vhnt, số 147
13 February 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Mâm cỗ cuối năm ....................................Phương Châu
2 - Âm điệu cũ ..........................................Phan Lê Dũng
3 - Công danh ....................................................Cỏ Nhớ
4 - Cõi lạ ..................................................Vũ Lê Phan
5 - Thơ hỏi tuổi ..........................................Sung Nguyễn
6 - Một khúc ân tình thế giới sinh ...............Trần Thái Vân
7 - Xuân .....................................................Thái Nguyên
8 - Từ nay ................................................Quách Cường
T r u y ện N g ắn / B út K ý :
9 - Chuyến đi ..................................Nguyễn Phước Nguyên
10- VietNam in the eyes of a 5 years old girl .................Tu-Quyen Pham
Valentine
Thay cho "thư vhnt" hôm nay, xin kể một truyện thật ngắn làm quà cho ngày lễ tình yêu .
Ngày mưa, cậu bé không chạy chơi ngoài sân được, đành ngồi nhìn mẹ đang cắt những mảnh giấy hồng thành những hình quả tim nho nhỏ . Cậu bé hỏi:
- Tim để làm gì thế mẹ?
Mẹ trả lời:
- Ðể yêu con.
Cậu bé nhoẻn cười.
- Tim mẹ đẹp quá, cho con một tim nhé?
Mẹ âu yếm:
- Mẹ cho con hết cả tim
Cậu bé chọn hai quả tim xinh nhất.
- Con chỉ lấy hai tim, một cho con một cho bạn gái.
Mẹ cười:
- Thế không có tim nào cho mẹ?
Cậu bé ngẩn ra.
- Con cho mẹ một tim nhé, mẹ cũng là con gái
Mẹ ôm cậu bé vào lòng: con ngoan của mẹ. Cậu bé làm nũng.
- Mẹ kể con nghe sự tích quả tim đi.
Mẹ ngẩn ra. Mẹ không biết sự tích valentine, chỉ biết có câu chuyện tình yêu đẹp hơn cả Tình Yêu:
"Trên một bãi cát sa mạc bỏng cháy, có một giống chim chuyên làm tổ trong những bụi gai, thời tiết khe khắt đang mùa hạn, không ở đâu tìm ra một giọt nước. Trong một bụi gai nọ, một đàn chim con đang khát nước thoi thóp, đang đợi mẹ nó mang thức ăn về. Mẹ nó thất thểu bay về tổ, vẫn không thể tìm ra thức gì để uống, lấy gì cho chim con ăn. Chim mẹ chợt kêu lên một tiếng thê thiết, mắt long lanh nhìn trời, rồi tự mổ vào ngực mình cho đến bật máu. Những giọt máu rỉ từ ngực chim mẹ, đàn con túm lại uống cạn, vừa kịp cứu cơn chết khát. Chim mẹ gục xuống, kêu lên một tiếng nhỏ, tiếng kêu thống khoái đầy hạnh phúc. Rồi chim mẹ chết. Từ đó sa mạc mọc lên một giống hoa, hoa xương rồng mầu đỏ, mà người ta vẫn bẻ cành vắt nước uống khi lạc trong sa mạc để khỏi chết khát."
Cậu bé đăm chiêu.
- Hoa sa mạc đẹp hơn hoa hồng, mẹ nhỉ?
Chúc bạn ngày lễ Valentine nhiều ý nghĩa .
thân ái,
PCL/vhnt
Mâm Cỗ Cuối Năm
Trời Mê-Linh một chiều chiêng-trống giục
Cùng ba-quân em tuốt kiếm lên đường.
Tội chiến-sĩ dặm đường xa khổ-cực
Mẹ hiền-từ dâng bánh ngọt yêu-thương.
Em là tướng, một đi không trở lại,
Mượn giòng sông khi gãy cánh Lạc hồng.
Ðọt nắng úa chiều hôm rơi cuối bãi,
Mẹ ngậm-ngùi trăm bánh thả trôi sông.
Rừng huyền-sử Thần về trong giấc mộng,
Mùa Xuân tươi hoa đạo nở trên ngàn.
Cung điện ngọc Gã nghèo vui cuộc sống,
Bánh vuông, tròn theo vận nước gian-nan.
Ðây rượu nóng, ta kính Người một chén,
Ðường chiến-chinh ngàn dặm vó câu buồn.
Mai trở lại máu hồng vương lưỡi kiếm,
Sông-Núi mừng Người đi giữ quê-hương.
Nhớ một thuở Hùm Thiêng trong tử ngục,
Xót-xa đau vang tiếng rống gọi rừng.
Con dao nhọn xóa tan đời ngang dọc,
Lệ Mẹ buồn rơi ướt đẫm bánh chưng.
Giữa trời đất lập đàn chay cứu khổ,
Làm thiền-sư gõ mõ động đêm trường.
Ðây Bánh, Rượu, Yên, Cương, và Kiếm cổ
Ta cúng Người không để nhục quê-hương.
Phương-Châu
trích từ Giúp Ích Số 3
Âm Điệu Cũ
Vui xuân có chén rượu tàn
Có hoa mai nở, có đàn én bay
Ừ sao đấy chẳng là đây?
Ðấy, đây, đây, đấy là mây chuyển màu
Xuân ngày xưa đã về đâu?
Xuân ngày sau đã vọng sâu tiếng buồn
Cũng là tiếng dứt, tiếng buông
Mà âm điệu cũ nay buồn làm sao!
Phan Lê Dũng
Công Danh
Bạn xưa
ví đã biệt mù
như ngày xưa
đã thiên thu
với mình.
Kể từ đôi ngã công danh
vẫy tay từ biệt
độc hành trường thi.
Hoài công
chẳng đỗ nhất nhì
trường đời
có trạng vinh quy bao giờ
Xuống đời,
tôi chỉ có thơ
gặp nhau an ủi
hững hờ
mà nghe.
Cỏ Nhớ
Cõi Lạ
Giữa sách vở chợt buông mình nhọc mệt
Không hứng thú với những gì mình viết
Từng chữ một bây giờ ta giống hệt
Một thằng hề lên sân khấu đã quen
Buổi sáng dậy chân tay làm mọi việc
Ðầu óc dường như ở chốn nào xa
Cũng lược gương cũng áo quần chưng diện
Hôm nay ai ra đường chẳng phải ta
Buổi tối về bỗng dừng chân trước ngõ
Ngẩn ngơ nhìn con nắng tắt trời xa
Rồi quay lưng để ngỡ ngàng than nhỏ
Ði đâu cả rồi những bóng quen xưa...
lephan
Thơ Hỏi Tuổi...
tặng 12 con Giáp của tôi
Biết em tuổi Tý dễ thương,
Miệng hay lén lút soi gương ăn quà.
Tuổi Sửu là con trâu nhà,
Ruộng vườn chăm sóc chẳng hà phiền chi!
Tuổi Dần ai dễ mà khi,
Trong ngoài đều giõi, ai bì ai theo?
Nếu em mang tuổi con Mèo,
Phải giàu anh hưởng, phải nghèo, nghèo luôn.
Con Rồng làm gió mưa tuôn,
Em lo sự nghiệp, để buồn phận anh.
Tuổi Tỵ con rắn hiền lành,
Thương chồng quấn quít, chẳng đành đi xa.
Con Ngựa là tuổi hãi hà,
Chồng theo không kịp, ở nhà thở than.
Tuổi Mùi con cháu đầy làng,
Trai tài gái sắc rỡ ràng tông môn.
Tuổi Thân có nghĩa có hồn,
Gần thì khắc khẩu, bồn chồn lúc xa.
Tuổi Dậu là tuổi con gà,
Ngày đêm chăm chút mượt mà nuôi con.
Tuổi Tuất trông ngóng mõi mòn,
Chồng thường đi vắng, ôm con ngồi chờ!
Tuổi Hợi thêm tí hững hờ,
Lo mình chưa đủ, lại ngờ người ta.
Nguyễn Sung
SM 95
Một Khúc Ân Tình Thế Giới Sinh
tặng b.th.
Em vẫn theo anh hàng vạn dặm
Dầu chẳng quan hà cũng gian nan
Ta vẫn chung đôi tình say đắm
Khổ cực gì em cũng không màng
Nhờ em anh đã tình yêu đến
Sớm, tối, ra, vào rộn tiếng ca
Hè đi, thu lại, đông qua bến
Xuân ở bên mình mấy năm qua
Anh nhớ ngày xưa mình hò hẹn
Bên hồ hoa trắng, gió lâng lâng
Anh lén nhìn em, em nhìn lén
Như muốn cầm tay kéo lại gần
Suối tóc em bay hương ngào ngạt
Da em trắng mịn tựa đường tơ
Bàn tay em xinh mười ngón ngọc
Ðưa anh về lại với trời thơ
Bến mơ chung ý lòng rung động
Một bản tình ca ta đổi trao
Hồn anh mở cửa mừng gió lộng
Ðến tự muà xuân của kiếp nào
Từ khi ta nói yêu đêm ấy
Bên em anh tìm lại chính mình
Trong nụ hôn nồng em có thấy
Một khúc ân tình thế giới sinh
Trần Thái Vân
Xuân.
Ði đôi với những biến đổi của thời gian, giòng tư tưởng nay thành những cánh hoa rực rỡ mà kỷ niệm là những sắc hương ngọt ngào tô điểm thêm cho phần lộng lẫy đã sẵn có. Bởi không gian là nơi giao hợp của những hình ảnh vô biên, nên ký ức vẫn xao xuyến với những hư và thực. Bởi thời gian là sự kết tụ của những bắt đầu nối tiếp, nên trí óc mãi hoang mang giữa quá khứ và hiện tại.
Rồi trong một giây phút nào đó, tất cả như đồng quy về một điểm. Nơi đây là thế giới nhân vị, là thế giới tương giao. Cho ta ấp ủ mộng dài. Cho ta tìm thấy ý nghĩa của sự hiện diện ta trong vũ trụ để đi đến tình nhân loại.
Thắm thoát, thời gian trôi nhanh như kim đồng hồ vòng quanh 12 con số. Chu kỳ 12 tháng đã đến với người Việt ly hương chúng ta như sự đuổi bắt 12 con giáp trong cuộc đời mà người người vội vã đua bơi trên biển sóng triều dâng của thế giới vật chất, bỏ quên lại sau lưng những viên sỏi của dòng đời mà họ đã đi qua.
Và một mùa xuân lại đến như những mùa xuân đi qua trong đời người. Bạn có nuối tiếc, có vấn vương những hình ảnh, những con đường mình đã đi quả Kỷ niệm có chắt chiu trong tâm trạng để hình thành những vần thơ mộc mạc như cánh đồng quê xưả Hãy đến với nhau mà tìm hiểu qua những tâm tình, hoài bảo được thể hiện trong dòng chữ nhỏ bé này bạn nhé!
Nhớ Xuân Xưa
Xuân đến đây rồi buồn lắm đa
Cảnh xuân tươi thắm ở quê nhà
Nửa đời đánh mất từ dạo ấy
Ra đi viễn xứ nghìn trùng xa
Xuân đến nơi nầy thiếu cành hoa
Vàng xinh tươi thắm cánh mai, đào
Hạt dưa đo đỏ trên môi cắn
Tí tách trên môi, miệng thắm màu
Xuân đến đây rồi nhớ làm sao!
Cảnh xuân quê cũ, ở nơi nào?
Mà đây tuyết phủ một màu trắng
Băng giá bao chùm cả trời, sao
Xuân đến chi lòng buồn biết bao!
Dư âm, kỷ niệm cất nơi nào?
Hỏi người năm cũ ai còn nhớ
Một thuở xuân nào vẫn còn nhau!
Xuân Bính Tý
Chúc các bạn 1 năm mới vạn sự như ý
Nguyễn Ðình Thái
Từ Nay...
Từ nay thôi nhé những hẹn hò
Thuyền xa bến mộng, dòng quanh co
Uyên Ương gãy cánh đời buồn mất
Hương cũ theo ngày tàn như trỗ...
Từ nay thôi hết mộng mơ huyền
Ðò tình nay đắm giòng sông duyên
Về đâu hỡi cánh diều không gió
Nửa kiếp ân tình, nửa kiếp điên...
Từ nay cố khép trái tim mềm
Hương hoa, sắc bướm sầu trong đêm
Giang hồ lạnh bước hồn viễn xứ
Thôi những hẹn hò còn buồn thêm !!!
Quách Cường
Calif 02/04/96 - Chủ Nhật Houston
chuyến đi
Chỉ còn độ một trăm dặm nữa là đến thành phố Nữu Ước. Tôi vừa lái xe vừa ngắm mặt trời mọc sau lớp sương mù trùm kín không gian vào một buổi sớm mai chớm lạnh tháng tám của miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Sau bức màn sương, mặt trời không rực rỡ sáng, mà chỉ còn là một vòng tròn lấp lánh như một đồng tiền bằng bạc ai treo giữa trời. Trong xe, mọi người vẫn còn yên ngủ sau đêm đầu tiên của chuyến viễn hành đầu tiên của cả gia đình tôi. Đi chơi. Tôi lẩm bẩm hai chữ đó trong đầu mà thấy vừa thương mẹ tôi, vừa buồn cười. Mẹ tôi vốn sợ đi máy bay. Chuyến bay sau cùng của người là lần rời trại Pendleton để đi định cư tại Wisconsin mười hai năm về trước. Cách đây hai tháng, anh Ba của tôi nhận được việc làm ở Boston sau hơn một năm trời mòn mỏi tìm việc làm từ khi ra trường đại học. Đùng một cái mẹ tôi đề nghị đi chơi. Một chuyến đi chơi có mục đích khác hơn là đi chơi: Thăm con. Sau đôi lần bàn tán, cả nhà đều đồng ý lấy ngày nghỉ phép và mướn xe cùng đi.
Xe băng qua một khúc đường xấu đang được sửa chửa nên mọi người từ từ thức dậy vì xe bị dằn. Mẹ và anh Hai tôi thức trước. Sau đó là chị tôi và ba tôi. Đứa em gái út của tôi thì vẫn còn nằm trong lòng mẹ tôi ngủ say ở băng ghế sau. Mọi người đều cảm thấy thoải mái, dù hơi mệt, với cái lạnh nhè nhẹ của một buổi bình minh. Một lúc sau tôi lại nghe tiếng đứa em gái tôi trở mình thức giấc. Rồi bỗng cô nàng ngồi bật dậy và thảng thốt kêu to:
- Ý da ! Mặt trời bữa nay bị tắt đèn !?!?
Tôi bàng hoàng. Mà cũng không phải chỉ riêng mình tôi. Trong xe ai cũng ngơ ngác không biết cô nàng muốn nói cái gì. Lúc đó, cô nàng lại chỉ về phía mặt trời và nói:
- Đó, hổng phải hay sao? Nó hổng có... chiếu ra như mọi ngày.
Chị tôi là người hiểu ra đầu tiên và "thông dịch" lại cho mọi người:
- Ý của Út là mặt trời bị sương che, nên không có những tia sáng làm chói mắt. Phải không Út?
- À há ! Thì em nói nó không có chiếu ra như đèn bộ hổng đúng hay sao? Ban đêm đèn xe chiếu sáng quá cũng làm mình bị chói mắt vậy chứ bộ.
Mọi người bật cười với sự so sánh ngộ nghĩnh của em gái tôi. Với số tuổi mười chín thì năm nay đã lớn rồi. Tại ở nhà được ba mẹ và anh chị cưng nên cô Út đôi khi rất ư là con nít, mặc dù bước ra đường cứ đòi làm chị người khác. Lúc đó ba tôi quay qua tôi và nói:
- Con thấy không, có nhiều cái ba mẹ dạy em mà cũng không kịp. Mình cứ quên là nó đã ở Mỹ nhiều hơn ở Việt Nam hoài.
- Dạ.
Tôi đáp nhẹ. Nghĩ đến một điều, tôi hỏi chị tôi ở băng sau:
- Mà sao chị hiểu Út lẹ quá vậy? Lúc đó chưa ai biết nó nói gì cả.
Bà chị tôi nhún vai thật thản nhiên:
- Ở chung phòng với nó, nghe nó nói chuyện, riết rồi cũng phải hiểu thôi. Út nó có một ngôn ngữ riêng, nghe nhiều lắm mới hiểu được.
Bị anh chị chọc, đứa em gái tôi hết ngó người này đến người nọ rồi lại dựa vào lòng mẹ tôi và nhắm mắt lại. Thỉnh thoảng vẫn nghe cô nàng lảm nhảm cái gì mặt trời và tắt đèn. Để rồi cô nàng lại cười lấy một mình.
oOo
Sau khi thăm anh Ba tôi, chúng tôi rời thành phố Boston để về lại Nữu Ước ghé xem tượng Nữ Thần Tự Do mà chuyến đi lên từ Houston, chúng tôi chỉ thấy xa xa, lúc xe chạy xuyên qua thành phố này. Với cả nhà coi đường phụ và hai người coi bản đồ mà chúng tôi vẫn bị lạc đến hai lần mới đến được bến phà để chờ phà chờ qua đảo Ellis.
Khi đến nơi, cả nhà sắp hàng vào tận bên trong để xem cho biết. Ba mẹ tôi vì lớn tuổi nên chỉ đi bằng thang máy lên tới tầng cao nhất của bục đá làm nền cho pho tượng khổng lồ rồi đi xuống. Bà chị và em gái tôi thì cho rằng như thế là chưa đủ, nhất định phải leo lên đến tận vương miện mới hài lòng. Thế là hai người sắp hàng một lần nữa. Thấy ba mẹ tôi không yên tâm, tôi và anh Hai tôi bèn phải để ba mẹ tôi ngồi hóng gió dưới các tàng cây chung quanh khung viên nơi này mà cùng sắp hàng với hai người kia. Trời càng vào trưa càng nóng. Khi biết được là phải sắp hàng và leo thang đến gần ba tiếng đồng hồ mới lên đến tận đỉnh thì tôi bắt đầu đổ bực. Trong lúc đó, em gái tôi thì cứ không chịu đứng yên. Cầm cây dù trong tay mà cứ giương lên và xếp lại. Và tôi đổ quạu:
- Nè, Út tắt cây dù đi. Cứ đưa lên đưa xuống hoài đụng người này người nọ. Út nghe không?
Cô em gái của tôi xếp cây dù lại, rồi nghĩ ra điều gì đó bèn nói lớn:
- Hà, em bắt được anh rồi. Ai đời mà nói tắt cây dù.
Nghiêm nét mặt lại làm ra vẻ trịnh trọng, em gái tôi nhắm đôi mắt lại lên giọng dạy đời:
- Ừ, không xài chữ tắt được. Phải nói là xếp lại mới đúng.
Rồi cô nàng phá ra cười vì bắt chẹt được anh mình. Tôi vừa bực mình, vừa tức cười. Nhưng không biết phải làm sao. Chợt nhớ đến ông chú kết nghĩa đang làm báo viết văn của tôi bên Cali, nếu chú ấy mà biết được thì chắc tôi chỉ còn cách độn thổ, vì chú ấy thường hay nâng đỡ tôi trong vấn đề viết lách lắm. Và tôi mường tượng ra gương mặt của chú ấy khi nghe tôi kể chuyện này lại. Tôi cũng bật cười theo em gái của tôi. Cái nóng của buổi trưa như dịu hẳn đi.
Khi vừa bước ra khỏi cửa, em gái tôi đã chạy vội về phía ba mẹ tôi đang ngồi chờ mà nói:
- Thôi, mai mốt con không leo lên nữa đâu. Tượng thì to như cái gì á. Tên thì là Nữ Thần Tự Do mà leo lên nó nhỏ xíu như cái hang, chật ghê. Tù túng thấy mồ, chẳng tự do gì cả. Nhìn ra ba cái cửa sổ nhỏ xíu con hổng thấy được cái gì đáng dòm hết trơn hà.
Mặc cho cô Út phân bua, cả nhà chỉ ngó nhau cười và chuẩn bị ra về.
oOo
Nơi dừng chân cuối cùng của chuyến đi là bãi biển Pensacola. Phải nói thật, từ ngày qua Mỹ đến bây giờ, đây là lần đầu tiên tôi muốn tắm biển. Nước biển ở đây màu xanh và trong vắt. Bờ biển nằm sát ngay bên đường và chạy dài xa tít với cát trắng xóa. Trong lúc tôi và em gái tôi tắm biển thì mẹ và anh chị tôi trở lại khu phố để mua đồ ăn vặt. Ba tôi ngồi trên bãi biển với cuốn sách để chờ anh em tôi, thỉnh thoảng lên tiếng nhắc chúng tôi đừng bơi ra xa quá. Thấy ba tôi ngồi một mình, tôi bước ra khỏi nước và ngồi xuống bên cạnh. Hình như cũng sợ ba tôi buồn, em gái tôi cũng chạy lên, vừa vuốt nước trên mặt vừa hỏi ba tôi:
- Biển đẹp há ba?
- Ừ.
Ba tôi đáp với nụ cười nhẹ. Em gái tôi hỏi tiếp:
- Ba à, con sinh ra ở Nha Trang. Ba nói Nha Trang là miền thúy dương cát trắng. Biển này có đẹp bằng biển Nha Trang không ba?
Suy nghĩ một chút, ba tôi nói:
- Biển này cũng đẹp lắm con. Nhưng thiếu mấy cây dừa, thiếu mấy xe bán nước mía, thiếu mấy gánh hàng rong, thiếu mấy con diều, đẹp lắm con, nhưng chắc chắn là không đẹp như biển Nha Trang đâu con.
Đưa mắt nhìn chung quanh, em gái tôi nói:
- Mới đầu con cũng thấy đẹp nữa. Nhưng nghe ba nói bây giờ con mới thấy nó trống trơn hà. Chỉ có biển và cát. Chắc đâu đẹp bằng biển Nha Trang ba há.
Và niềm hãnh diện dâng lên trong ánh mắt em tôi:
- Chắc chắn là hổng đẹp bằng biển Nha Trang rồi. Nha Trang đẹp nhứt mà, ba hả. Tại con sanh ra ở đó mà.
Ngó qua tôi nheo mắt chọc quê, em gái tôi lại quay bước về phía sóng biển. Ba tôi ngó theo em tôi và nói:
- Chuyến này về ba phải đi kiếm mấy cái hình ở Nha Trang cho Út nó coi. Ba qua mượn mấy bác. Chắc là còn.
Quay qua tôi, người hỏi:
- Còn con. Chuyến đi này con có ghi nhận được gì không?
Trầm ngâm một hồi, tôi đáp:
- Chuyến đi này con mới bật nhớ ra là con bây giờ ở Mỹ đã lâu hơn ở Việt Nam. Mười hai năm bên kia, mười hai năm bên này. Con còn thấy không có cái gì con nghĩ ngày trước còn giống như vậy trong tư tưởng con hôm nay nữa. Ngay cả chuyện đi tắm biển này cũng vậy ba à. Nếu đi tắm biển chỉ giản dị hiểu là vui sướng khi được đi tắm biển thì đâu có gì đáng nói. Không hiểu sao con lại bắt đầu so sánh mọi thứ bên này với những gì con nhớ hồi còn nhỏ bên nhà. Nhất là những câu hỏi của con Út. Nó làm con suy nghĩ nhiều ghê, ba à.
Ba tôi nhìn tôi gật đầu:
- Ba hiểu ý con. Qua bên này lâu quá rồi, mình cứ mãi mê sống ôm đồm cái chữ "giống như", con thấy không. Phố Bolsa giống hệt như khu chợ Việt Nam, trái cây rau cải bên này ăn cũng giống y chang như rau cải bên nhà. Cái gì bên nhà có, bên này cũng rán tạo ra cho giống hệt, từ đồ ăn đến cây cỏ. Riết rồi mình an phận sống ở bên này, miễn sao là nó giống hệt như bên kia là được rồi. Ba thì ba nghĩ ngược lại. Những cái thứ giống như bên nhà đó ba muốn cho con Út nó thấy, nó ăn để nó thấy cái gì hay, cái gì đẹp bên kia. Dù bãi biển ở đây có giống hệt như ở Nha Trang đi nữa, con hiểu không, ba cũng sẽ nói là nó giống nhưng không đẹp bằng bãi biển Nha Trang. Vì ba cũng thấy thế.
Tôi hiểu ba tôi lắm. Càng lớn tôi thấy mình càng xa lạ hơn giữa cái xứ này, nhất là khi tôi bắt đầu đi làm. Cuộc sống thực tế giúp và bắt tôi hiểu rõ hơn những gì trong tâm linh mà tôi chưa nhận diện ra ngày trước. Biết nó hiện hữu trong lòng. Những điều đó làm tôi thao thức. Và bứt rứt. Tôi nhìn qua ba tôi bây giờ, và nhớ những lần ba tôi ngồi chăm chú lặt rau cho mẹ tôi làm bún, hay lúc người chỉ em gái tôi cách bày dọn bàn thờ, nhang đèn vào những ngày giỗ mà tôi nghe lòng mình đau buốt. Ba tôi cứ nói với tôi trong những lần đó: "Để cho Út nó ăn cho biết" hay "Để cho Út nó làm cho nhớ". Hình ảnh đó phản chiếu hình ảnh ba tôi trong bộ quân phục suốt cuộc đời làm lính hơn hai mươi năm. Và tôi thương ba, thương mẹ tôi thật nhiều. Thương em gái tôi nữa. Trong cái thương có cái đau, cái xót. Nhưng chính những cái đau cái xót đó đã giúp cho tình thương trong tôi ngày thêm tăng trưởng.
Giọng ba tôi vang lên thật nhẹ bên tai, mắt người vẫn nhìn em gái tôi đang đùa giỡn với sóng biển:
- Con biết trong người ta ai ai cũng có những điều khó nói. Mà thường thì những điều khó nói lại là những điều làm mình khổ tâm. Con xem, ba làm sao mà cam phận nhận những cái "giống như" đó để làm lối sống được. Làm sao ba có thể dửng dưng với những câu hỏi của con Út. Vì chính ba mẹ đã cấy những câu hỏi đó vào lòng con Út, con biết chớ?
Nhìn tôi gật đầu, ba tôi nói thêm thật chậm rãi:
- Khi con Út nó hỏi như vậy thì ba phải kiếm cách trả lời cho nó, con hiểu không. Không bằng cách này, cũng bằng cách khác. Con biết những chuyện ba làm, những sinh hoạt của ba rồi đó. Ừ, thì có thể nó không đến đâu. Cũng có thể nó chỉ mang tính cách thổi kèn đánh trống. Hoặc có thể nó thật là tạm bợ và kém thực tế. Ba biết có thể ba sẽ chết bên này, nhưng ba không muốn buông xuôi hai tay nhận cái chết bên này mà chẳng hết sức chống đỡ. Cũng như ba không muốn nhận những cái giống-như-bên-nhà làm phương tiện để an phận sống bên này, con hiểu ý ba chứ?
Tôi chưa kịp gật đầu thì đã có tiếng của mẹ tôi gọi từ bãi đậu xe:
- Anh ơi, kêu con Út nó lên tắm rửa thay đồ để về cho sớm.
Ba tôi đứng dậy và đưa tay ngoắc em gái tôi vào bờ. Khi bước lại gần chúng tôi, em gái tôi hỏi:
- Bây giờ về hả ba?
- Ừ, thôi về con. Lại mẹ đưa đồ cho thay.
Em gái tôi bước nhanh về phía mẹ tôi. Từ xa, tôi nghe giọng cô nàng càu nhàu:
- Sao mình về sớm vậy mẹ? Sao không ở lại thêm chút nữa hả mẹ.
Mẹ tôi đáp lại:
- Thôi đủ rồi con. Móp tay hết trơn rồi mà chưa chịu lên nữa sao. Về sớm chút con. Nhà bỏ trống suốt cả tuần nay. Mấy giàn mướp, giàn khổ qua hổng ai tưới chắc là héo hết rồi.
Nhìn theo đôi bóng của mẹ và em tôi đang khuất dần sau ụ cát, ba tôi quay lại nói cùng tôi với nụ cười:
- Thôi con coi dọn dẹp cho sạch rồi thay đồ đi về. Kẻo trễ thêm vài... phút nữa chắc là tiêu tùng luôn cả cái vườn của bả.
Ba tôi bước theo mẹ và em gái tôi. Tôi đứng lên nhìn theo và chợt nghĩ đến những ngày sắp tới mà ba mẹ, anh em tôi vẫn sẽ phải tiếp tục vô sở đi làm. Và tôi ngạc nhiên với chính mình. Giờ đây, tôi không còn cảm giác ngán ngẫm hay chán chường như mỗi khi tôi nghĩ đến vấn đề này nữa. Qua bên này ai cũng vật lộn với cuộc sống vật chất gần như tắt thở. Gặp nhau mỗi lần nhắc đến công ăn việc làm là sẽ nhìn nhau ngao ngán thở dài. Riết rồi tôi thấy hình như ở xứ này người ta chán chường cuộc sống đến mức có thái độ sợ sống. Ở bên nhà thì sợ chết, chạy qua bên nay lại sợ sống. Người ta lo kiếm sống. Sống chỉ để duy trì cuộc sống. Đến độ quên cả mình đang sống. Thật là mâu thuẫn. Và tôi tự nói với chính mình - Sợ chết không sợ thì thôi, nhất định tôi không sợ sống, và cũng không sợ luôn cuộc sống.
Chợt nghe chân mình nóng rát, tôi vội dọn đồ đạc còn bỏ sót lại trên cát rồi bước nhanh về phía bãi đậu xe. Tôi biết mình sẽ bị phỏng chân nếu tôi còn đứng lại nơi này lâu hơn nữa.
Vâng, tôi biết mình đã đến. Và đã đứng nơi này. Đã lâu lắm rồi.
npn
Văn Học 1987, chép lại và bổ túc tháng 1, 1996
Remembrance of a Trip to Vietnam
Introduction: This essay is according to the memory of a Kindergartener who went to Vietnam in 1988 when she was 5. She wrote about the trip the way it appeared to her at the time.
The airplane trip had been horrible. The food was mushy spaghetti, stale bread and limp broccoli. During the whole ride my leg ached from the shots I had gotten, and they sweated from sitting in the same place the whole day. I was a little hyper, considering I was only 5. The only good thing was the view. I saw white and fluffy clouds during the day and millions of lights next to a dark ocean in the night. I was hoping that Vietnam would be more exciting. As I walked down the runway, it was light out and the clerk stamped our passports and hurried us along.
My mom led me on a cart that was powered by an old man on a bicycle (cyclo). The ragged cloth tent over us wasn’t very helpful since we were facing the burning sun. I looked out the cart as the man pulled us through the busy streets. The blazing sun’s rays hit my face with such warmth, that I thought I was being roasted. I felt a little more uncomfortable when the cart went through a bumpy road, but the scenery was magnificent. My mother whispered in my ear that we were going through the countryside. There was a sea of grass and rolling hills.
The plains were alive with greenery but then I saw something very peculiar amidst the beauty. In the distance there was an old shack with only enough wood for three walls to shelter a small cart like the one I was riding. In a joint room, with four walls, there was a doorway with a open rickety door. Inside I could see a bed made merely of sheets piled on top of one another. In the front, there was an old man sitting in a chair consisting of a wood board supported by two rocks. He was wearing a dirty and ripped cloth shirt and pants pulled up to his knees. He had a ragged handkerchief tied around his head. The little hair he had stuck out in different directions, and was as white as the cotton patched over his wounded knee. His skin was very dark and he was thin and scrawnỵ He looked like he hadn’t eaten for weeks, but he seemed content with his surroundings as he stared and smiled his blackened teeth at me (the peasants in Vietnam blackened their teeth with a special dye, believing they wouldn’t get cavities). I was strangely fascinated by the spectaclẹ It was very curious, to me, that the man should be so happy, when he had so little.
As we journeyed on we reached my grandmother’s apartment house made of concrete walls and floors. I looked around and my aunt in law greeted me hello. She hugged me tightly and my little cousin, Thuy Dung, was in her arms looking about my own sister’s age, seven. She was in a cute little dress that was frayed at the edges but otherwise brand new. I knew my mother had bought her this because my mother’s family couldn’t afford many luxuries. The kitchen warmed the entire apartment as my aunts cooked rice for dinner. It was easy to get food because the market was across the street and the street past that one. The room would be filled with the smell of rice and sometimes beef or steamed cabbage. The kitchen was one of the three room apartment. The other room had a single dirty bathroom adjoined with a larger room containing 2 mattresses and a small table. The last room was the best in the house, occupied by my grandmother. In there was a bed (not just mattresses). I slept on the floor with my mother. The only thing special about the room was that it was the only one with an electric fan. I believe the fan was the only electrical appliance in the house because there was no phone.
One day, my cousin Hoang, who was around 17, took me out of the steaming apartment and brought me up through the apartment above us and up to the roof. The apartment building was only two stories. We sat on the roof and watched the merchants sit in corners and sell sweet rice, fruit, handmade hairbows, small pots and juice from sugarcane. They had their merchandise displayed on a cardboard box. In small areas of the streets there were mini versions of a restaurant, consisting of a single cook and one serving table all outdoor. They sold noodles with beef, rice with pork or chicken, and a variety of soups. The restaurants were so cheap because the people in Vietnam couldn’t afford high prices from their meager salaries. A large bowl of soup had the cost of a quarter at most, compared to the same soup sold here (US) for three dollars at the least. I could see people eating in the streets, smiling and conversing. Women had on long black pants and a long sleeved shirt. Both were thin in material because of the hot weather. They made up most of the merchant population. We didn’t stay up their very long because the sun’s rays would heat and burn our backs.
My aunt-in-law played with me all the time. My mother went to the store across the street to buy me cooking toys. My aunt entertained me by pretending to be a customer in my make-believe restaurant. Along with my cooking toys, I had forks, chopsticks, napkins and spoons. She would sit in the room while my cousin would sleep on the bed. I would sit opposite to her and she would order what she wanted. Most of the time she would order ‘Mi’ a yellow noodle in a salty stew or ‘Pho’ a white noodle in beef soup. I would pretend to pour it for her but would ađ a spoonful of spicy peppers. She would, of course, scream out as though she had burned her tongue and call for a glass of water. She and I would laugh over what happened and we would do it all over again. This was about all the entertainment I had in Vietnam.
I also learned that a country didn’t have to be rich to be beautiful. Once, my mom and I went with a few distant relatives to a peaceful countryside like the one I had seen when entering the country. The air was much, much cooler there, and the landscape was breathtaking. The hills were covered with small, scattered flower patches. The sky loomed above the mountains that looked superior above the low, flat land. The greenery was plentiful with several palms near the edge of the grasslands. We also went to a tourist stop, where the festival of the new year took place. This was the beginning of fall so no festivities were taking place. Nevertheless, the scene was remarkablẹ There was a small wooden bridge that went across a charming pond. On the water’s surface floated many small lilies, with the flowers blooming with pink. The calm pond was very relaxing to look at, especially with the surrounding gardens. The gardens were grandly decorated with flower covered fences and numerous herb patches. The flower’s fragrance filled the atmosphere with a sweet smell.
I was sleeping with my leg and arms covered in mosquito bites. They were very annoying because every time I sweated I would think I was bleeding from scratching the itch too much. One night all the lights in the city went out from an electricity shortage, but it was more than that because not only were the rooms dark but it was also dark outside. My mom woke me up and asked me to join the family gathering to observe the dark sky. It was like a celebration although it was a cloudy night and no moon. The people came out of their houses and apartments and sat in chairs in front of their houses. People sat down to enjoy the darkness of the night. Some talked and some just sat quietly and stared at the skỵ I had never seen such pitch darkness, and it felt strange because I couldn’t tell if my eyes were closed or not. I noticed the happiness in the people, marked by their shadowed, yet happy faces.
I could tell the financial trouble my country was in, but I could also tell the contentment in the people. I knew that the old man had a reason to be smiling, and that was because he was satisfied with himself because he had accepted his life (even found a little happiness in it) without relying on wealth. I could also understand the grins on the faces of the people. The financial and economic state of their country had brought them together. They lived as a country through all the suffering and the problems. I learned that Vietnam was not a place in which I should be ashamed of. Actually I am far from it. I am glad that I had visited Vietnam because, I knew now where I had come from.
Tu-Quyen Pham
November 30th, 1995, Waizinger Period 3