vhnt, số 79
8 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ tin tức văn nghệ
+ 1 - thơ, Lang thang, Mực Tím/Loan Tran
+ 2 - thơ, Tống Biệt, Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu
+ 3 - thơ, Bên Bờ Mộng Xưa, Ðặng Khánh Vân
+ 4 - thơ, thư Florida: Hoàng Hạc Lâu, Sung Nguyen
+ 5 - thơ, Thôi Hiệu và 8 bản dịch Hoàng Hạc Lâu
+ 6 - thơ nhạc, Bài Ca Học Trò, Nguyen Dung & Phan Ni Tấn/Dung Nguyen ghi
+ 7 - thơ diễn dịch, Thiếu Phụ Nam Xương, Dương Hùng
+ 8 - thơ, họa thơ "Em và Ta" của Quach Cuong, Cuong Hoang
chào bạn,
Nếu thực hiện đầy đủ những điều đã nói, thì
nên dùng thì giờ còn lại để học văn chương.
(Khổng Tử)
Trong đời sống con người, làm sao có thể thực hiện đầy đủ những điều đã nói, những điều mơ ước?
Mà cho dù có làm được đầy đủ tất cả mọi điều trong thời hạn cuộc sống, thì vẫn còn thiếu một điều: học và hiểu văn chương, như Khổng Tử đã nói. Văn chương chính là cái trung gian để con người với trình độ văn hóa có thể hiểu rõ về cái bí ẩn của tâm hồn mình, của tâm hồn mọi người.
Văn chương là sự nghiệp nghìn đời, mà được, mất riêng lòng mình biết.
(Ðỗ Phủ)
Vậy thì, bạn hãy tự tạo lấy một sự nghiệp đi, trước hết cho chính bản thân mình, sau cho mọi "tha nhân". Viết là tự khai phá chính mình, sau là tìm hiểu về đời sống.
vhnt số này dành cho văn chương hoài cổ, một cái đẹp không tàn phai theo thời gian. Mời bạn đọc ghé chơi lầu "Hoàng Hạc" tối nay, trong cái sáng dịu nhẹ của rằm trung thu (tháng nhuận), và thưởng thức "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu, cùng 8 bản dịch của các bậc lão bối thơ Ðường.
PCL/vhnt
Tin Văn Nghệ
Thi sĩ Seamus Heaney, với những bài thơ diễn tả cảnh đồng quê Ái Nhĩ Lan và thảm cảnh nội chiến tôn giáo, đã thắng giải Nobel Văn Chương hôm thứ Năm vừa qua.
Ông Heaney sanh năm 1939 ở một vùng quê miền bắc Ái Nhĩ Lan. Là con cả trong một gia đình có 9 người con, có lần ông tự diễn tả là tổng hợp của những thương tâm Ái Nhĩ Lan và sự tri thức văn học Anh quốc.
Vào thời gian đầu, những bài thơ cuả ông diễn tả đời sống bình dị, êm đềm của miền quê Ái Nhĩ Lan. Phê bình gia Anthony Thwaite đã viết: "Không thể nào tìm lỗi được qua những ngôn từ trong sáng, những rung cảm tươi vui trong những câu thơ gọn ghẽ mà khiêm tốn".
Dần dần, ông chuyển đề tài qua những thảm cảnh gây ra do sự xung đột tôn giáo đã đè nặng trên quê hương ông. Bài tuyên danh cuả Hàn Lâm Viện Thụy điển có viết: "Là một
người Công giáo Ái Nhĩ Lan, ông đã cố công phân tích những bạo động ở Bắc Ái Nhĩ Lan... Theo ông, chính vì cả hai bên đều từ chối nói lên sự thật, cho dù để công bố những bất công, đã một phần lớn đưa đến những biến chuyển quá đau thương".
Ông là giáo sư đại học Oxford từ năm 1989 đến năm 1994, hiện giờ đang tạm nghỉ ghế giáo sư đại học Harvard. Ông đã cho xuất bản được 10 tập thơ. Preoccupations là một tập thơ và những đoản văn được in năm 1980. Năm 1991 ông dựng vở kịch The Cure of Troy về cuộc đời của Philoctetes, người bạn của Hercules.
Sau đây là 1 bài trong tập thơ The Haw Lantern, in năm 1987.
The Wishing Tree
I thought of her as the wishing tree that died
And saw it lifted, root and branch, to heaven,
Trailing a shower of all that had been driven
Need by need by need into its hale
Sap-wood and bark: coin and pin and nail
Came streaming from it like a comet-tail
New-minted and dissolved. I had a vision
Of an airy branch-head rising through damp cloud,
Of turned-up faces where the tree had stood.
Có bạn nào muốn thử dịch bài thơ này ra tiếng Việt không?
Viet H. Hoang
Lang Thang
Thu đã về đây nhuộm lá vàng
Lòng buồn khi chợt thấy thu sang
Nắng sớm vương sầu trên mắt nhớ
Mưa chiều thấm lạnh dưới tà dương
Bóng nhỏ mình ai bước lạc loài
Ngắm từng, từng chiếc lá thu bay
Lá ơi sao mỗi lần thu đến
Lại phải cùng cành khóc chia tay?
Ánh nắng chiều thu đã tắt rồi
Chỉ còn sót lại gió thu thôi
Màn đêm kéo đến thêm hoang lạnh
Ðâu rồi bóng nhỏ, có đơn côi?
Thu đã chìm trong giấc mơ màng
Ru hồn trong đêm lạnh miên man
Sớm mai khi ánh bình minh đến
Ðây rồi bóng nhỏ, vẫn lang thang!...
TL mực tím
Tống Biệt
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi
Nửa năm Tiên cảnh...
Một bước trần ai...
Ước cũ...
Duyên thừa
Có thế thôi...
Ðá mòn...
rêu nhạt...
nước chảy ...
hoa trôi...
Cánh hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách... mãi...
Cửa động... Ðầu non... Ðường lối cũ...
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...
Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu
Bên Bờ Mộng Xưa
Qua đường đánh rớt...
ngây thơ!
Bâng khuâng lay bước tìm bờ mộng xưa
Lá vàng phủ gót đón đưa
Lối mòn dĩ vãng cơn mưa phai nhòa ...
Thu sang cây lá nhuộm vàng
Nàng ngồi thơ thẩn mơ màng chiều thu
Khung trời thơ mộng...
hoang vu
Chuyến đò ảo mộng...
chu du nơi nào?
Một thời áo trắng má đào
Quanh bờ hoa mộng ngạt ngào trầm hương
Tan trường lắm kẻ vấn vương
Thư tình nghi ngút đượm hương thơm nồng
Ngày xưa hờ hững tình hồng
Hồn bay trong gió...
phiêu bồng...
vô tư!
DKV
Hi Chị Lan:
Cả hơn tuần qua, Chị chủ bút vắng nhà, tuy có anh Việt thay chị phụ trách, nhưng bạn đọc vhnt vẫn cảm thấy văng vắng một điều gì đó. Hôm nay, chị trở lại với những thư ngõ thân thân như ngày nào. Chắc chắn chị đã có một chuyến đi vui vẻ.
Hôm trước đây, Sung có gởi lá thư Florida, nhưng không biết chị đã nhận được chưa. Trong thư, Sung nói về bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, đời Đường, trong vài số trước đây anh Bút Chì Nguyễn đã giới thiệu.
Anh Bút Chì viết rằng bài thơ Hoàng Hạc Lâu là của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Sung xin đính chính, bài Hoàng Hạc Lâu là do nhà thơ đường Thôi Hiệu sáng tác, và bản dịch của thi sĩ Vũ Hoàng Chương là một trong những bản dịch hay.
Sung chép lại nguyên bản để các bạn tiện theo dõi.
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân không tải thiên du du
Tịch xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Thôi Hiệu ( ? -- 754 )
Rất nhiều bản dịch về bài thơ nỗi tiếng này. Một bài thơ để lại nhiều nét hoài cảm mà bao thế hệ ông cha mình thuộc lòng và nhắc lại cho con cháu. Hồi còn nhỏ, Sung thường nghe ông Nội mình đọc hai câu cuối của bài thơ, hai câu này do Tản Đà dịch.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Còn nhỏ quá, tuy chưa biết gì, nhưng âm điệu bài thơ cứ như ru Sung trong những buổi chiều quê. Khi ông Nội không còn nữa thì Sung mới được biết trọn vẹn bài thơ và cả gốc tích của nó. Ngẫm rằng, khó có lúc mà mình được trọn vẹn một điều mình mơ ước; nếu ông Nội Sung còn, Sung sẽ sung sướng khi ngồi với Nội và nói trọn câu chuyên Hoàng Hạc Lâu.
Bài thơ mang một nét hoài cảm nơi một phương Bắc xa xăm nhưng lại rất gần gũi với nét thơ hoài cảm của chúng ta. Có ai đó đã nói rằng, cái buồn là cái quyền xa xỉ của con người, không biên giới và không bao giờ hết được. Như chúng ta bây giờ khi đọc lại bài thơ, bỗng tự nhiên mang cái cảm giác buồn như ông cha mình từng đọc khi xưa.
Hai câu thơ:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân không tải thiên du du
đã được nhiều nhà thơ văn nỗi tiếng địch rất hay, Sung chép lại sau đây:
Bản dịch của Trần Trọng San:
Hạc đã một đi không trở lại
Man mác muôn đời mây trắng bay
Bản của Tản Đà:
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Bản của Ngô Tất Tố:
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay
Và Vũ Hoàng Chương dịch rằng:
Vàng tung cánh hạc bay đi mất
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Sung thấy rằng bản dịch của nhà thơ Tản đà là hay hơn cả.
Nguyễn Sung
THÔI HIỆU VÀ TÁM BẢN DỊCH HOÀNG HẠC LÂU
Thôi Hiệu (? - 754) người tỉnh Hà Nam, đậu tiến sĩ thời Ðường, tính lãng mạn, thích cờ bạc rượu chè. Bốn lần vợ. Ông làm đến chức Viên-Ngoại-Lang. Công trình sáng tác chỉ có một tập thơ duy nhất, nhưng riêng bài Hoàng Hạc Lâu rất nổi tiếng. Hay đến nỗi Lý Bạch qua chơi lầu Hoàng Hạc trông thấy bài thơ này đã hết sức thán phục. Lý Bạch
vung bút đề 2 câu thơ:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất trắc
Thôi-Hiệu đề thi tại thượng đầu!
bản dịch của Chi Ðiền:
Cảnh tiên trước mắt không vung bút
Thôi-Hiệu đề thơ nặng mái đầu!
Văn học Trung Hoa cho bài Hoàng Hạc Lâu là hay nhất, hay hơn cả những bài nổi tiếng đương thời như Ðằng Vương Cát của Vương Bột, Vạn-Tuế-Lâu của Vương Xương Linh, bài Phượng Hoàng Lâu của Lý Bạch, và bài Ðền Thục Tướng của Ðỗ Phủ. Nhạc tính của bài Hoàng Hạc Lâu rất khác biệt, âm điệu uyển chuyển nhịp nhàng, lúc bổng lúc trầm như một bài hát, lôi cuốn ngươi đọc và người nghe vào một chốn bồng lai.
Về di tích Hoàng Hạc Lâu, đây là một thắng cảnh (land mark) của huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc Trung Hoa. Lầu Hoàng Hạc được xây trên một tảng đá lớn. Theo tài liệu của sử gia Hoàn Vũ Ký chép rằng: Xưa Phi-Văn-Vi, sau khi thành tiên, thường hay cưỡi con hạc vàng đến nơi này nghỉ ngơi thưởng lãm phong cảnh. Người đời sau xây lầu để tưởng niệm, đặt tên là Lầu Hoàng Hạc (tức lầu vàng).
Về bài thơ Hoàng Hạc Lâu, nhà phê bình nổi tiếng Kim Thánh Thán đã viết: "Bài Hoàng Hạc Lâu với bút pháp tuyệt kỳ quả là một tác phẩm đệ nhất cổ kim của thơ Ðường luật. Một điều tưởng cũng đáng lưu ý là bài thơ hay nhất thời thịnh Ðường này lại "chước miễn niêm luật, linh động phối ngẫu." Câu đầu: "Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ", chữ NHÂN, theo đúng luật Ðường thi, phải là một vần "trắc".
Hai câu 2 & 3:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
đã bỏ lệ đối chiếu theo qui luật thơ Ðường.
Thiết nghĩ, nếu nhà thơ Thôi Hiệu không bỏ luật thơ, không để cho cảm hứng dẫn dắt, thì ngày nay hậu thế không có bài thơ Hoàng Hạc Lâu để mà thưởng thức. Người làm thơ không nên bị gò bó trong một khuôn khổ chật hẹp của luật lệ, mà hãy cởi trói chính mình, cứ để cho cảm xúc và thi hứng đưa mình đi. Ði đâu cũng sẽ tới "nhà", là trái tim là tâm hồn của người sáng tác.
Phạm Chi Lan
Nguyên tác:
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không du Hoàng-Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hánđương thụ
Phương thảo thê-thê Anh-Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng thử nhân sầu.
THÔI HIỆU
Các bản dịch bằng tiếng Nôm:
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cỡi đi đâu mất ?
Lầu hạc còn trơ ở chốn này
Hoàng hạc một đi không trở lại
Ngàn năm mây trắng lững lờ bay
Hánđương cây tỏ, dòng sông tạnh
Anh-Vũ bờ thơm, bãi cỏ tươi
Chiều xuống quê nhà... đâu đó nhỉ ?
Trên sông khói sóng não lòng ai !!
Chi Ðiền
Gác Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà đây Hoàng-Hạc riêng lầu còn trơ !
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh-Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ?
Tản Ðà
Hoàng Hạc Lâu
Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi, đi mãi
Trắng một mầu mây vạn vạn đời
Cây bến ánh dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh-Vũ chẳng ai chơi
Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán ?
Ðừng giục cơn sầu nữa sóng ơi !
Vũ Hoàng Chương
Hoàng Hạc Lâu
Ai cùng Hoàng Hạc xa vút rồi
Hoàng Hạc Lâu còn tiếng hạc thôi !
Chớp nhoáng cánh vàng đi mãi mãi
Lửng lơ mây trắng lượn đời đời
Hán Dương, giòng lặng soi cây mát
Anh Vũ bờ thơm lớp cỏ tươi
Chiều đổ, hướng nhoà, quê khuất bóng
Sông hun khói sóng, mạch sầu khơi !
Y-Vân-Tử Nguyễn Trung Ấn
Lầu Hoàng Hạc
Người đi cỡi hạc từ xưa
Ðất này Hoàng Hạc còn lưa một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một mầu mênh mông
Hán dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh-Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ, ủ ê nỗi sầu!
Trần Trọng Kim
Hoàng Hạc Lâu
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây
Lầu Hạc còn suông với chốn này
Một vắng, hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm, mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngụt châu Anh lớp cỏ dầy
Trời tối, quê hương đâu tá nhỉ
Ðầy sông khói sóng gợi niềm tây
Ngô Tất Tố
Hạc Vàng Lầu
Hạc vàng người cưỡi bay xa
Dấu xưa để lại một tòa Hạc-Lâu
Hạc đi không trở lại lầu
Chỉ còn mây trắng ngàn thâu lững lờ
Hán Dương sông lặng cây đua
Cỏ thơm Anh-Vũ trên bờ xanh tươi
Chiều hôm quê khuất bên trời
Khói mờ sông nước làm ai chạnh buồn
Ðào Hữu Dương
(tuổi Hạc Hạ tập, Hè 1983)
Hoàng Hạc Lâu
Người cưỡi hạc vàng xưa đã khuất
Ðể lầu Hoàng Hạc chốn này trơ
Hạc vàng một biệt không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn lững lờ
Sông tạnh Hán Dương cây bát ngát
Bãi hoang Anh Vũ cỏ tiêu sơ
Bóng chiều đã ngả đâu làng cũ
Khói sóng sông đầy khách ngẩn ngơ
Ðỗ Bằng Ðoàn & Bùi Khánh Ðản
---------------phần phụ lục----------------------
Phá thể, dịch thơ theo lối... tự do của PCL:
Gác Vàng
Hạc vàng ra đi từ xưa
Gác vắng còn ở lại
một mình
Hạc sẽ không về nữa
Mây muôn đời sẽ trôi
Dòng Hán Dương muôn đời sẽ soi
(chỉ một bóng mây)
Cỏ Anh Vũ muôn đời sẽ tươi
Chiều tha hương nhớ bóng
một hoàng hôn
Khói sóng trên sông
chạnh nhớ
một niềm riêng
PCL
* Xin các bậc lão bối hãy tha tội cho tôi :)
Ðang ngồi lục lại một số tài liệu cũ, bỗng dưng rơi ra một tập nhạc đã ố màu vàng. Tò mò tôi mở ra xem. Thì ra tập nhạc này quay roneo do Phong Trào Du Ca Việt Nam phát
hành năm 1974, trong đó chỉ in độc có một bài nhạc của Nguyễn Quyết Thắng và Phan Ni Tấn, phổ thơ Nguyên Dũng, Cao Huy Khanh, và Lê Thanh Xuân. Tôi không quen Thắng, chỉ do một người bạn giới thiệu qua một đêm lửa trại, và Thắng đã tặng tôi tập nhạc này với chữ ký của anh. Tôi nhớ hồi đó tụi tôi đã lặng người đi khi nghe anh trình bày bản nhạc này, nói lên tâm trạng tuổi trẻ trong thời chiến: chán chường tuyệt vọng, cô đơn khủng hoảng trong cuộc chiến tàn bạo. Thắng hiện giờ ở đâu tôi không biết. Tôi gửi đến các bạn bài hát của Thắng, với hy vọng chia sẻ với các bạn thân phận tuổi trẻ miền Nam trước '75 trong đó có một phần đời của tôị
Dung Nguyên
oOo
BÀI CA HỌC TRÒ
thơ: Nguyên Dũng, Cao Huy Khanh & Lê Thanh
nhạc: Phan Ni Tấn & Nguyễn Quyết Thắng
I.
Em học trò sao em hôm nay không đi học
Mà đường đi vẫn vắng người qua âm thầm
Tay em rất nhỏ
Em ôm cặp sách làm ơn chỉ dùm em
lối nhỏ em đến trường
Em học trò sao em hôm nay không đi học
Những ảo mộng nào em không nói cho ai nghe
có người tử trận ngòai biên giới
có người nằm ngủ trên hè phố đêm nay
Em học trò sẽ không bao giờ em còn đi học
Trong sân trường em có biết lá vẫn rụng đìu hiu
Em học trò sao hôm nay em không đi học
Nghe con dế gáy sao em thương cái góc nhà
ngòai kia có người nào mới thở dài
Bây giờ đã hòang hôn hay chỉ mới sớm maị
Em học trò sao hôm nay em không đi học
Ðã có biết bao chuyến tàu
đưa em về quê
em đứng làm chi trên bến nước xuôi
con sóng miền xa đã trôi dạt xa rồị
Em học trò sẽ không bao giờ em còn đi học
Trong sân trường em có biết lá vẫn rụng đìu hiụ
Em học trò sao hôm nay em không đi học
sao bỏ lớp ra chơi dưới gầm cầu
soi đôi mắt xanh
trong giòng nước chảy
tưởng là giọt lệ dành cho ngày lớn khôn
Em học trò sẽ không bao giờ em còn đi học.
II.
Nếu đôi lúc nghe giảng bài con ngủ gục
hoặc reo hò như một chỗ không ai
thầy tha thư cho con đừng gắt gỏng
Vì bây giờ không còn chỗ vui chơi
Tuổi mới lớn thèm đôi chân của biển
thèm sân cỏ thèm một giòng sông
Thèm ca hát để thấy mình được sống
được nâng niu từng chút giấc mơ hồng
Những gai lửa thu đời vui bé lại
mỗi bước đi mũi súng hướng bên mình
Mỗi tiếng nói ra rập rình giáo mác
con bàng hòang ngơ ngác ngó chung quanh.
Cuộc chém giết chưa đến hồi ngã ngũ
nên máu xương nhuộm đỏ nỗi thù hằn
nên giới tuyến người lui về cố thủ
và bầy trò đánh lén ở sau lưng
Lũ bạn con một vài thằng gục xuống
rất âm thầm như những giọt sương khuya
Làng quê con gieo mình trong lửa đạn
đường trở về nghẽn lối phân chia
Con lớn lên thấy mình bơ vơ quá
mẹ cha xa bè bạn cũng nghi ngờ
không chỗ nghỉ chân không nơi nương tựa
đời con quanh quẩn một mình cùng nỗi nhớ bao la
vào lớp học mới thấy mình còn trẻ
còn tự do thở hít những chân tình
Dù bé mọn thầy cho con được giữ
trong thế tình mỗi lúc một chông chênh
Nếu đôi lúc nghe giảng bài con ngủ gục
hoặc reo hò như một chỗ không người
thầy tha thứ cho con đừng trách phạt
vì bây giờ không còn chỗ vui chơi
Nếu đôi lúc giảng bài con ngủ gục...
III.
Kính thưa thầy đây bài chính tả của con
bài chính tả viết về nước Mỹ
con viết hai lần sai chữ American
con viết hai lần sai chữ Communist
con viết hai lần sai chữ Liberty
Làm sao được làm sao được bởi anh con vừa chết
Kính thưa thầy đây bài luận triết của con
một cái nhà và một trái phá
một đám cưới hồng bên cạnh một đám tang
một kiếp sống tàn dưới miệng người no ấm
Ôi tiếng hát nào bên lệ em tuôn mau
Làm sao thuộc bài con học
để vinh thân đời sau
Kính thưa thầy đây bài tóan của con
những đường cong đường thẳng đều có gài mìn
đường trong thành phố có Bar có Mỹ
có con gái học trò
Ðường vào rừng có chông sắt
có hầm hố cá nhân
đường vào đời có đao kiếm có xương máu căm hờn
con đã chứng minh nhiều lần
đường ngoằn nghoèo qua Mỹ
qua Paris thật ngắn
nhưng không thể nối liền Sàigòn Hànội
nhưng không thể nối liền thành phố với làng quê
Con không đậu Tú Tài để đi sĩ quan Ðà Lạt
Con không đậu Tú Tài để thành Bác sĩ Kỹ sư
Kính thưa thầy đây bài thuộc lòng của con
Tổ quốc Việt Nam bốn nghìn năm văn hiến
một trăm năm Pháp thuộc hơn trăm năm đọa đầy
làm sao con thuộc đươc truyện Kiều Nguyễn Du
những bài thơ mùa thu Nguyễn Khuyến
những bài Công Dân Sử Ðịa
những bài học con ngại ngùng không dám đọc to
trên hè phốhay giữa vùng ngọai ô xạ
Kính thưa thầy đây là quyển vở của con
suốt năm chưa một tờ có chữ
con để dành ép khô những dòng nước mắt
của cha con của mẹ con
của chị con và của chính con.
MY FATHER THE SHADOW
(THE YOUNG WOMAN OF NAM XƯƠNG)
narrated by Dương Hùng
Lính Vua, lính chúa, lính làng
Trời ơi, biết bao nhiêu giặc
Cho chàng phải đi! (1)
Once upon a time, in Nam Xương village there was a young couple; the husband, Trương, was drafted while they were waiting for the birth of their first child. A son was born, the wife named him Ðạt and raised him by herself. When the son learned to speak, he asked his mother: "Where is my father?", the wife pointed to her shadow on the wall one night and told her son: "This is your father, he only can visit you at night time". The son accepted her shadow on the wall as his father. He was quite happy of having both father and mother nearby. The war ended one day, and husband Truong came home. He expected a joyful reunion with the son he had not seen. The son told his father: "You are not my father, my father only comes home in the evening. My father does not speak; when mother sits down, he sits, when mother walks, he walks."
The husband was enraged and accused his wife to be unfaithful. Shocked and unable to prove her innocence, the young woman drowned herself in the Hoàng river. Night came, the young child cried asking for his mother; when the young father lighted the lamp, the son stopped crying and greeted his father's shadow on the wall " Hi Father, I cannot find mother tonight!"
After this tragic event, the villagers built a shrine to commemorate the young woman at the river bank. (2)
oOo
King Lê thánh Tôn (3) wrote two octets in chữ nôm when he visited the shrine. Below is one of the octet in quốc ngữ and the English translation:
ÐỀ MIẾU BÀ TRƯƠNG Ở NAM XƯƠNG (4)
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dù tắt, đừng nghe trẻ,
Làn nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả có đôi vùng nhật nguyệt,
Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chành Trương khéo phụ phàng.
Vua Lê thánh Tôn
tentative translation:
THE SHRINE FOR THE YOUNG WOMAN OF NAM XUONG
The river rapids release thick incense smoke,
could that be the shrine of Truong's wife ?
When the light carves the shadow,
had he figured what his son said,
the waterway would not take her lifẹ
The sun and the moon witness her innocence,
to clear her name, altar and prayers, what use !
Passing by, the story comes to my attention,
husband Truong's ingratitude should be blamed .
King Le Thanh Ton
(1) King soldier, Lord soldier, Local soldier
My God,
Through how many wars my husband has to serve!
(Trường Ca Mẹ Việt Nam, Phạm Duy)
(2) Nam Xuong Village is now in Ha Nam, Ninh province
(3) King Lê thánh Tôn (1442-1497)
(4) Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học, page 87-88
Em và Ta
Em, thánh thiện, hồn nhiên như hoa cỏ
Ta, phàm phu, dầy dạn gió bụi đời
Gặp nhau chỉ một lần thôi
Mà sao vương vấn, đứng ngồi ngẩn ngơ?
Em chưa yêu, chưa biết mộng mơ
Ta đã tương tư đến dại khờ!
Mang tình ghép lại thành thơ
Hỏi mây, hỏi gió bao giờ quên em?
CMH
10/1995
Bài thơ họa "Em và Anh" của Quách Cường