vhnt, số 166
27 March 1996
Trong số này:
thư bạn đọc vhnt .......................................................
T h ơ :
1 - Quan họ ngày thơ ........................................Chuy Sước
2 - Xin em hãy làm một cánh diệp chi ...............Trần Thái Vân
3 - Mười năm yêu em ........................................Ðức Lưu
4 - Chiều trên bờ biển South Carolina .................Phan Lê Dũng
5 - Giới thiệu thi ca thế giới:
Jacques Prevert: Barbara ...............................Viên Linh dịch
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c / T i n Ð i ệ n Ả n h :
6 - Những sự lạ trong làng thơ hôm nay ....................Ngô Minh
7 - Giải Oscar 68: Ai thắng ai bại ?.. ............Nguyễn Tiến Dũng
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Tạm Dung ..............................................Bùi Thanh Liêm
Trong số vhnt vừa qua, có vài chỗ sơ xuất về Ðinh Hùng. Chẳng hạn như:
- Họa sĩ Lê Thị Lựu chứ không phải Nguyễn Thị Lựu. Xin xem thêm bài về Lê Thị Lựu đã đăng trong VĂN HỌC (California) năm 1988 khi bà qua đời.
- Ðinh Hùng còn có biệt hiệu là Hoài Ðiệp hay Hoài Ðiệp Thứ Lang,nghĩa là nhớ Hồ Ðiệp, người chồng thứ nhì.
- Ðinh Hùng và Huyền Kiêu là hai người bạn thân, đều "mê" bà Lê Thị Lựu cũng như nhiều học trò trường Bưởi thời đó. Hai người cùng làm bài thơ tặng bà khi bà qua Pháp năm 1940:
Kính tặng chị Lựu
Ngày mai chị đi viễn du
Ðường xa lộng muôn hương sắc
Chúng em ở nhà nhớ chị
Lòng sầu đầy một mùa thu
Chị ở muôn trùng biếc ấy
Hẳn chờ bóng nhạn phương xa
Ngày về, mong sao chị thấy
Ðời hai chúng em có hoa
Chị đi, ngàn xuân chẳng hiếm
Hai em dâng chị không nhiều
Mấy áng hương hồng kỷ niệm
Linh hồn Hoài Ðiệp, Huyền Kiêu
Tây Hồ 8 Mars 1940
(trích tập thơ chép tay của Ðinh Hùng và Huyền Kiêu, chép tặng Lê Thị Lựu)
- Và nhân nói đến Huyền Kiêu, họa sĩ Bùi Suối Hoa, con gái nhà thơ, gửi tặng bạn đọc vhnt yêu thơ:
Ðêm vắng lặng
Mình với mình
Bức tường lạnh
Mảnh trăng suông
Nhắm mắt, đầy ảo mộng
Mở mắt, lòng quạnh cô
Soi đuốc, ngày tìm bạn
Thoáng hương đêm
Cung đàn lạc
Mình một bóng
Ngày qua ngày...
Cát bụi, bụi cát mà thôi .
Hà Nội 1985 - Paris 1996
Hi vọng rằng sau này Suối Hoa về Saigon, sẽ có dịp gửi sáng tác của mình đến vhnt
- Cuối cùng, xin báo tin cho các bạn yêu tranh là Bùi Suối Hoa hiện đang triển lãm tranh tại Paris.
Thân kính.
LTL
oOo
Câu hỏi về bài viết của Khánh Ly
Cách đây khoảng 5 năm tôi có đọc trích đoạn một bài viết rất hay của Khánh Ly, tên là Viết Cho Người Ở Lại. Nhưng thật tiếc tôi không còn nhớ là đã đọc ở đâu, mà chỉ nhớ được đoạn đầu: Tôi là gái Bắc, lớn lên ở Sài gòn, nhưng lạ lùng làm sao, tôi không nhớ Hà nội bao nhiêu, không yêu Sài gòn lắm mà chỉ xót xa đến Huế. Huế nghèo, thành phố chỉ vài con đường chính, Huế lạnh buốt, lạnh từ lòng lạnh ra. Dường như Huế chỉ đẹp và thực sự huyền ảo, nên thơ bởi những nghệ sĩ viết về quê hương của mình...
Các anh các chị có thể cho tôi biết được bài viết này đăng ở đâu không ? Hoặc nếu có thể, thì đăng lại trên VHNT cho mọi người cùng thưởng thức.
Xin chân thành cảm ơn.
Ðinh Nho Hào
Quan Họ Ngày Thơ
Nón thúng quai thao nép nửa mày
Nghênh xuân chị hát đếm giêng hai
Lúng liếng trầu cay má đỏ
Ánh trăng mơn la lả phụng đêm dài
Ấy bởi ai ơi khúc khoan khúc nhặt
Dải lụa hồng cởi thắm bắc cầu duyên
Ấy bởi ai ơi qua cầu bay yếm
Phụng phịu em hờn chẳng lớn hát liền anh
Níu áo theo chân em học đòi câu hát
Cũng ơi a người ở đừng về
Miếng trầu xinh chị mời em khuya ấy
Xé môi em cay suốt tuổi xuân thì
Em đi bỏ lửng lưng câu hát
Chị thả năm sau dải lụa đào
Kết võng xe mây xứ lạ
Hồ vương cay mãi thoáng xưa nào
Chuy Sước
Xin Em Hãy Làm Một Cánh Diệp Chi
Mai em vào giáo đường xem thánh lễ
Xin em đừng đưa mắt liếc người ta
Anh biết rằng em mới tuổi mười ba
Yêu muốn lắm nên thờ ơ chuyện Chúa
Mai em có ra vườn thương lá úa
Xin em đừng ngõ mắt ngó nhà ai
Ðường tình em đi nhiều lắm, còn dài
Ðừng nói tiếng yêu đương quá vội
Mai em có áo hồng đi dạ hội
Chớ tô son cho đỏ một bờ môi
Khi em chùi tất cả sẽ cùng trôi
Ðến lúc ấy em sẽ buồn, tiếc lắm!
Anh muốn em cài cành hoa tím thẳm
Trên tóc huyền như cô gái mười ba
Phấn em không cần vì những làn da
Ðã quá trắng như muà xuân trinh bạch
Em là thiên thần thành thân nữ thạch
Nghiêng mái đầu một thế giới nghiêng theo
Tiếng của em như tiếng suối trong veo
Em hãy giữ đừng cho đời vẫy đục
Sắc nước, hương trời ngàn trang cổ lục
Hoạ hồng nhan, bạch thủy tích còn ghi
Xin em hãy làm một cánh diệp chi
Ðể sau này không đọc kinh sám hối
Và mai đây đi nhà thờ xưng tội
Xưng giùm anh, em chẳng tội gì đâu
trần thái vân
Mười Năm Yêu Em
Mười năm trước,
Tôi quay bước
Ra đi.
Chẳng dám chia tay
Chẳng hẹn ngày
Trở lại.
Lặng lẽ trao em
Tập thơ tình ưu ái
Thẹn thuồng,
Ngần ngại
Viết tên em
Trên giấy
Trinh nguyên,
Giữ hộ tôi
Tình vụng dại
Nghe em!!!
Em dạo ấy,
Thuở còn con gái
Tóc quyện mùi
Bồ kết
Bay sang,
Tôi thẹn thùng
Cửa sổ
Trông ngang,
Mặc giờ Triết
Tiếng thầy oang oang
Vẫn giảng...
Tôi dạo ấy
Vẫn hằng ưu ái
Giờ Luận-văn.
Ðôi mái
Ðầu xanh
Bẽn lẽn nhìn
Vụng trộm
Trao nhanh
Lời thầm kín
Còn ngại ngùng
Gói ghém...
Mười năm sau
Ðất lạ gặp nhau.
Em lặng lẽ
Cúi đầu
Quay gót.
Chẳng lời chia tay,
Chẳng hẹn ngày
Gặp lại
Từ trong mắt em
Một chút gì
Ưu ái,
Nghẹn ngào,
Thương hại.
Ðôi bờ môi
Mấp máy
Rung hơi,
Trả trao tôi
Tập thư tình
Trong trắng
Tinh khôi.
Tự trong em,
Có điều chi muốn nói
Rồi ngập ngừng,
Bối rối,
Lặng im.
Giòng lệ buồn
Se sẽ
Lăn êm...
Tự trong tôi
Cũng nghẹn ngào, đau nhói
Cũng ngỡ ngàng,
Bối rối
Lặng im.
Mặc tiếng lòng
Rạng vỡ
Trong tim...
Mười năm nay,
Vẫn chẳng phôi phai
Hương tóc đượm
Ngọt mùi
Năm ấy...
Tôi vẫn như xưa
Lặng thầm,
Ưu ái
Viết tên em
Trong tiếng lòng tôi
Cùng tập thư tình
Trong trắng,
Tinh khôi
Dù nhạc lòng
Tuy chẳng giữ hộ tôi
Một chút tình,
Chỉ chút tình
Vụng dại,
Ðơn côi...
Ðức Lưu
Chiều Trên Bờ Biển South Carolina
Nhẹ trôi vào quá khứ
Một ý nghĩ xa vời
Mặt trời chiều khuất vội
Le lói dúm đơn côi.
Mưa hay là mây dạt?
Một màn trắng xa mờ
Sóng hay chiều đang gọi
Ðàn hải âu bơ vở
Tiếng đàn hay tiếng nắng
Ðang đạo khúc đêm vệ
Âm ba còn say đắm
Réo gọi chút đam mê
Trong không cùng thiên thể
Một ý nghĩ khô cằn
Rơi sâu vào lòng đất
Buồn tênh và lặng câm.
Phan Lê Dũng
Barbara
nguyên tác: Jacques Prévert
Nhớ chăng em Barbara
Mưa rơi hoài xuống Brest thửơ xa xưa
Và em bước đi tươi cười
Rực rỡ hân hoan ướt xối
Dưới cơn mưa
Nhớ chăng em Barbara
Mưa rơi hoài xuống Brest
Và tôi đã gặp em ở phố Siam
Em cười
Và tôi cũng mỉm cười
Nhớ chăng em Barbara
Em, người mà tôi chưa được quen
Em, người chưa hề quen biết tôi
Nhớ chăng em
Dù sao đi chăng nữa nhớ đi em ngày đó
Ðừng quên em
Một người đàn ông trú mưa dưới vòm cổng lớn
Và chàng đã gọi tên em
Barbara
Và em đã chạy đến với chàng dưới cơn mưa
Rực rỡ hân hoan ướt xối
Và em đã ngã vào tay chàng
Hãy nhớ lại điều đó Barbara
Và đừng giận nếu tôi gọi em bằng "Em"
Tôi "anh anh em em" với tất cả những người tôi yêu
Dù tôi chỉ gặp họ có một lần
Tôi gọi là anh em tất cả những người yêu nhau
Dù tôi không hề quen biết họ
Nhớ chăng Barbara
Xin đừng quên
Cơn mưa hiền hòa và hân hoan ấy
Trên khuôn mặt em hân hoan
Trên thành phố hân hoan đó
Cơn mưa trên biển
Trên xưởng đóng tàu
Trên con tàu từ Ouessant
Ôi Barbara
Chiến tranh thật là chó đẻ
Em bây giờ ra sao
Dưới cơn mưa sắt thép
Máu lửa kinh hoàng đó
Và người đàn ông đã ôm em trong tay
Ðắm say
Chàng đã chết biệt tích hay vẫn còn sống sót
Ôi Barbara
Trời vẫn mưa bay trên thành phố Brest hôm nay
Như trời đã mưa thưở nọ
Nhưng khác xưa rồi và tất cả nay đã điêu tàn
Cơn mưa hôm nay tan tóc khủng khiếp và tiêu điều
Cũng chẳng phải là giông tố nữa
Của sắc thép máu lửa bời bời
Mà chỉ là những đám mây
Những đám mây chó sẽ chết như những con chó
Những con chó đang biến mất
Trong thác lũ đang đổ xuống
Và trôi đi thối rữa ở nơi xa
Ở nơi xa rất xa vùng Brest
Ðể chẳng còn lại gì .
Viên Linh chuyển ngữ
Hoa và Rượu, Mới và Cũ
Tôi vẫn hằng tin rằng thơ như rượu. Rượu thì từ cổ xưa tới giờ vẫn rượu ấy, men ấy. Say cho tận cõi chân tâm. Rượu ta, rượu Tây vẫn là rượu ấy, khó nhầm! Tôi cũng hằng tin thơ như hoa. Như cây cỏ, mỗi hồn người khai nở một hương sắc riêng, chẳng giống nhau bao giờ. Nhưng tất cả vẫn là hoa ấy. Ðã rượu thì có rượu nặng, rượu nhẹ, rượu gạo rượu nho. Ðã hoa tất có hoa gốc dại, hoa lai giống, ghép cành. Lai giống ghép cành tạo ra hoa ấy, những bông hoa lớn hơn, hương sắc quyến rũ hơn. Nhưng vẫn là hoa ấy, cái đẹp vĩnh cửu ấy!
Cái sự rượu và hoa ấy thật tự nhiên. Thơ cũng vậy. Có thơ cổ, thơ mới, thơ ta, thơ tây. Lại có thơ lai giống mà thành. Ðã là lai tạo tất có tốt có xấu, có thất bại, có thành công. Thơ Mới (1933-1945) là đứa con xinh đẹp, quyến rũ của sự lai tạo lớn giữa thi nhân Việt Nam với nền thơ Pháp thế kỳ 19. Thơ mới lên ngôi thống soái thi đàn Việt ngoài cái mới, cái lạ, cái hay nhiều người đã bàn đã nói, nó còn chứng tỏ một điều thật hệ trọng ít người để ý: đó là một sự thật đồng điệu lớn trong tâm hồn thơ Ta và thơ Tây! Ấy là sự gặp gỡ của người-thơ-nhân loại!
Thơ Mới rồi cũng cũ đi, vì con người luôn đi tìm chính mình ở phía trước. Ở phương Tây, ngay khi các nhà thơ Việt Nam tiếp cận với nền thơ lãng mạn Pháp thì có nhóm thơ đã từ bỏ loại thơ sụt sùi sướt mướt này để tìm đến những cách tân trong thơ. Thơ họ dồn nén hơn, khách quan hơn, mạnh bạo hơn và trần trụi hơn...
Sự đề xướng loại thơ không vần những năm 50 ở miền Bắc mà đại biểu là Nguyễn Ðình Thi, Trần Dần, sự táo tợn, mạnh bạo trong ngôn từ và cấu trúc trong thơ Thanh Tâm Tuyền ở miền Nam những năm 60 đều đã gây dị ứng đối với nhiều người làm thơ, kể cả các nhà thơ tiền chiến mà trước đó trên chục năm họ là lớp tiên phong đổi mới trong thơ. Cho đến tận hôm nay, nhiều nhà thơ, nhiều tập thơ có cách biểu hiện lạ, hoặc mạnh bạo, trần trụi, hoặc khai thác những khu vực mới của tâm trạng v.v...đều bị nhiều người chê bác bị "đánh" tới tấp trên một số báo là "lai căng", "thơ dịch", "bí hiểm", "hũ nút", "dâm ô", "thơ tục", v.v... Sao chúng ta không bình tĩnh , công bằng, độ lượng hơn với những tìm tòi, thể nghiệm như thế? Sự ra đời của Thơ Mới 60 năm trước không là bài học quí hay sao?
Một và Tất Cả
Ðọc tuyển tập "Những gương mặt thơ mới" gồm 2 tập (NXB Thanh Niên 1994) tôi chợt phát hiện ra một sự lạ lý thú. Hai tuyển tập với 1000 trang in thơ và phát biểu của 173 tác giả (chưa là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, nên mới gọi là gương mặt mới). Trong phần tự bạch hai phần ba số tác giả (trên 100 người) cho rằng thơ hiện nay là "lạm phát", "dở" thơ in báo nhiều nhưng không khác gì hàng nội hóa ế ẩm". Có người ví "thơ hiện nay như mì ăn liền", "thơ thông tấn", "thơ dởm". Thậm chí có một số tác giả trẻ chưa từng có tên trên thi đàn bao giờ, nay được tuyển vào tập cũng lớn tiếng chê thơ hôm nay! Sau khi "phán xét" nền thơ chung, tất cả các "gương mặt thơ mới" ấy đều khẳng định rằng, họ cố gắng có được tiếng thơ "đích thực". Có nghĩa là cái nền thơ thì dở, chỉ hay nhất họ là "chân thơ" có nghĩa là "trừ họ ra", tất cả đều xoàng cả.
Ôi có được một hai tác giả thơ "đích thực", "chân thơ" như thế thật diễm phúc cho nền thơ Việt Nam! Nhưng đọc cả trăm nhà thơ ai cũng lớn tiếng "chê" thơ chung và tự nhận mình là thơ đích thực như thế mới té ngửa rằng: Ở xứ ta tất cả các nhà thơ đều dở, trừ một người, đó là người đang "phán xét thơ". Nhưng oái ăm thay, cả nhà thơ duy nhất đó lại bị 99 nhà thơ khác xếp vào loại thơ "dởm"! Có nghĩa rằng các nhà thơ Việt Nam ta tất cả đều "siêu thơ" "thật" thơ và tất cả đều "thơ mì ăn liền", "ế ẩm"! Tôi thật sự hoang mang khi sự lạ lùng buồn cười nói trên có cả trên trang "thảo luận về thơ" của báo Văn Nghệ. Nhà thơ nào cũng phán quyết, chê bai thơ hiện nay, trừ anh ta ra! Cái tương quan "một và tất cả" này xin các nhà thơ lý giải dùm cho! Biết tin ai đây!?
Thơ và Giải Thưởng
Nhìn lại phần thế kỷ 20 đã qua, chưa bao giờ ở nước ta lại nhiều cuộc thi thơ, nhiều giải thưởng thơ như mười năm lại đây. Báo trung ương thi thơ, báo địa phương cũng thi thơ, báo Tiền Phong thi thơ, báo Phụ Nữ cũng thi thơ. Ðã thi là có giải thưởng. Lại có loại giải thưởng định kỳ hàng năm, hàng năm như giải Văn Học Hội Nhà Văn Việt Nam trao hàng năm. Giải thưởng văn học miền núi, giải thưởng văn học thiếu nhi, văn học công nhân (!)... Năm rồi lại có giải của Hội Liên Hiệp các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam trao cho các tác phẩm xuất sắc của các hội viên địa phương (!?). Trung ương có giải thưởng văn học, các tỉnh cũng có giải thưởng văn học cấp tỉnh ví dụ giải thưởng văn học Hùng Vương của Vĩnh Phú, giải thưởng văn học cố đô Thừa Thiên - Huế, "Nguyễn Du" của Hà Tĩnh, Hạ Long của Quảng Ninh... Có thể nói không ai thống kê hết các giải thưởng văn học nghệ thuật mấy năm qua. Như vậy thơ được thẩm định, được bình giá, được xếp hạng ngôi thứ liên tục và các nhà thơ được giải cũng nhiều không kể xiết.
Ở địa phương nọ, tôi thấy trong mấy năm qua có chục anh chị làm thơ, lần lượt người nào cũng được giải thưởng không cuộc thi này, thì cuộc chấm khác. Thế là cuối cùng thơ ai cũng đương nhiên thuộc loại "thơ được giải" (tức thơ hay)! Nhìn rộng ra cả nước cũng vậy, trong chục năm qua, có tới hai phần ba số hội viên thơ của Hội Nhà Văn Việt Nam đã được lên ngôi do giành được các giải thưởng về thơ ở trung ương, địa phương, các cấp, các ngành, các báo. Ðương nhiên cuộc thi thơ nào cũng "rất công tâm" và "vì nghệ thuật"! Cũng cần nói thêm là nhiều loại giải thưởng văn học (trong đó có thơ) như thế cũng phát triển với kinh tế thị trường. Giá trị vật chất các giải thưởng thơ ngày càng "đậm đà" hơn. Từ 2 triệu, 5 triệu một giải nhất cách đây ba năm nay đã lên tới 10, 15 triệu! Hàng tốt thì giá phải cao chứ ! Như vậy là thơ ta đang phát triển ! Cứ nhìn đội ngũ trùng điệp các nhà thơ nhận được giải thưởng của xứ ta ai dám bảo thơ không phát triển!?
Ấy thế mà lạ lùng thay, nhà thơ, nhà phê bình nào cũng kêu ca, la ó về nền thơ làng nhàng, chỉ biết "ăn theo" trên các trang báo. Có điều gì đó bất ổn, chính xác hơn là sai lạc ít nhất là một trong hai phía. Các nhà chấm giải và các nhà phê bình, phán xét thơ. Còn bản thân thơ thì cố nhiên nó vẫn thế, chưa có cuộc cách mạng thực sự nào trong thơ từ Thơ Mới đến nay! Biết ai đúng ai sai mà phân sử đây?
Ai là "Nhà Thơ"?
"Nhà thơ", hiểu nôm na là "người làm thơ", cũng như "nhà nông" là người làm ruộng, "nhà giáo" là người dạy học. Ấy là cách gọi tên theo công việc làm. Cái danh xưng "nhà nông" ấy không hề có các thứ bậc kèm theo như "nhà nông trung ương", "nhà nông địa phương", "nhà nông trẻ", "nhà nông mới"... bao giờ cả! Nhà nông ít chữ nghĩa họ lại hiểu rất đúng chữ nhà nông của mình, còn các nhà văn thì sao? Xin thưa, đây là sự lạ ! Nhà thơ An Nam có "nhà thơ trung ương", "nhà thơ địa phương", "nhà thơ trẻ" , "những gương mặt thơ mới"! Tất cả đều được xếp ghế, xếp chiếu rất cẩn trọng như các loại cấp bậc nhà binh hay học hàm học vị trong khoa học. Do sự xếp ghế, xếp chiếu ấy mà "các nhà thơ trung ương" có cách ăn nói, phán xét theo một ngôn ngữ riêng phù hợp với "địa vị cao" của mình. Sự lạ ấy ai cũng biết từ rất nhiều năm nay nhưng ai cũng tuân thủ không chống lại. Buồn hơn là không ai ngạc nhiên với điều đó cả.
Lạ lùng hơn nữa là có "một qui định không thành văn" nào đó, không hiểu xuất phát từ ông "quan thơ" nào, người ta chỉ gọi những người làm thơ là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam hiện nay là NHÀ THƠ, còn những người làm thơ khác đều không phải ! Xin nêu một ví dụ sốt dẻo nhất. Trong tuyển tập 2 tập ngàn trang "những gương mặt thơ mới" mà tôi có nhắc ở trên, nhà xuất bản và những người tuyển chọn đã xếp cá nhà thơ có tên tuổi ở miền Nam (cũ) như Bùi Giáng, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tuệ Mai... vào "những gương mặt thơ mới" tức là lớp "đàn em", mới phát hiện ra hay mới xuất hiện! Thực ra các ông Bùi Giáng, Nguyên Sa... đã là nhà thơ nổi tiếng trong những năm 60 của thế kỷ, khi mà nhà thơ Việt Nam (tức của Hội Nhà Văn Việt Nam) chưa biết thơ là gì! Tôi là một người làm thơ đi học và trưởng thành ở miền Bắc cũng thuộc được đôi bài của Bùi Giáng, Nguyên Sa... từ mấy chục năm trước, sao lại gọi là "gương mặt Thơ mới" ? có phải tại các ông không là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam? Lạ thật! Lạ thật !
Thảo Luận là gì ?
Có ai đó thống kê rằng ở xứ ta mỗi ngày bình quân có 2 tập thơ được ấn hành. Có nghĩa là mỗi năm khiêm tốn cũng có tới 600 tập thơ. Ðó là chưa kể thơ in trên 350 tờ báo và tạp chí trong nước, thơ của người Việt ở hải ngoại. Nhiều người gọi thời kỳ này là "giai đoạn bùng nở thơ". Có người lo rằng "thơ bị lạm phát", bị xuống giá. Có người lại mừng: "có bó đũa ắt có cột cờ". Người già trong làng thơ (hoặc sắp vào tuổi hết sáng tạo thơ) thì ca cẩm thơ lớp trẻ thiếu vốn sống, thiếu chiều sâu và sự điềm đạm, thiên vào xảo thuật chữ, ngoa ngôn! Lớp trẻ lại ngán thơ lớp già cứ giữ mãi điệu "ru em" vần vè ê a. Cũ, cứ như đạt lời mới cho các làn điệu dân ca đã có sẵn từ ngàn năm ! Thế là thảo luận, tranh luận. Thế là sừng sộ, đao búa chan chát. Cuộc chiến không có hồi kết cuộc trên các mặt báo!
Trong lúc đó một hiện tượng lạ xuất hiện trong thơ mấy năm gần đây lại rất ít nhà phê bình chú ý phân tích: đó là sự trở lại của thơ tình "kiểu tiền chiến". Buồn chán, ủ ê, đau khổ, tuyệt vọng, sướt mướt. Loại thơ tình (nam nữ) này chiếm trên hai phần ba số thơ ấn hành hàng ngày! Những người đang yêu làm thơ tình đã đành, những người không có mảnh tình rách cũng làm thơ tình! Ðến cả các nhà thơ già chống Pháp, các nhà thơ "tiền chiến" bảy tám chục cũng trở lại với thơ tình! Phải chăng chúng ta đang ở xứ sở của tình yêu? Tôi không phản đối thơ tình. Nhiều thơ tình càng tốt chứ sao! Nhưng tôi thấy lạ là những bài thơ thể hiện thiên chức công dân của nhà thơ, những bài thơ chiến đấu cho sự công bằng xã hội, chia sẻ số phận đắng cay của người lao động trước sự áp bức của bất công và cường quyền; những bài thơ thế thái nhân tình... từng nở rộ trong những năm đầu "cởi trói", "mở cửa" bây giờ thấy thưa vắng, hiếm hoi dần đi. Vì sao vậy? Có phải là các nhà thơ Việt Nam không tiếp cận được với xã hội thời kinh tế thị trường đang phân cực quyết liệt, nhiều nguy cơ mới đối với nhân phẩm và đạo lý đang xuất hiện và tác oai tác quái? Có phải các nhà thơ đã hèn kém đi, ích kỷ hơn, hay tại môi trường sáng tạo đã đổi khác? Xin mạo muội đặt một câu hỏi lớn ở đây để các nhà lý luận, phê bình, cá nhà thơ cùng nhau thảo luận. Hãy thảo luận điều gì là cho thơ có ích hơn với đời, với người, với chính sự bùng cháy kỳ diệu của thi ca tự do!
Ngô Minh
Huế, 10-9-1994
(trích Sông Hương 10-94)
Ðáng lẽ bài này đã ra mắt các bạn trong số vhnt 165 sáng thứ hai 25/03/1996 cho kịp tính thời sự, nhưng vì vài nguyên nhân kỹ thuật nên đã không kịp đăng. Tuy nhiên, để các bạn có thể so sánh tỉ lệ ước đoán chính xác của tác giả với sự thật, tôi yêu cầu Chi Lan cho đăng bài này, sau khi đã thêm phần kết quả chính thức ở phía sau.
Dung Nguyen
Tối thứ hai, 25 tháng 3/1996, sẽ là đêm tuyên bố những ai sẽ được giải Oscar lần thứ 68 (Annual Academy Awards). Ðương nhiên, theo truyền thống sẽ có nhiều lời bàn ra tán vào về những ứng viên được đề cử vì theo ký ức gần đây những ứng viên cho giải Oscar năm 1995 quả là tập hợp được bầu phức tạp nhất từ trước tới nay. Sau đây là những tiên đoán về những ứng viên sẽ được giải Oscar năm nay:
- HÌNH ẢNH ÐẸP NHẤT - Những phim lạ nhất trong những cuộc chạy đua năm nay, "Appolo 13" và "Sense and Sensibility" là những ứng viên tự nhiên- một phim thì được đám đông yêu thích, còn phim kia thuộc loại có giá trị văn hoá và văn chương- nhưng đạo diễn cho cả hai phim này không ai được dề nghị, chứng tỏ cơ hội cho họ không có nhiềụ "Il Postino " (The Postman) là phim ngoại quốc thứ tư từng được đề cử cho loại phim này: Những phim được đề cử lần trước chưa hề được giải, kể cả phim này cũng vậy. "Braveheart" là một thiên anh hùng ca rất gợi cảm, dài ba tiếng với số người đóng hơn hàng ngàn, nhưng điều hay nhất về cuốn phim này là những diễn trình của trận đánh đẹp mắt với những cảnh đổ máu thi vị Còn lại là phim "Babe", một phim về một con heo biết nói cứ nghĩ mình là một con chó nhút nhát.
1) Phim phải dọat giải (Should win): Babe. Ðây là phim ngụ ngôn đầy tưởng tuợng với những phép lạ thực hiện bởi một bầy gia súc được nhân cách hoá (bảo đảm quí vị sẽ không nghĩ đó chỉ là những hình nộm. Babe sẽ hành động nhiều hơn Arnold của "Green Acres", nói nhiều hơn Wilbur của "Charlottés Web", và xinh hơn Porky Pig. Có lẽ kỹ nghệ về thịt ghét phim này, nhưng mọi người khác xem phim này đều thích. Ðó là phim con nít làm say mê, rung động mọi lứa tuổi.
2) Phim sẽ đoạt giải (Will win): Babe. Nếu bạn có thể bỏ phiếu, chẳng lẽ bạn không bỏ cho phim này ?
- DIỄN VIÊN NAM HAY NHẤT- Sự kiện diễn viên Massimo Troisi qua đời 12 tiếng sau cảnh cuối của phim "Il Postino" được quay chỉ làm tăng thêm phần đau thương cho vai diễn người đưa thư bị thất tình của ông. Nhưng ông sẽ không thắng. Richard Dreyfus cũng vậy, dù đóng rất hay trong phim "Mr. Holland's Opus". Anthony Hopkins đóng rất đạt trong vai Richard M. Nixon xấu bụng. Vai diễn của ông là một hành động can đảm ngạc nhiên của diễn xuất, nhưng không ai nhìn ra. Cuộc chạy đua thật sự diễn ra giữa Sean Penn, trong vai tử tù của phim Dead Man Walking, và Nicholas Cage, tay nghiện rượu tự sát trong phim Leaving Las Vegas.
1)Diễn viên phải đọat giải (Should win): Penn. Trong suốt bộ phim bị nhốt trong một phòng tối nhỏ xíu, Penn đã xuống giọng trong diễn xuất của mình và cho tay sát nhân bị khi rẻ, nhiếc móc một phần hồn: Cảnh nhân vật của anh cuối cùng đã thú nhận bằng một giọng thì thào đẫm lệ là chính hắn đã giết người làm người ta choáng váng.
2)Diễn viên sẽ đoạt giải (Will win): Cage. Với một vai nghiện ngập, Cage đã đóng rất khéo trong bộ phim kéo dài hai tiếng mà không khiến ai nghĩ rằng anh đang đóng giả.
- NỮ DIỄN VIÊN HAY NHẤT - Sharon Stone ắt phải hài lòng với sự đề cử do phim Casino đem lại. Emma Thompson sẽ phải ổn định để trở thành người phụ nữ đầu tiên từng được đề cử một lúc cho Nữ Diễn Viên Hay Nhất và Kịch Bản Hay Nhất trong cùng một năm (Sense and Sensibility). Elisabeth Shue cũng rất khá giống bạn đồng diễn Cage trong phim Leaving Las Vegas- có lẽ cô sẽ diễn hay hơn- nhưng cô chỉ là một khuôn mặt hoàn toàn mớị Ðiều này đã khiến cho Meryl Streep (trong phim The Bridge of Madison County) và Susan Sarandon (trong phim Dead Man Walking) trở nên nổi bật.
1) Diễn viên phải đoạt giải (Should win): Streep. Cô luôn luôn được đề cử cho một Oscar. Nhưng lần đề cử thứ 10 này là xứng đáng nhất: vai diễn thương tâm của Streep trong phim Bridges là một kiệt tác của sự tế nhị, đề nghị và mối cảm xúc bị đè nén. Hãy cố tưởng tượng Cher hay Isabella Rossellini - hai trong sốnhững nữ diễn viên được tuyển chọn ban đầu - trong vai diễn nàỵ
2) Diễn viên sẽ đoạt giải (Will win): Sarandon. Cô là một nữ diễn viên dữ dội, đã quá hạn, và vai diễn của Sarandon như một vị nữ tu có nhiệm vụ khiến cho tay sát hân đầy thù hận phải nhận tội có tính cách thiêng liêng, không mê hoặc và xúc động sâu xa. Thời điểm của cô đã đến.
- NAM DIỄN VIÊN PHỤ HAY NHẤT - Thật thú vị khi xem Brad Pitt (trong phim 12 Monkeys), Tim Roth (trong phim Rob Roy) và Kevin Spacey (trong phim The Usual Suspects) trong nhóm này - cả ba đều tài năng, có khả năng làm vui khán giả - nhưng không ai trong họ sẽ thắng. James Cromwell trong phim Babe cũng vậy, mặc dù anh đã đóng vai diễn vô ơn chống lại những sinh vật bốn chân.
1) Diễn viên phải đoạt giải (Should win): Ed Harris. Trong khi những phi hành gia đang quay quanh ngoài không gian, chính Harris đã khiến cho những người chỉ trích kế hoạch Apollo 13 bớt nóng nảy trong trạm điều khiển dưới đất.
2) Diễn viên sẽ đoạt giải (Will win): Harris. Trong một bộ phim về con người và kỹ thuật, anh mang tính người nhất trong cả bọn.
- NỮ DIỄN VIÊN PHỤ HAY NHẤT- Diễn viên 20 tuổi Kate Winslet đã có một cảnh chết đẫm nước mắt trong Sense and Sensibility - một loại mà Oscar luôn luôn yêu mến - nhưng nhà viết kịch bản Emma Thompson đã dành hết những cảnh diễn đẹp nhất cho bà. Kathleen Quinlan đóng tốt trong Apollo 13, nhưng đó là phim dành cho con trai. Chính giọng ca của Mare Winningham - chứ không phải sự diễn xuất của cô - đã khiến khán giả nhớ đến nhiều nhất trong phim Georgia. Cuộc chạy đua đích thực ở đây sẽ là giữa Joan Allen trong phim Nixon và Mira Sorvino trong phim Mighty Aphrodite.
1) Diễn viên phải đoạt giải (Should win): Allen. Khi khán giả nghĩ lại về phim Nixon, những cảnh họ nhớ nhất sẽ là cảnh giữa Richard và Pat.
2) Diễn viên sẽ đọat giải (Win win): Sorvino. Công việc của cô như cô gái gọi Linda Ash là một trong những cảnh diễn mà không bao giờ ta quên được. Vấn đề là tự bản thân Sorvino đã làm lấy tất cầ Nhân vật chỉ là bản kẽm. Nhưng nữ diễn viên 25 tuổi này là một hiện hữu.
- ÐẠO DIỄN HAY NHẤT - Thật là kỳ cục vì hai đạo diễn Mike Figgis của phim Leaving Las Vegas và Tim Robbins của phim Dead Man Walking không có phim được đề cử cho giải Hình Ảnh Ðẹp Nhất. Ðiều này có vẻ như đã loại bỏ họ nhưng thật sự không phải vậy: Na9m 1990, Oliver Stone đã được một giải Oscar vì đã đạo diễn phim Born on the Fourth of July mặc dù giải Hình Ảnh Ðẹp Nhất năm đó đã trao cho phim Driving Miss Daisỵ Dẫu sao, Figgis và Robbins còn xa lắm mới tới giải - phim của họ quá nghiêm khắc - cũng hệt như Michael Radford của phim Il Postino không thuộc về chốn này. Ðiều đó đã khiến cho cuộc đua chỉ còn Mel Gibson của phim Braveheart và Chris Nooman của phim Babe.
1) Ðạo diễn phải được giải (Should win): Nooman. Nhà làm phim người Úc đã nói là nếu có Babe 2, ông sẽ không làm đạo diễn cho nó: tập họp tất cả các chú heo, chó, cừu và gà để diễn phần cuối là một con gấu. Nhưng sự đạo diễn của Nooman trong phim Babe là sự thần kỳ, không những làm cho các con vật nói chuyện với nhau thật tự nhiên nhưng còn phải làm cho mọi khung ảnh trong phim phải phản ảnh hết cuốn truyện. Ðó là điều chỉ đến được từ một đạo diễn đầy sáng tạo và tài năng.
2) Ðạo diễn sẽ được giải (Will win): Gibson. Hollywood thích ăn mừng người của chính nó, nhất là khi đó là một ngôi sao othật sự ở phim trường, và Gibson đã quay những ngôi sao khi kể lại những chiến công của tay nổi loạn người Tô Cách Lan thế kỷ thứ 13 William Wallace. Sự đạo diễn của Gibson rất có nghị lực, mạnh bạo và thành thực một cách ngạc nhiên. Ai biết được Gibson đã có điều ấy trong ông?
Nguyễn Tiến Dũng
(Lược dịch bài của Rene Rodriguez trong báo The Herald ngày 24/03/1996)
oOo
Sau đây là kết quả chính thức của giải Oscar lần thứ 68 (còn gọi là giải Academy Awards hằng năm) được tuyên bố hôm thứ hai 26 tháng 3 năm 1996:
*Hình ảnh đẹp nhất: Phim Braveheart.
*Ðạo diễn hay nhất: Mel Gibson, với phim Braveheart.
*Nam diễn viên hay nhất: Nicolas Cage, trong phim Leaving Las Vegas.
*Nữ diễn viên hay nhất: Susan Sarandon, trong phim Dead Man Walking.
*Phim ngoại quốc hay nhất: Phim Antoniás Line (Hoà Lan).
*Nam diễn viên phụ hay nhất: Kevin Spacey, trong phim The Usual Suspects.
*Nữ diễn viên phụ hay nhất: Mira Sorvino, trong phim Mighty Aphrodite
*Kịch bản hay nhất (bản sửa lại): Emma Thompson, với phim Sense and Sensibility.
*Kịch bản hay nhất (nguyên bản): Christopher McQuarrie, với phim The Usual Suspects.
*Ðạo diễn nghệ thuật hay nhất: Eugenio Zanetti, với Restoration.
*Kỹ thuật làm phim hay nhất: John Toll với phim Braveheart.
*Tài liệu hay nhất: Phim Anne Frank Remembered.
*Tài liệu hay nhất, chủ đề ngắn: Phim One Survivor Remembers.
*Hoá trang đẹp nhất: Braveheart, với Peter Frampton, Paul Pattison và Lois Burwell.
*Bài hát nguyên bản hay nhất: Colors of the Wind trong phim Pocahontas.
*Âm thanh hay nhất: Phim Apollo 13, với Rick Dior, Steve Pederson, Scott Millan, David MacMillan.
*Giải danh dự: Kirk Douglas.
Tạm Dung
Huy quăng cái ba-lô nặng chình chịch lên trên bàn ăn. Gã thả người cái bịch xuống sofa. Tấm thân gầy gò của gã chỉ làm nệm ghế lún xuống một chút mà thôi. Huy chồm người về phía chiếc bàn cà-phê, tìm gói thuốc ba số 5. Gã loay hoay một hồi mới vỗ ra được một điếu. Gã vươn người về phía bàn, tìm hộp diêm, xong run run đánh lửa mồi. Gã rít một hơi thật dài, trước khi nhả khói lên tận trần nhà.
Theo làn khói trắng, Huy thả hồn theo dòng suy tư vô trật tự đang rối rắm trong đầu. Gã đang nghĩ về cuộc đời của gã trên mảnh đất tạm dung này. Thoáng đó mà đã sống trên đất Mỹ này gần 5 năm trời. Thời gian lặng lẽ trôi nhanh, nhưng gã vẫn chưa cảm thấy có thể hòa nhập vào cuộc sống nơi đây. Ðất nước này có lẽ muôn đời vẫn là quê hương thứ hai của gã. Tâm trí của gã giờ đây lúc nào cũng hướng về Việt Nam, nơi gã đã sinh ra và lớn lên, nơi gã bỏ lại sau lưng người yêu bé bỏng, và cũng là người vợ hiền đầu ấp tay gối của gã.
Cách đây 2 năm, có nghĩa là 3 năm sau ngày Huy cùng gia đình qua Mỹ đoàn tụ với ông anh ruột bên Cali, nghe lời bạn bè xúi, gã lên văn phòng trợ cấp tài chính của trường đại học Rancho Cordova, nơi gã đang theo học, giật nóng 2 nghìn đểvề Việt Nam làm đám cưới với Yến, người yêu cũ của gã. Cho đến bây giờ gã cũng không biết là gã khôn ngoan hay khờ khạo khi quyết định hồi hương để xây tổ uyên ương. Nhiều lúc gã nghĩ gã đã hơi vội vã khi đùng đùng về Việt Nam cưới vợ khi công chưa thành, danh chưa toại.
Dạo đó, cũng chỉ vì bên nhà vợ đốc thúc quá, lúc đó Yến của gã còn viết thư nói có tên bác sĩ Việt kiều từ bên Mỹ đến đòi coi mắt nàng. Tên Việt kiều này không biết có phải bác sĩ thiệt hay dỏm, dám cả gan đóng phòng mạch bên Mỹ để về Việt Nam chơi 6 tháng, do đó hắn đã có nhiều thời gian đến tán tỉnh người yêu của gã. Trong thư gửi từ Việt Nam sang, Yến nói rõ hiện tại nàng chỉ coi anh Việt kiều này như là bạn thôi, vì trong trái tim của nàng chỉ có mỗi mình Huy mà thôi.
Huy nhận thức được mối nguy hiểm, vì "lửa gần rơm có ngày sẽ cháy", và trong đầu của gã lúc nào cũng bị những đóm lửa lập lòe ám ảnh. Gã cần phải tức tốc bay về Việt Nam để dập tắt mọi nhen nhúm nếu có, bằng cách tặng cho Yến và cũng là cho chính gã một cái bản án chung thân. Ðám cưới của gã trôi qua một cách tốt đẹp. Gã chỉ cần tung ra một nghìn đô-la là có ngay một cái đám cưới linh đình. Nhưng rồi ngày vui cũng qua mau, và gã cũng phải trở về với cuộc sống đầu tắt mặt tối bên Cali, để lại sau lưng người vợ mới cưới.
Và suốt khoảng thời gian đó cho đến nay, cứ mỗi năm là Huy làm 2 chuyến du lịch về Việt Nam để thăm vợ, nhằm dịp Giáng Sinh và nghỉ hè. Giờ đây, đôi lúc ý nghĩ hối hận có thoáng hiện về trong đầu của gã. Tự nhiên gã trở thành một "family man" bất đắc dĩ, bây giờ gã phải hạn chế tối đa không dám đi chơi đâu, không dám mua sắm. Gã cần phải để dành tiền để nuôi sống mấy hãng hàng không và điện thoại. Bây giờ, thỉnh thoảng nhìn thấy mấy giai nhân nườm nượp ngoài Phúc Lộc Thọ hay trong lớp học, gã đành phải nuốt nước miếng mà nhìn. Việc học của gã cũng bị đình trệ thấy rõ. Bạn bè qua Mỹ cùng thời gian với gã bây giờ ai cũng ra trường đi làm kỹ sư cho hãng này hãng nọ. Về phần gã, chỉ vừa mới chuyển trường lên trên Cal State Long Beach, còn đang cặm cụi kiếm từng tín chỉ của hai năm cuối trong chương trình kỹ thuật hóa học.
Giờ đây gã phải cày một lúc hai "jobs", buổi trưa đi làm phụ giáo, buổi tối đi giao pizza. Cái công việc phụ giáo nói nghe cho sang chơi vậy thôi, sự thật là gã chỉ đến đó để làm bù nhìn và trông nom mấy đứa con nít ở trung tâm. Cái trung tâm này do hội từ thiện của tiểu bang bảo trợ, để dẫn dắt những người tỵ nạn trong những ngày đầu trên đất nước này. Dân tỵ nạn đến học ở trung tâm này bao gồm nhiều sắc dân trên thế giới, nhưng chiếm đa số là người Việt Nam và Mễ. Chương trình giảng dạy tiếng Anh dành cho đủ mọi lứa tuổi, nhưng trời xui đất khiến sao đó Huy lại lọt vào cái lớp bao gồm toàn con nít lên ba. Bản tính Huy không ưa con nít, nay lại phải đối diện với chúng nó hàng ngày. Khuôn mặt của gã vì thế lúc nào cũng hầm hầm làm bọn trẻ phát rét.
Nhiệm vụ của Huy ở trung tâm rất đơn giản, chỉ đứng canh chừng không cho bọn trẻ quậy, khi nào thấy tụi nó đánh nhau thì nhào vô can, nhưng cái lũ trẻ con này đôi khi làm Huy cũng bực mình vô cùng vì hễ mỗi khi thấy gã là chúng bâu lại, hỏi han, tiếng Việt tiếng Mỹ pha trộn lẫn lộn, lúc thì "chú Huy", lúc thì "Mr. Huy". Có hôm, đến giờ ăn trưa thấy Huy đứng dựa lưng vào vách ngủ gà ngủ gật, một đứa bé gái khoảng bốn tuổi chạy đến khều gã, hỏi:
- Chú Huy, chú không ăn "lunch" hả?
Huy tưởng có thằng bạn phá giấc ngủ của gã. Gã phát cáu:
- Con bà mày, ông đang ngủ, cút đi chỗ khác không ông đánh bỏ mẹ!
Con bé bị la, hoảng quá chạy vào trong lớp mách lại cô giáo. Sau khi dỗ cho đứa bé nín, cô đi ra ngoài cật vấn Huy:
- Sao ông lại dùng những ngôn từ thô bạo vậy? Nó trẻ con ngây thơ, vô tội có biết gì.
Huy ra vẻ biết điều:
- Tôi vô ý, xin cô giáo bỏ qua cho.
- Tôi thấy ông dạo này hình như bị "stress", hay công việc này không thích hợp cho ông nữa?
Thật ra thì Huy nào có thiết tha gì với cái công việc này. Ở nhà chỉ có mỗi đứa cháu con ông anh không cũng đủ làm cho Huy điên cái đầu, huống gì ngày ngày phải đối mặt với mấy chục đứa trẻ con ồn ào, lắm chuyện. Lý do duy nhất mà gã chưa muốn bỏ cái "job" này là vì đồng lương 9 đồng rưỡi một giờ. Gã chỉ cần làm bán thời gian không cũng bằng cu-li làm nguyên ngày. Huy trả lời cô giáo trẻ:
- Chắc có lẽ tôi không quen làm việc với con nít, hay là nhờ cô tìm cách chuyển tôi qua mấy lớp cao hơn, như lớp 6 chẳng hạn.
Ðó là những ngày đầu. Bây giờ thì công việc của gã ở trung tâm đã ổn định rồi. Bây giờ thì gã không còn nổi cáu với đám trẻ con nữa, ngược lại gã còn cảm thấy gắn bó với chúng nó hơn. Thậm chí cái hôm người ta chuyển gã qua phụ giáo lớp 6, gã đổi ý và xin ở lại lớp mẫu giáo.
Huy xưa nay nổi tiếng biết chưng diện, đầu tóc, quần áo lúc nào cũng tươm tất, nhưng từ sau ngày yên bề gia thất, gã trở nên lè phè thấy rõ. Quanh năm người ta chỉ thấy gã đến trường với chiếc quần jean rách gấu và chiếc áo T-shirt bạc trắng mồ hôi muốị Chỉ có buổi chiều là gã còn chịu khó đóng bộ chỉnh tề để đi làm ở trung tâm. Tối về nhà gã thay ra bộ đồ xanh, đỏ để đi giao pizza cho tiệm Domino. Có hôm bà chị của gã bảo gã:
- Có khi nào mày giao pizza đúng ngay nhà của mấy đứa học trò ở trung tâm không?
Huy trả lời nhát gừng:
- Thì sao?
Tuy nhiên câu hỏi của bà chị cũng làm cho gã suy nghĩ. Gã không biết gã sẽ phản ứng như thế nào nếu chuyện này xảy ra.
Ðám trẻ con ở trung tâm lúc nào cũng coi gã như thần tượng của chúng nó, nếu bắt gặp gã trong bộ đồng phục xanh, đỏ của Domino, chắc chắn thần tượng của chúng sẽ bị sụp đổ. Nhưng Huy chẳng phải lo, ở cái xứ Cali này có bao nhiêu người Việt thèm ăn cái món pizza này, vừa dở lại vừa đắt tiền, trong khi thức ăn Việt Nam vừa ngon lại vừa rẻ.
Đời sống máy móc vẫn cuốn xoáy, trên cái thủ đô tỵ nạn này. Huy vẫn sống qua ngày, vẫn ăn uống, làm việc, học hành. Tất cả, gã thi hành như một cái máy, không cần suy nghĩ. Ðời sống ở đây quá vô vị đối với gã. Gã khước từ tất cả mọi cuộc vui từ lớn đến nhỏ; thỉnh thoảng cuối tuần gia đình tổ chức đi ăn ngoài gã cũng không tham dự được, vì gã còn đang bận tranh thủ đi làm thêm ở Domino. Mẹ của gã thương con, thường hay than:
- Khổ thân thằng bé! Quanh năm đầu tắt mặt tối, một miếng ăn ngon cũng không được hưởng. Thật tội nghiệp!
Ông anh của gã thì không nghĩ như vậy:
- Con thấy không có gì đáng tội nghiệp hết cả. Mẹ nói vậy, thế nó về Việt Nam nó hưởng thụ một mình có ai nói gì.
Ông anh của gã nói đúng. Một năm chỉ có hai lần cuộc đời của Huy có thể gọi là lên hương được chút đỉnh, đó là nhằm dịp Noel và nghỉ hè, khi gã được quấn quít bên vợ ở bên kia nửa vòng trái đất. Chứ còn ở Mỹ này gã chẳng còn thiết tha gì cả. Thậm chí chiếc xe cũ rích cà rịch cà tàng mà gã đang chạy gã cũng chả buồn chăm sóc. Bốn bánh xe mòn nhẵn gã cũng chẳng ngó ngàng đến; gã định để chạy đến khi nào bể bánh rồi mới thaỵ Còn bên trong xe thì khỏi nói, không khác gì một thùng rác lưu động. Bên cái xứ Cali này những thanh niên đồng trang lứa với gã ai cũng sắm xe thật xiệng, không BMW thì cũng Mercedes, mặc dù trong túi trống rỗng và phải ăn mì gói kinh niên. Còn gã thì hoàn toàn trái ngược.
Ðiếu thuốc 555 cháy đến cán. Hơi nóng của tàn thuốc làm hai ngón tay của gã như muốn bị phỏng. Huy chồm người dậy, vất cái đầu lọc vào trong đồ gạt tàn. Gã cũng chả buồn dụi tắt, thậm chí tàn thuốc vung vãi dưới thảm gã cũng chả thèm hốt lên. Huy nhìn đồng hồ, thấy sắp đến giờ đi làm ở Domino. Gã định vào tắm một phát cho mát, nhưng gã lại đổi ý. Cái tấm thân này đã hai ngày không tắm rửa, ở dơ thêm một bữa nữa chắc cũng không sao. Gã gục mặt xuống bồn rửa mặt, hứng vài vốc nước lạnh tạt vào mặt cho tỉnh táo, sau đó gã đi vào phòng thay đồ.
Gã vừa thay quần áo vừa ngắm tấm hình chân dung của vợ gã treo trên tường ở phía giường ngủ. Yến đang nhìn gã, với nụ cười thật tươi đang nở rộ trên môi. Gã lẩm bẩm tính nhẩm, chỉ còn vài tháng nữa là đến hè rồi. Vé máy bay gã vừa mua hồi tuần rồi, nhằm lúc đang có dịp đại hạ giá vé máy bay về Việt Nam.
Trước khi bước ra khỏi phòng ngủ, Huy nhìn lại một vòng. Có điều làm gã lưu ý. Không phải là cái phong cảnh cực kỳ hỗn độn trong phòng ngủ này, vì cái cảnh này gã đã quá quen mắt. Gã đang để ý cái túi va-ly du lịch. Từ cái hôm trở qua Mỹ đến nay đã 4 tháng trời rồi mà gã cũng chẳng buồn mở ra. Gã để yên tất cả trong đó, đợi đến dịp hè này chỉ việc xách đi mang theo, khỏi mắc công soạn tới soạn lui.
Huy bước ra khỏi nhà. Bên ngoài trời bắt đầu nhá nhem tối. Gã nghĩ thầm trong đầu: "Lại một ngày dài sắp sửa trôi qua!".
Bùi Thanh Liêm
Tháng 3, 1995