vhnt, số 9
25 July 1995
Nguyễn Trọng Tạo là một nhà thơ khác lạ, một "Người Ham Chơi", nói theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, tuy rằng người ham chơi này cũng không còn trẻ trung gì. Người Ham Chơi này là một tay "lãng tử" khí khái, nhìn đời với con mắt đùa cợt nhưng rất nghiêm túc. Cuộc đời là một khu vườn đùa chơi trong giây lát. Người thơ này la đà trong thi ca, trong đời sống với nụ cười bí hiểm trên môi.
ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN là một vườn chơi đầy mầu sắc của ông. Cuộc phiêu du của thi sĩ có những ý tưởng ngu ngơ nhưng chân thật và sâu sắc biết bao. Trong những câu nói "ngây thơ", ta bắt gặp cái hóm hỉnh thông minh lạ thường.
Xin giới thiệu với vhnt ba bài thơ trong vườn chơi này. Ước chi ta cùng Người Ham Chơi này đi thong dong, lang thang qua khắp khu vườn cuộc đời này với con mắt và tâm hồn thông suốt như thế. Ðể bớt đi những cái cau mày vì những khó chịu mà cuộc sống đem lại. Cô đơn thì mặc cô đơn, cứ chơi cái đã!
Phạm Chi Lan
oOo
Đồng Dao Cho Người Lớn
có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi .
Lưu Lạc
lạc vào kinh kệ
u mê chiều tà
lạc vào quyền chức
kiếp nào gỡ ra
con đường thì xa
chỉ tay mạng nhện
ta lạc ngoài ta
đi hoài không đến
một băng nhạc sến
ướt chùng chiều mưa
có một gã thừa
lạc vào nhăng nhố
ngác ngơ giữa phố
một thằng nhà quê
nhớ thương Mộ Tổ
biết bao giờ về ...
25-7-1991
Chia
chia cho em một đời tôi
một cay đắng
một niềm vui
một buồn
tôi còn cái xác không hồn
cái chai không rượu tôi còn vỏ chai
chia cho em một đời say
một cây si
với
một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
chia cho em một đời Thơ
một lênh đênh
một dại khờ
một tôi
chỉ còn cỏ mọc bên trời
một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm...
1989
Nguyễn Trọng Tạo
Quê Ngoại
Tôi sinh tại Sài Gòn. Quê nội tôi tít mù ngoài Bắc mà tôi chỉ biết vỏn vẹn qua những lá thư của người quen gửi cho ba tôi trước 54. Ba tôi vào Nam rất sớm. Ông rất kín đáo, dường như có một tâm sự uẩn khúc nào đó nên không hề thố lộ cho chúng tôi biết tại sao ông lại bỏ xứ Bắc ra đi. Vì thế tôi hầu như không có một ý niệm gì về nơi chốn đó cả. Vả lại ông bà nội tôi mất sớm cộng thêm ba tôi là con một, nên nếu cho dù rằng đất nước đã không chia đôi thì tôi cũng không còn ai thân thích bên nội hết. Tuy thiếu mất tình thương bên nội nhưng bù lại tuổi thơ tôi đã được ôm ấp vỗ về bởi sự thương yêu trìu mến của ngoại, đặc biệt vào những ngày được mẹ tôi dẫn về ăn giỗ hay lễ Tết hoặc nghỉ hè, tại nơi chôn nhau cắt rún của ba. Đó là Hóc Môn, nơi có 18 thôn vườn trầu và những hàng cau cao thẳng tắp.
Lúc bé tôi rất thích những ngày được về chơi bên ngoại đó. Ngoài dịp được chìu chuộng đủ thứ bởi các cậu, dì tôi còn được đi chơi thả cửa với bọn trẻ cùng lứa mà không sợ bị la mắng. Nhà ngoại ở hút vô trong sâu, ngõ vào là lối đi nhỏ hẹp với rặng tre hai bên. Tôi nhớ từ con lộ chính, phải đón xe thổ mộ để đi vô ngõ sâu hun hút đó hơn nửa giờ mới tới nhà ngoại được. Nhà ngoại khá lớn nằm giữa một khoảnh đất khoảng một mẫu, chung quanh là hàng rào tre, dâm bụt. Đủ loại cây ăn trái được trồng trong mảnh đất đó. Đó là nhà, còn ruộng vườn thì còn rộng hơn nữạ Nguồn hoa lợi chính của ngoại tôi là trầu cau, mía và lúa.
Ngoại tôi thương tôi lắm, nhất là bà tôi. Lần nào về cũng được bà hỏi han việc học hành ra sao. Rồi sau đó bà dúi cho vài trái ổi hay mãng cầu đầu mùa chín tới cho ăn. Hay là tự bà cầm dao ra sau nhà chặt vài cây mía lau, rửa sạch sẽ cho tôi vì bà biết tôi mê ăn thứ mía nhỏ cây, mềm và ngọt lịm này. Còn ông tôi thì thường bắt tôi ngồi trong lòng, cầm sách bắt tôi đọc cho ông nghe, hoặc đôi khi ông cũng đọc cho tôi nghe ba cái cuốn Tam Quốc hay Thủy Hử gì đó.
Từ nhà ngoại ra vườn, ranh giới với hàng rào là những cái mương nhỏ. Lần nào về đây tôi cũng phải bỏ ít nhất nửa ngày dầm chân xuống những cái mương này để vớt cá lia thia hay cá phướng. Mỗi lần bắt như vậy cũng được độ mươi con. Cá phướng đẹp nên chỉ để làm cảnh, tôi mê lia thia hơn, nhất là để hai con trong lọ kề gần nhau mà xem chúng phùng mang phồng mỏ.
Một thú khác là bắt dế đá. Tôi thường có tật ngủ dậy trễ, nhưng mùa dế thì tôi phải thức dậy sớm. Tiếng dế gáy buổi sáng sớm như thôi thúc mời gọi tôi phải ngồi bật dậy. Dù bao lần bị la rầy vì sáng sớm ngoại sợ ra ngoài nhuốm sương cảm bịnh, nhưng tiếng dế gáy đã làm tôi quên hết những lời răn dạy đó. Rón rén vén mùng xỏ chân vô đôi dép tôi mon men ra khỏi nhà để theo những âm thanh hấp dẫn vang rân ấy. Tôi là trẻ thị thành nên không có nhiều kinh nghiệm để bắt dế như trẻ địa phương. Có lần nghe dế gáy nên lần mò đến, nhưng tiếng động của bước chân làm chú dế tụt vô hang, lập tức tôi đi tìm nước để đổ vô cho chú dế ngộp mà bò ra, đổ quá nhiều đến khi chú dế mò ra gần khỏi hang thì nó cũng hết thở.
Nhớ những ngày hè về nhằm dịp cúng đình, ngoại dắt đi xem múa lân hát bội. Bàn chân bé nhỏ tung tăng chạy theo bước đi của ngoại trên những con đường làng rợp bóng cau. Đâu đó chị Hằng vừa lú ra khỏi tầng mây khoe sắc thắm. Bóng dơi bay sà trên đầu bắt muỗi không khỏi làm tôi giật mình kêu cứu. Bàn tay ngoại hiền dỗ dành bằng những trái chuối khô tươm mật ngọt ngào. Nhớ từng hàng cây thẳng tắp, mùi hương hoa cau như còn thoang thoảng đâu đây. Cả tiếng động dưới nước của bóng cá quãy mình trong đêm trăng đớp mồi dưới lạch sau vườn. Nhớ những chén chè đậu xanh bột lọc mát rượi sau nhưng giấc ngủ ngắn trưa hè nóng nực.
Cũng không quên được những buổi chiều đi theo lũ trẻ tắm sông hay thả diều. Hoặc chạy lúp xúp theo mấy đứa chăn trâu để xin được ngồi lên lưng nghé. Ngồi được rồi xong lại tập đứng trên lưng trâu, quơ quơ vài nhánh rơm cỏ mà tưởng mình đang trở thành Đinh Bộ Lĩnh phất cờ lau tập trận.
Đôi lần về nhằm mùa lúa chín, tôi theo mấy cậu dì ra đồng xem mọi người gặt lúa. Nhìn những bông lúa nặng trĩu oằn xuống theo tay người gặt mà thấy thương cho người nông dân. Hóc Môn là xứ trồng trầu và cau nhưng tôi lại không chịu được mùi của lá trầu, nó hăng hắc khó chịu làm sao ấy.
Mấy đứa con của tôi cứ thắc mắc hoài, sao ba hay cứ tần mần mấy cái hình ảnh cũ chụp hồi năm xửa năm xưa, mấy cái hình mà tôi đem theo khi rời khỏi nước. Ảnh trở màu vàng úa mà trong đó chỉ thấy vài căn nhà giữa những rặng tre với vài cây cau thẳng tắp. Hoặc hình một con thuyền lẻ loi trên dòng nước đục ngầu phù sa. Có giải thích mà chúng nào đâu có hiểu. Làm sao chúng hiểu được tình tự dân tộc qua những điệu hò câu hát quê hương. Làm sao chúng cảm được cái đẹp của hình ảnh một chú bé đang cưỡi trâu đi trên con đường làng lầy lội, khi ráng chiều dần xuống hoà với khói bếp cơm chiều đang từ từ bốc lên trên rặng cây.
Phú Lê