vhnt, số 23
10 August 1995
Khẩn Cầu
Tôi vẫn sống với trời dĩ vãng
Vẫn đắm say như thủa ban đầu
Bởi nàng là một cõi nhiệm mầu
Hồn tôi mãi quẩn quanh si dại
Ðời tôi đã quá nhiều lụn bại
Con tim mang ngàn vết thương đau
Xin với em một chút ngọt ngào
Ðể đi nốt quãng đời còn lại
Tôi đâu dám mơ cùng chung lối
Chỉ ước về một đỗi xa xưa
Lại trở về một buổi ấy, ngày mưa
Có ta đứng bên nhau, bẽn lẽn...
Xin dĩ vãng đừng tan đi mất
Xin với đời đừng có ngày mai
Dẫu phải đổi trọn cả kiếp này
Vẫn sẵn đổi để về bên ấy
Tự Trách
Ai bảo em là cơn say đầu
Để giờ nặng nhớ mãi dài lâu
Ai bảo yêu em nhiều mê dại
Giờ chôn nỗi khổ vào chốn đâu!
Tôi tức sao tôi lại ngu khờ
Người bỏ tôi rồi vẫn ôm mơ
Muốn xóa tan đi hình bóng ấy
Nhưng lòng lại nhớ chẳng bến bờ
Tôi chẳng trách em chỉ trách tôi
Trách tôi si dại quá đỗi thôi
Tình yêu dâng hiến cho người hết
Bây giờ tay trắng, đáng kiếp thôi!
Hoàng Vi Kha
Ngày còn bé đi học lớp một lớp hai, thầy bắt học nhiều bài học thuộc lòng mà tôi vẫn nhớ mang máng đến bây giờ.
Trong một chuyến đi về Việt Nam chơi mùa hè năm nay tôi được đi từ Bắc vào Nam thăm lại quê hương mình. Đi qua nhiều quận lỵ thấy mấy trường học cũ kỹ rêu phong tôi chạnh lòng nhớ lại ngôi trường tiểu học xưa cũ và những bài thơ học tư đó. Ngày xưa học không hiểu hết được ý nghĩa bây giò hồi tưởng lại mới thấy thấm.
Về lại Mỹ nhớ lại mảnh đất quê hương tù Bắc vào Nam, tôi nghĩ không phải tự nhiên mà có. Công lao của bao nhiêu thế hệ xây góp lại mới được như ngày nay. Tôi viết lại đây một bài thơ mang ý nghĩa đó cho các bạn cùng thế hệ nhớ đến và để các bạn trẻ thưởng thức. Bài này của cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy mà tôi đã học ông trong mấy năm Đại học. Có lẽ ông viết vào khoảng thập niên 40, hay 50 lúc còn trẻ chưa qua Pháp du học.
Đỗ Danh Đôn sưu tầm
oOo
Anh Hùng Vô Danh
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh vinh quang
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước
Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng xâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một giải sơn hà gấm vóc
Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc
Không ngại xa, hăng hái vượt trùng sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam tiến mở giang sơn lớn rộng
Họ là kẻ khi giang sơn chuyển động
Dưới gót giầy của nhũng kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa, quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển
Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối
Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm chí hy sinh
Dâng đất nước cả một cuộc đời trong sạch
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc giữa trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm tình trung
Đã hội hợp làm linh hồn giống VIỆT.
Đằng Phương
(Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy)
Gởi Mẹ Việt Nam
Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Nơi đây không có ao để mà ra đứng ngóng. Thôi thì ta hãy tạm thay thế lại vài chữ cho hợp với tình cảnh.
Chiều chiều dỏng mắt phương xa,
Hướng về quê mẹ lòng ta ngậm ngùi
Trong lòng mỗi chúng ta đều có một quê hương, một bà mẹ lưng còng tóc bạc. Tôi mất mẹ từ nhỏ nên trong lòng luôn trống vắng một tình thương mẫu tử mặc dù người chị hơn tôi bảy tuổi đã đóng vai trò một bà mẹ trẻ nuôi lớn và lo cho tôi ăn đi học nên người trong lúc cha tôi bỏ nhà đi kháng chiến khi nấm mồ người vợ thân yêu còn chưa xanh cỏ. Có lẽ vì sinh ra trong một hoàn cảnh như vậy nên tôi sống rất gần thiên nhiên, tìm thú vui trong những thứ mộc mạc hiền hòa của đồng quê để chôn vùi tâm sự tuổi ấu thơ.
Năm tôi bảy tuổi, vì bom đạn chiến tranh tàn phá khắp nơi và quê nội tôi bị biến thành một căn cứ hoạt động của Việt Minh, ngoại tôi dắt chị em tôi về chợ để sống.
Chợ đây có nghĩa là miệt vườn, gần thành thị và nông thôn. Bên ngoại tôi không giàu có ruộng đất nhiều như bên nội nhưng cũng không thua gì mấy. Nhà ngoại tôi có một vườn trầu lá vàng tươi, có những cây cau trồng dọc theo bờ mương chen lấn với mấy cây dừa xum xê trái. Ngoài ra còn có mít, mận, mãng cầu, bưởi, xoài, vú sữa, chuối, khế và mía. Những buổi chiều khi nước lớn, tôi ra vườn múc nước tưới trầu. Những cái gầu nho nhỏ xinh xinh được ngoại tôi làm vừa với sức người nhỏ nhắn của tôi. Tiếng bìm bịp kêu nước lớn trong những buổi chiều vàng nắng nhạt như thế làm lòng tôi như trống trải thêm.
Khi trưa hè nắng cháy sân trường đỏ ối những hàng phượng vĩ, chị tôi dắt tôi đi nhặt những cánh phượng vừa rơi trong gió đem về ép vào vở. Tiếng ve sầu kêu ra rả hòa với xác phượng làm lòng tôi buồn vời vợi. Tôi nhớ bạn bè, thầy cô, nhớ đến người cha đã bỏ rơi chị em chúng tôi để đi làm cách mạng, nhớ đến người mẹ mà tuổi ấu thơ đã xóa nhòa hình bóng khi người lẳng lặng đi vào lòng đất lạnh lúc tôi vẫn còn ẳm trên tay, nhớ những ngày tháng sống bên quê nội với ruộng đồng thẳng cánh cò bay, với những người tá điền lực lưỡng xay gạo dưới ánh trăng, với những cô gái làng reo hò cấy mạ. Tôi thèm một mái ấm gia đình như lũ bạn cùng lứa. Trong tôi hình như luôn dâng lên một nỗi niềm khao khát, nhớ mong. Tuy nhiên, tôi cảm nhận và thầm ghi ơn đấng tạo hóa đã ban cho tôi những gì đang có, những niềm vui nho nhỏ với hai người thân luôn yêu thương tôi hết mực.
Tuy chưa bao giờ được nhìn thấy mẹ, tôi tìm hình ảnh của người qua bóng dáng ngoại và chị tôi. Ngoại tôi đầu bạc như bông cặm cụi bên mấy gốc cau, trầu. Ngoại tôi đôi má ửng hồng trên làn da tái xanh trong những trưa dẫn chị em tôi đi chợ tỉnh. Chị tôi với những lần thức thâu đêm bên cạnh tôi khi tôi bị cơn sốt hoành hành, hay những ngày trưa hè oi bức ngồi quạt ru tôi ngủ. Chị tôi với những lần tôi đánh lộn với đám con trai trong xóm bị chúng xé rách áo, chị không hề đánh tôi mà chỉ nhìn tôi với ánh mắt nghiêm nghị, vừa hiền từ, vừa trách móc.
Ngoại tôi mất đi lúc tôi mười hai tuổi. Ðời sống ngày một khó khăn hơn. Nhưng chị tôi vẫn cương quyết nuôi tôi ăn đi học. Thuở đó tôi rất mê ngành y. Thấy tôi hiếu học, chị tôi quyết định hy sinh mảnh đời son trẻ để lo cho tôi đến nơi đến chốn. Chị từ chối hết tất cả những lời cầu hôn của những người giàu có, ở vậy để đùm bọc cho tôi. Lòng hy sinh của chị thật vô bờ bến.
Chiến tranh ngày một lan rộng. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Lúc mười tám tuổi tôi rời ghế nhà trường ghi danh theo học trường võ bị Ðà Lạt. Quyết định này đã làm chị tôi buồn không ít. Tôi phải tốn công thuyết phục rất nhiều. Thật ra chị tôi không buồn vì tôi bỏ lỡ việc học. Chị chỉ lo sợ vì chỉ còn có hai chị em mà nay tôi lại lao đầu vào lằn tên mũi đạn. Súng đạn vốn vô tình. Lỡ như tôi có chuyện gì thì chị làm sao ăn nói với cha tôi và những người đã chết. Nhưng có lẽ vì vốn mang trong mình dòng máu kiên cường đấu tranh và vì sự ham muốn nồng nhiệt của tôi nên cuối cùng chị tôi phải nhượng bộ.
Ngày tiễn tôi ra trận chị tôi ôm tôi vào lòng dặn dò tôi nhất định phải trở về. Tôi khuyên chị hãy lấy chồng vì đã đến lúc tôi đã phải tự lo cho tôi và chị cũng đã làm tròn bổn phận. Chị tôi chỉ mỉm cười nhìn tôi qua làn nước mắt.
Một năm sau tôi nhận được thơ chị báo tin sắp lấy chồng. Tôi ngạc nhiên và vui mừng vô kể. Thì ra chị đã giấu tôi trong mấy năm nay. Trong thơ chị tôi chỉ nói qua loa là anh ấy là người cùng quê nội đi lính chiến đã lâu năm và họ đã hứa hẹn nhau từ trước nên chị tôi trong mấy năm qua vẫn chờ đợi. Tôi thu xếp và xin nghỉ mấy ngày phép về tham dự đám cưới chị tôi. Chưa kịp rời trại thì tin sét đánh đưa đến. Một tuần trước ngày cưới, anh chị tôi dắt nhau về quê cúng tổ và đã bị pháo kích của Việt Cộng. Người thân yêu duy nhất của tôi, ngoài cha tôi ra, cũng bỏ tôi mà đi.
Chiến tranh thật chẳng xót thương ai. Chung quanh tôi toàn là mùi máu và nước mắt. Xác chết chồng chất lên nhau như rạ. Bên ta, bên địch. Thật ra trong lòng tôi không chia ranh giới vì tất cả đều cùng chung một màu da. Không phải tôi không tin vào cái chế độ mà tôi đã phục vụ. Tôi chỉ cảm thấy trong thời loạn nhiều khi đám trai trẻ như tôi không có sự lựa chọn. Tôi lo sợ rồi có lúc nào đó tôi và cha tôi sẽ giáp mặt nhau trên chiến trường. Làm sao có thể biết được trong số những người tôi đã giết ai là ai. Làm sao tôi biết ai là cha tôi trong biển người hỗn loạn. Người cũng đâu biết được rằng đứa con trai duy nhất của ông đang cầm súng chĩa thẳng về hướng ông.
Tôi không trách cha tôi đã bỏ chị em tôi mà đi cũng như tôi không có ý kiến gì về sự lựa chọn giữa hai phe của người. Mỗi người có một lý tưởng riêng. Tôi chỉ cầu mong sao cho hai người chúng tôi đừng giáp mặt nhau trên chiến trường. Mà có gặp nhau cũng không biết chúng tôi sẽ xử trí như thế nào. Tôi đã gặp rất nhiều người cũng có cùng chung tâm sự. Vì bên ngoại của họ nằm trong vùng chiếm đóng của Việt Minh nên hầu hết bà con bên đó đều theo phe cách mạng. Ngược lại họ và gia đình thì theo bên quốc gia. Chiến tranh. Chiến tranh thật sự là một trò đùa oái ăm của Tạo Hóa.
Giờ đây lưu lạc nơi đất nước xa xôi nầy, nơi mà cái lạnh có thể làm băng giá tâm hồn, lòng tôi vẫn luôn hoài về quê cũ, mảnh đất thân yêu đã ru nôi tôi suốt mười mấy năm trường bên bờ Cửu Long phù sa bát ngát. Bạn bè tôi có đứa còn đang bị tù đày nơi đất Bắc xa xôi. Một số đã bỏ thây dưới lòng đại dương trong lúc trên đường đi tìm tự do. Một số khác cũng đang mang thân lưu lạc và tranh đấu như tôi để có ngày về với tổ quốc. Tôi xin gói ghém vào đây tâm sự của những đứa con lòng luôn hoài về cố quốc và mong mỏi ngày sum họp với mẹ Việt Nam.
Kelly D. Le