đồng chí sẽ không giận dữ chứ?
- Cứ nói đi ! Thị ngắt lời.
- Vâng, tôi xin thú thật với các đồng chí. Tôi thực sự tin rằng có Chúa.
Chàng liếc nhìn các quan tòa và dường như họ đều thở ranhẹ nhõm (vì đoán đúng). Chỉ có mụ lao công quạt chàng:
- Ở thời buổi này mà đồng chí còn tư tưởng lạc hậu như thế.
Edward tiếp tục:
- Tôi biết các vị sẽ nổi giận nếu tôi nói thật. Nhưng tôi không biết nói láo. Ðừng buộc tôi phải nói dối các vị.
Mụ giám hiệu nói (nhẹ nhàng):
- Không ai buộc và muốn đồng chí nói dối. Ðồng chí nói thật là một điều rất tốt. Chỉ có điều, xin trình bày cho chúng tôi lý do tại sao một thanh niên như đồng chí lại có thể tin vào Chúa.
Ông giáo mắt kiếng mất bình tĩnh:
- Ngày nay người ta lên đến mặt trăng rồi mà lại còn tin Chúa!
Edward tiếp tục nói:
- Tôi không hiểu tại sao. Tôi thực sự không muốn tin.
Người đàn ông tóc bạc xen vào, giọng nhẹ nhàng:
- Làm sao đồng chí không muốn tin mà lại tin được?
Edward lập lại lời thú tội một cách nhẹ nhàng:
- Tôi không muốn tin, nhưng tôi lại tin.
Ông giáo mắt kiếng phá lên cười:
- Ðúng là mâu thuẫn!
Edward nói:
- Các đồng chí, tôi trình bày sự thật như vậy, và đó là điều làm tôi phân vân. Tôi biết rằng tín ngưỡng đưa chúng ta xa rời thực tế. Xã hội chủ nghĩa rồi sẽ ra sao nếu mọi người tin là thế giới này nằm trong tay thượng đế? Không ai muốn làm gì nữa cả và chỉ tùy thuộc vào Chúa.
- Ðúng thế. Mụ Giám hiệu đồng ý.
Ông giáo mắt kiếng góp ý:
- Chưa ai chứng minh được Chúa hiện hữu?
Edward nói tiếp:
- Lịch sử nhân loại khác với thời tiền sử ở chỗ con người nắm định mạng của họ và không cần tới Chúa.
- Tín ngưỡng đưa tới hủy diệt. Mụ Giám hiệu nói.
- Tín ngưỡng thuộc về thời Trung Cổ. Edward nói.
Rồi mụ Giám hiệu nói vài điều, ông giáo mắt kiếng nói thêm vài điều, Edward nói thêm vài điều nữa, rồi ông thanh tra tiếp thêm, và cuối cùng mọi người đều đồng ý, cho đến khi cuối cùng ông giáo mắt kiếng nổi nóng lên, ngắt lời Edward:
- Thế tại sao anh lại đi nhà thờ?
- Bởi vì tôi tin ở Chúa.
Ông giáo reo lên hân hoan:
- Lại mâu thuẫn rồi đó!
Edward thú nhận:
- Ðúng vậy, đó là sự mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa kiến thức và niềm tin. Kiến thức là một chuyện, niềm tin lại là một chuyện khác. Tôi công nhận tín ngưỡng sẽ đưa thế giới đến chỗ vô nghĩa lý. Tôi công nhận rằng nếu Ngài không có thật thì thế giới sẽ tốt hơn. Nhưng tại đây tôi...
Chàng chỉ tay vào trái tim rồi nói tiếp:
- Tôi cảm thấy Ngài hiện diện trong tim tôi... Các đồng chí thấy không, tôi đang thành bày tỏ với các đồng chí sự thật. Tôi không muốn là kẻ đạo đức giầ Tôi muốn các đồng chí hiểu rõ nỗi khổ tâm của tôi. Nói xong, chàng gục đầu vào hai bàn tay.
Ðầu óc ông giáo mắt kiếng cũng không to hơn thân hình ông ta là bao nên không biết rằng ngay cả một tay cách mạng cứng rắn nhất cũng cho việc sử dụng sức mạnh là không tốt (mặc dù cần thiết) và tin rằng cái hay, cái tốt của cách mạng nằm ở chỗ cải tạo chớ không phải tiêu hủy. Ông ta, một nhà cách mạng giờ thứ 25, cũng không được mụ giám hiệu lẫn ông thanh tra ưa gì cho lắm, và cũng không biết rằng khi Edward đã tự đặt mình vào sự phán xét của họ và được xem là một đối tượng có thể cải tạo được thì có giá trị hơn ông ta cả ngàn cả vạn lần; cho nên hung hăng và kết tội những kẻ không phân biệt được niềm tin của thời trung cổ nên sống trong thời kỳ đó là phải xéo khỏi trường học của thời hiện đại này.
Mụ giám hiệu để cho ông ta nói xong hết rồi mới nói:
- Tôi không thích trừng phạt. Ðồng chí đây đã thành khẩn trình bày mọi sự. Chúng ta phải tôn trọng sự thành khẩn đó.
Nói xong mụ quay sang Edward:
- Dĩ nhiên các đồng chí đây đều nói đúng khi cho là những kẻ có tín ngưỡng không thể giáo dục con em chúng ta. Ðồng chí có gì đề nghị không?
Edward rầu rĩ đáp:
- Thưa tôi không biết.
Lão thanh tra nói:
- Tôi đề nghị thế nàỵ Cuộc đấu tranh giữa cũ và mới tiếp diễn không chỉ giữa các giai cấp mà còn ở trong mỗi cá nhân, cũng như sự đấu tranh này đang xảy ra trong đồng chí chúng ta đâỵ Bằng lý trí anh ta biết, nhưng tình cảm lôi anh ấy lạị Chúng ta phải giúp đồng chí ấy trong cuộc đấu tranh tư tưởng này để lý trí có thể chiến thắng được tình cảm tiểu tư sản.
Mụ giám hiệu gật đầu đồng ý, rồi nói:
- Tôi sẽ đích thân giúp đỡ đồng chí này
Milan Kundera
(còn tiếp...)
Trịnh Đình Tường dịch theo bản English: "Edward and God", trong tuyển tập "Laughable Love".