vhnt, số 256
20 December 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Ðêm bạch thoại cùng thơ ..................Nguyễn Phước Nguyên
2 - Tín đồ mà không ngó .................................Thận Nhiên
3 - Mùa Giáng Sinh trở lại Nhà Chung .................Trần Hoài Thư
4 - Giữ cho nhau ..................................................Lê Tạo
5 - Khoảng trống ..............................Trương Nguyễn Thi Thanh
6 - Tình yêu, gió và muà đông .............................Tường Vi
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Giá trị một bài thơ .....................................Khải Minh
8 - Một vài ý nghĩ vào buổi sáng .................Lương Thư Trung
9 - Năm của các nữ thần .....................................Mạnh Kim
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
10- Colette: Người vợ kia .................................Y Cựu dịch
Chúc bạn đọc một Giáng Sinh an lành ấm cúng, hạnh phúc và nhiều niềm vui, may mắn trong năm mới.
Cám ơn bạn đọc và các thân hữu, nhóm chủ trương vhnt, nhóm thảo luận diễn đàn Ô-Thước, đã ủng hộ và đóng góp tích cực cho vhnt trong thời gian qua. Ðó là niềm vui chung rất lớn, đầm ấm và hài hòa trong lòng những kẻ thành thật thương mến nghệ thuật và trân trọng quí mến nhau trong tinh thần chia sẻ của nghệ thuật và văn chương. Sự liên kết thân mật của những người trong nhóm thực hiện vhnt, những người đóng góp sáng tác, và bạn đọc thưởng thức... là một cái đẹp của tình người qua nhịp cầu nghệ thuật. Thơ văn sáng tác văn học của bạn đã bay lượn khắp thế giới bằng đôi cánh của nền kỹ thuật hiện đại, đã kéo khoảng cách không gian đến gần nhau vượt qua bao nhiêu biên giới và ngại ngùng, bạn có biết?
Xin hãy tiếp tục ủng hộ đóng góp cho vhnt thêm phong phú và phổ biến rộng hơn.
thân ái,
PCL/vhnt
đêm bạch thoại cùng thơ
về Thanh Tâm Tuyền
đêm thắt triền tiếng thở.
đơn quạnh ngời sâu. trăng
hắt thu tan niềm lá.
phập phồng ý thơ căng.
em là Thơ. là tổ quốc. là tình yêu. là bốn mùa tuần tự. là nắng sớm, mưa khuya. là hoa tươi, nhánh héo. là bóng mát tuổi thơ. là già nua sa mạc. là thiên đường hạnh phúc. là địa ngục khổ đau. là chiến tranh, hòa bình. là bồ câu, bom đạn. là gió thoảng, cuồng phong. là thăng hoa, dục vọng. là lửa nổi tương lai. là biển chìm quá khứ.
là mỗi.
là tất cả.
gom hết cả một mùa chữ nghĩa.
em, trong tim - con đỉa nghiệt oan
hút ta giọt máu. huy hoàng
ý thơ giẫy chết giấc ngoan, giữa lời.
quê hương em một lần đến một đời ở lại. từng góc lòng cháy xém, vết nám âm trầm khô dòng máu buồng tim. nhào nặn hình tượng em nát từng ý nghĩ thành miên trùng tâm phần hao vọng. mãi mãi đưa nhau đến những biên giới chưa từng,
mà đời ơi...
em ơi...
làm sao đưa nhau đến tận cùng tế bào cảm nhận, để trọn vẹn nhau từ nhịp sống khôi nguyên.
thơ, yêu người?
thơ người, yêu?
người, yêu thơ?
người thơ, yêu?
yêu người, thơ?
yêu thơ, người?
em trinh bạch hồn trang giấy trắng đêm tân hôn ta trút tim vào. hôn em. ôm em. yêu em. bằng dầy vò bằng nâng niu bằng thiết tha bằng đay nghiến bằng vinh hạnh bằng nhục nhằn bằng hất hủi bằng tri ân bằng đạp đổ bằng đấp bồi bằng vóc hình chung thủy bằng tâm thức ngoại tình.
ta tan vào em.
chết đi.
sống lại.
đam mê em bằng những bước đi xiêu vẹo của một người hồn thơ già trước tuổi hấp hối trên phần căn mình, lần đầu rong chơi phần ba thế kỷ.
và trở về bằng gót chân da non đứa bé đôi môi chưa từng méo lệch nụ cười.
em bão lửa thiêu đồng hoang tư tưởng
ta vớt bọt bèo bên suối hư ngôn
cuối lộ văn từ, kín huyệt mộ chôn
thơ thoát kiếp, mãn khai lòng bạch tự
em vô biên thùy bất tận muôn vàn câu thơ lời hát. người nhân danh em ranh giới biệt phân - định nghĩa em, mổ xẻ em, phân tách em, đóng khung em vào thể lệ, vào phương tiện kiêu kỳ.
linh hồn em đau, nào ai biết?
em - trái cầu của những trò chơi được đặt ra với trăm ngàn giáo điều, pháp luật.
những trò chơi mới.
những trò chơi cũ.
những luật lệ mới.
những luật lệ cũ.
những trò chơi vô luật lệ.
những tung
hứng
đẩy
đưa
thắt
mở
đạp
vùi.
em bao dung. em cam phận. em trọn vẹn hiến dâng.
linh hồn em đau, nào ai biết?
ta yêu em, chết cõi hồn. ta
yêu trắng con tim. chẳng qua là
từ em nuôi lớn ta, giòng máu
đổ xuống chan hòa trang giấy ra.
hủy hoại châu thân em để chiêm ngưỡng dung nhan muôn đời vô thể. không tứ chi, không đầu, không cổ, không mình. để lại chỉ phần hồn. để thấy chỉ con tim.
lời tuyên ngôn của lặng im
là ngôn ngữ rụng vào niêm phong vần.
yêu em, nên thơ.
yêu thơ, nên em.
vì thơ là em.
vì em là thơ.
thơ là,
vì em là.
vì em là thơ,
ta là thi sĩ.
vì thi sĩ là thơ,
nên ta cũng là em.
npn
Tín đồ mà không ngó
tặng Phạm...
và Nguyễn Phước Nguyên
1.
Tín đồ bên hang đá
tóc đỏ một dòng mun
ngát hương từ ngành ngọn
xanh mướt cành thông non
trong như lời ca thánh
mềm như một nét son
2.
Hài đồng trong máng cỏ
tôi quỳ đến tê chân
tông đồ còn chối Chúa
tôi thảng hoặc tà tâm
ngày sau tôi tuẩn đạo
nhà thờ sẽ vắng tênh
3.
Quỳ bên cạnh ba vua
tôi trẻ trai hơn cả
ba vua là tượng gỗ
còn quỳ đến trăm năm
tín đồ mà không ngó
tôi quỳ đến cuối xuân
4.
Tôi yêu như lần cuối
tôi yêu như lần đầu
từ ngày em thắp lửa
tôi thành kẻ viễn mơ
ngày sau đời phong thánh
có một gã làm thơ
Thận Nhiên
Giáng Sinh '96
Mùa Giáng Sinh trở lại Nhà Chung
thân tặng các bạn trong Ô-Thước nhân mùa Giáng Sinh
Mùa giáng sinh tôi trở lại Nhà Chung
Bè tràm qua sông lên đồi Núi Sọ
Chiếc Thập Tự in giữa nền ráng đỏ
Tôi vác bè tràm chuốc nợ Việt Nam
Như Chúa đã từng chuốc tội trần gian
Tôi thương Chúa ôm chân Người khóc ngất
Tôi qua Nhà Chung, Ma Soeur cúi mặt
Lòng Soeur đau, tôi nằm ngủ không yên
Ðêm ở nơi này hay ở Bết Lê Hem
Gã say rượu quay về đưa súng bắn
Như đám người xưa đóng đinh phơi nắng
Một Con Người trên đồi Gô Gô Ta
Như tôi bây giờ sống với quỉ ma
Mùa Giáng Sinh tôi trở lại Nhà Chung
Ðêm yên lặng trên giáo đường xóm vắng
Bỗng nghe đất trời ngập lời hát thánh
Ôi dịu dàng trong đêm tối dậy hương
Ôi bàng hoàng đêm nức nở hồng ân
Ôi vô lượng lòng tôi chừng tê dại
Tôi chấp hai tay
Tôi xin quì lạy
Ave Maria
Ðức Mẹ Vĩnh Hằng
Tôi chỉ là tên vô đạo si sân
Nhưng sợ hãi hơn một người sợ hãi
Manh áo này dù bao mùa tơi tả
Ðâu nghĩa gì rơm cỏ Bết Lê Hem
Mùa giáng sinh tôi trở lại Nhà Chung
Chúng tôi quay quần bên bếp lửa
Mẹ Bề Trên tặng cho nồi chè đậu đỏ
Mấy mươi thằng ứa lệ chuyền nhau
Hớp chè này ngọt vị thương đau
Sao cho bằng ngày xưa bát máu
Người uống vì loài người yêu dấu
Ngàn ngàn năm còn bát rượu đỏ Người
Ðể tôi còn mang theo Ðêm Thánh Vô cùng
Trên những tháng ngày xa nhà đất trích
Trần Hoài Thư
Giữ Cho Nhau
Giữ cho nhau
tấm lòng son
dẫu vui mương lạch hay buồn đại dương
mai kia về chốn thiên đường
cõi trần mất hết, còn vương tấm lòng.
Giữ cho nhau
một nét cười
dẫu rằng chứng kiế trái đời chín non
cá Hồi ngược nước về nguồn
nét cười đủ xóa nỗi buồn thế nhân.
Giữ cho nhau
sợi tóc mai
dẫu cho đời ngằn, tình dài nhớ thương
như chim muôn nhớ cánh rừng
nước tuôn thác đổ, vẫn cùng nhịp tim.
Giữ cho nhau
những buồn vui
buồn như bậc nhún bẫy đời lên cao
vui như suối mật ngọt ngào
hòa hai đầu lưỡi, trói nhau tận cùng.
Giữ cho nhau
một bờ vai
khi rơi nước mằt có nơi tựa đầu
dù đời có lỡ nát nhầu
vai anh đủ chứa nỗi sầu em mang.
Giữ cho nhau
chút son môi
nghe lòng dịu vợi mặc đời bon chen
ví dầu tình sợi dây oan
mỗi đầu mỗi đứa cho tròn trăm năm.
Lê Tạo
Khoảng Trống
trong tôi có khoảng trống
một khoảng trống vô hình
tôi cố tìm cái lấp
sao vẫn còn rỗng tênh?
gió lao xao ngoài cửa
một ai đó thở than
tôi nằm không quậy cựa
tiếng ai khóc bạt ngàn
đêm nay trời lạnh quá
ôi bao kẻ không nhà!
sương khuya xào xạc lá
lòng nhớ mẹ, mong cha
ánh đèn đường yếu ớt
một bóng dáng quen quen
tim tôi dường như biết
bỏ ngõ, chẳng cài then
tôi nằm yên mong đợi
tiếng đẩy cửa bước vào
nỗi chờ trông mệt mỏi
nữa lần nữa là bao?
tôi nghe như khoảng trống
gậm nhấm nỗi u sầu
khoảng trống rồi sẽ rộng
trong tôi rồi sẽ đau
nhỡ sáng mai thức giấc
khoảng trống đã là tôi
tôi sẽ ngồi khóc nấc
tôi mất tôi mất rồi!
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Tình Yêu, Gió và Mùa Ðông ...
Trời muà đông, gió đêm về lạnh quá
Tôi cúi đầu quỳ phục trước tình yêu
Bảo rằng không, sao lòng nhớ rất nhiều
Như mưa gió thở than tình rất lạ
Tôi lắng nghe, không gian buồn thở nhẹ
Ðêm thì thầm, lòng cào cuộn tình yêu
Nên dưng không sao gió cuối mùa reo
Như sao nhạt cuốn băng theo biển rộng
Như đêm đông, bài thánh ca vô tận
Chúa Hài Ðồng vừa giáng thế từ bi
Tôi ngẩng nhìn trời, sao lạc có khi
Nên tôi cũng... yêu người trong độ lượng
Réveillon, đêm hào quang tưởng tượng
Khúc giao mùa, chuông thánh lễ hoà vang
Câu kinh tình trong hư ảo dịu dàng
Tôi bỗng hoá chim địa đàng hạnh phúc
Gió, muà đông, tình yêu và ca khúc
Xin một lần... rồi lần nữa... ngàn sau...
tường vi
12/15/96
Chú thích của VHNT: Ðây là bài biên luận thứ 2 về thơ của tác giả Nguyễn Khải Minh (sau bài "Bí mật về thơ" đăng ở vhnt #254, gửi đóng góp cho diễn đàn VHNT về chủ đề "Thơ", là chủ đề hiện đang được thảo luận trên diễn đàn Ô-Thước (o-thuoc@saomai.org). VHNT sẽ đăng tất cả những bài còn lại của anh Khải Minh, và những bài thảo luận trao đổi từ nhóm Ô-Thước về thơ và góp ý với tác giả Khải Minh.
VHNT và Ô-Thước chủ trương tôn trọng mọi cái nhìn về nghệ thuật, nên sẽ đón nhận tất cả ý kiến của mọi người từ nhiều quan niệm khác nhau; chúng tôi sẽ đăng tất cả đóng góp ý kiến có giá trị từ phía độc giả, thân hữu, và thành viên của Ô-Thước. Xin mời bạn đọc tham gia vào diễn đàn trao đổi một cách "dân chủ" này, xin gửi bài góp ý về vhnt@saomaịorg hoặc lanpham@metronet.com. VHNT sẽ chuyển bài viết của bạn cho tác giả Khải Minh nếu bạn đọc muốn trao đổi với KM qua loạt bài về thơ của anh. Cám ơn bạn đọc.
Giá trị một bài thơ
Cõi thơ: siêu - thực - thể, nơi đó hoàn cảnh sống (không gian, thời gian, âm hưởng, cảm xúc...) đổi khác đi so với thực tại. Cái thực tại trong đời sống trở thành cái biến ảo trong nội tâm thi sĩ. Trong tiềm thức của mỗi người có một thế giới tinh tuyền, có một mùa thu khác với mùa thu lá vàng, có một tình cảm khác với thất tình lục dục...Tìm giá trị thơ là tìm cái thế chao đảo, âm tiết lạ, độ mê cuồng, mức tinh tuyền cảm xúc, những cảnh lưu lạc tạo ra từ sụ khác biệt giữa hai thế giới này. Hơn nữa, phải vào cõi tâm linh vốn muôn hình vạn trạng và vượt qua ngôn ngữ vốn rất giới hạn của l oài người. Chúng ta hãy tìm hiểu một vài yếu tố tạo nên sự biến đổi này.
1. Văn trong thơ.
Văn vần và văn xuôi thường giới hạn trong thế giới hiện thực và cố định, nghĩa là suy luận để giải nghĩa và thấy sao diễn tả vậy. Ý tưởng bài văn chỉ có một cách hiểu cho bất cứ độc giả nàò . Hầu hết 'thơ cũ', 'thơ mới' được diễn tả trong khung cảnh thực tế chen lẫn với những giả tưởng văn chương. Chúng ta có thể ví văn như nước lạnh, ai uống cũng được và cũng thấy mùi vị giống nhau.
Thơ tiết ra từ nội tâm, tạo ra cõi siêu thực, nơi đó, không gian và thời gian không còn hiện hữu theo thế giới thực tại nữa. Nếu ví văn vần như nước thì thơ như một loại bia rượu, mỗi người uốn g vào sẽ tìm thấy hương vị khác nhau tùy theo cơ thể và tửu độ của mỗi người.
Văn trong thơ giống như nước trong rượu. Văn chỉ là phương tiện pha mầu, chế vị cho thơ. Nó dẫn độc giả vào thơ cùng lúc đưa thơ vào độc giả để tạo cảm xúc riêng. Trong phần nội dung và kỹ thuật thơ, chúng ta đã thấy văn thường trộn vào thơ bằng những động từ chủ quan và thực tế trong khi đó thơ dành hết cảm xúc cho độc giả bằng những khoảng trống giữa những danh từ, những động từ khác h quan, siêu thực.
Giá trị của thơ đây là cách dụng văn như một trong muôn vàn yếu tố khác để tạo thơ. Ðơn giản hơn, văn bao giờ cũng là vai phụ, nó chỉ đệm nhạc, pha sắc, xếp đặt cho vai chính hiện hữu. Ðộc giả sẽ lướt qua văn bằng thị giác, cảm giác, thính giác... để đi đến một feeling, một cảm xúc thơ vô dạng, vô hạn định.
Thí dụ trong khổ đầu của bài thơ Tình Thu Em sau:
Thu em tiết hạnh trăng đầy
ngực hoa môi chín rừng mây khép mình
gót trần áo mộng hoa trinh
hồn nhiên hương sắc đường tình ngoan ngoan
vườn thu trái cấm hân hoan
nữ thể địa đàng lõa thể trầm luân
đam mê quên nhớ ngọn nguồn
môi em nhân loại tình nhân lần đầu
tình phôi thai mưa sầu con gái
lãng mạn vàng tóc thả cội lan
cúc vàng phách (h)(ng)uyệt phù vân
em
em
biến thể hồng trần
vô âm vô thức khỏa thân tạo tình
em lòng thu nhan sắc
kiếp yêu người khoái lạc tử sinh
bóng tình phiến lá thần linh
thể thân sông núi gieo mình mai sau
thỏa lòng thu khuất đớn đau
cõi em trinh tiết đỏ màu hiên thu.
Những tiếng: vườn thu trái cấm hân hoan là một câu văn đầy đủ văn phạm, nó ở đó một cách phụ thuộc, giữ độc giả một thế cân bằng giữa những câu chao đảo, liên tưởng, vô dạng chung quanh nô S uốt cả bài, văn cứ len lỏi như vậy để tạo một cấu trúc cho bài thơ loại tình cảm này.
2. Bố cục (hình thức và nội dung).
Nội dung thơ là gì? một cấu trúc phức tạp, nó không có trong ngôn từ mà trong chính độc giả với những tiềm thức, tưởng tượng, nghiệm thức v.v... mà chúng ta sẽ cứu xét trong một bài khác. Ở đây tạm gọi nội dung là tình ý phát sinh nơi độc giả khi thưởng thức thơ.
Trong văn, cách bố cục rất rõ ràng và qui tắc, nó dễ chấp nhận mọi sáo ngữ, mọi niêm, luật, đối ngẫu, văn phạm để diễn tả một thực tế gọn gàng, thí dụ như đa số bài gọi là thơ ÐườngỪ (thất, ngũ ngôn bát cú, tứ tuyệt), thơ mớiỪ (5; 7; 8 chữ). Ðộc giả bước vào đó như vào xem một cuốn phim, đọc một quyển sách, nghe một bài diễn thuyết. Rất thụ động.
Trong thơ, hình thức và nội dung đều ôm lấy nhau, cùng biến chuyển trong tâm tưởng vô cùng phức tạp của con người. Nếu như trên thế gian này không có hai cảm xúc (hai người) giống nhau thì cũng không có thể có bố cục của hai bài thơ giống nhau.
Nếu đặt hình thức và nội dung làm hai đối cực đong đưa giá trị thơ thì chúng ta tạm chia thơ ra ba loại: thơ tình cảm, thơ lý trí và thơ tình lý.
Với loại thơ tình cảm, nội dung sẽ chi phối hình thức như trong bài Tình Thu Em trên kia hoặc như bài Nhớ Mẹ sau:
Con muốn về thăm mẹ
ngõ gầy trúc mộng tóc hương xa
cầm tay huyền thoại xưa bồng bế
mẫu tử thanh tâm giọt nắng mưa
Chiều tắt nắng mẹ về chưa?
trời quê quạnh vấn thương người gió sương
sao con lạc tới tha hương
trăng gieo hoài niệm đoạn trường nâng niu.
Huyền hoặc lưu dáng mẹ đưa đón
lệ tình nghiêng tóc thốc tâm tư
lặng thiêng chuỗi ngọc nhân từ
nuôi con nhẫn nhục trường tu dòng đời
Trời đây xuân đó tuyết rơi
đông xưa bếp mẹ con ngồi niệm thơ.
Mẹ
Bấy giờ bao giờ bây giờ
trăm năm phúc lạ bến bờ thánh nhân
xác phong trần phách phong trần
cho con thổn thức một lần ăn năn.
Với loại thơ lý trí thì hình thức dễ trở thành một khung cảnh, một dòng nhạc cho nội dung, thí dụ như bài Phố Thu sau:
Chuyến xe mù phố lạc thu
buồn rơi lãng đãng sinh phù long đong
người thu lá lụa song song
gót sương tâm ngộ bụi hồng tâm tư
lợi lầm trút áo tình tu
sông mây thu trũng phù du ngôn ngàn
mắt thơ khuất mộng cúc vàng
hồn khuya trăng đọng tân toan hoang đàng
cố hương mờ cội khói xa
bơ vơ vô thức nợ nần vô tâm
em về phố tục phàm trần
thu lặng lẽ ấy so thân tiếc tình
em về hưng phấn cổ kim
hồ thu nhạt nắng soi mình hồng nhan
em về hát tiếng nhân gian
hồn thu nhẹ gió địa đàng suy tư
mai sau lòng thế nhân từ
nẻo thu lá rụng tình dù chưa yên.
Hoặc rõ hơn trong bài Tình Cha sau:
Từ thần thoại vỡ đời mưa nắng
Cha dắt con lưu lạc cõi người
Hình hài họa phúc mù khơi
Thiên duyên phụ tử đạo đời kỳ công
Sáng sương gió núi nương đồng
Trưa phơi lưng muối quặn lòng áo cơm
Chiều giông vuốt mặt sinh tồn
Kinh khuya chăm sóc xác hồn đàn con
Tài hoa lạc mộng nước non
Lao tâm tình tiết nở hồn tử sinh
Tầm hạnh phúc gía nhục vinh
Chở che con sống phù sinh trở mình
Con khôn lìa tổ xa tình
Gian nan lụy khổ bệnh xin thương Người
Trăm năm thoáng mộng mỉm cười
Dung nhan con cháu mệnh trời phúc cha.
Chúng ta so sánh bố cục của hai bài thơ Tình Thu Em và Phố Thu trên:
Về tình và lý: Bài nhớ mẹ và Tình Thu Em được viết thuần túy bằng tình cảm, nhiều bất ngờ, không ai đoán được diễn biến từ câu này sang câu khác.
Bài Phố Thu đem lý lẽ chen vào tình cảm, khách quan hơn.
Về hình thức:
a. Ðầu đề:
Những bài thơ tình cảm thường có đầu đề rất riêng tư, bí ẩn, ngắn gọn, nó không mặc khải trực tiếp nội dung của bài. Tìm hiểu đầu đề thơ tình cảm là tìm hiểu ít nhiều thân thế của tác giả.
Dầu đề nhớ mẹ và Tình Thu Em trên tự nó là một phần tử đồng hóa với toàn bài. Nếu chúng ta thay thế nhớ mẹ bằng thương mẹ; Gọi Mẹ ... và Tình Thu Em bằng Mùa Thu Em, Thu Yêu Em, Tình Thu, Hồn Thu v.v.. thì cảm xúc bài thơ cũng vẫn vậy.
Những bài thơ loại lý trí thì đầu đề không thể đồng hóa với bài thơ. Nó cũng như khuân mặt mà người ta thường nói "trông mặt mà bắt hình dong, nghĩa là nó mặc khải trực tiếp nội dung cả bài. Nó như người mẫu của họa sĩ hay của điêu khắc. Người ta nhìn vào nó để phóng tác nội dung tác phẩm. Ðầu đề Phố Thu là hạt nhân cho cả bài thơ xoay quanh, nếu đổi bằng một tên khác đi thì mức độ liên tưởng trong độc giả sẽ giảm hoặc mất đi.
b. Về thể loại:
Bài nhớ mẹ và Tình Thu Em vượt mọi thể luật văn thơ: có vế 1 tiếng, có vế 5, có điệu 7 tiếng, có song thất, có Lục Bát.. Tình cảm phong phú bao nhiêu thì thơ phát tiết theo bấy nhiêu.
Bài Tình Cha và Phố Thu thì lý trí chi phối hình thức nên ý tưởng có cấu trúc đều đặn, khuôn khổ hơn, ký sử hơn.
Về nội dung:
Trong bài nhớ mẹ và Tình Thu Em, cảm xúc lấn áp tất cả mọi hình thức suy diễn luận lý. Nghĩa là độc giả cảm nhận nhiều hơn hiểu nghĩa. Ðây là giá trị của một bài thơ tình cảm, nếu lời lẽ tự nhiên cấu kết với nhau, thi vị sẽ thanh thoát và bài thơ sẽ hay tuyệt diệu, nếu không thơ sẽ rời rạc và thi vị sẽ không có hoặc nhạt nhẽo, khách sáo.
Bài "Phố Thu có cấu trúc rõ rệt:
Khổ đầu: liên tưởng giữa cảnh đẹp mùa thu và sự hờ hững của con người. Hờ hững vì cuộc sống long đong, vì mầu sắc lụa là đẹp hơn mầu lá mùa thu, vì tâm tư áp chế tâm tình,... vì vô ngộ với chính thân phận (bơ vơ) và vô tâm với đời sống.
Khổ 2: Biểu lộ hai hướng đi, một của thiên nhiên (mùa thu) và một của con người (em).
Khổ 3 kết luận: Con người dù ra sao thì thiên nhiên vẫn đẹp và tồn tại cho hỗ
Bài Tình Cha : Khổ đầu: giới thiệu; khổ 2: công lao thể xác; khổ 3: công lao tinh thần và khổ 4: kết luận.
Trong lý thơ, cách cấu trúc này phải tự nhiên để cho tình cảm đan vào lý trí. Với thơ tình lý, nội dung và hình thức sẽ hài hòa giữa hai bài trên, thí dụ như bài Mộng Tuyền sau:
Chiều nương nắng cuộc tình
ôm rừng thu lá đổ
cô đơn gợn gió siêu hình
chập chờn em cám dỗ
Anh lặng lẽ tương tư
cuộc hiện sinh man mác
bóng quê lưu lạc
vọng hồ đêm lãng đãng
bể dâu
hồn ngôn ngữ tìm nhau
mộng từ em vô thức
tóc chải vực thiên thâu
thơ gầy vai gió thấm
thở đam mê theo người
đêm hồn nhiên tiếc ngắn
em về tội khói sương
Anh muốn tâm tư mộng thu về
thần thoại tình cội nắng xa quê
đành thôi!, bâng khuâng chiều bóng tắp
tình vội vàng thu từng ánh mắt
biết không em
hồn thu buồn nương hồn con gái
tìm yêu.
Chúng ta thấy nội dung vừa tình cảm, vừa triết lý ẩn hiện trong bài thơ này đã biến chuyển với hình thức tạo nên một cấu trúc thơ lãng mạn đúng nghĩa nhất.
3. Tưởng tượng trong thơ.
Là một yếu tố trong nội dung, tưởng tượng trong văn đưa thực tại vào một cõi giả tưởng không lối thoát. Có nghĩa là văn bấu víu vào thần thoại, trăng sao, mây giộ., hoặc vào những gì đã bị trào lưu văn chương áp chế vào quan niệm của con người. Nó làm cho độc giả thụ động và đoán trước được dễ dàng những âm vần, ý tưởng tiếp nối hoặc liên quan với nhau. Thí dụ như những trăng, sao, mưa, nắng, mây núi hằng hà nhan nhãn trong văn vần (thơ mới), những câu đối trong thơ Ðường, những cách gieo vần rất sáo trong các thể loại khác. Những tưởng tượng này biến thành kinh nghiệm vô nghĩa trong một trào lưu nào đó. Thí dụ như những tiếng trăng, sao, nước mây nghe miết rồi thành quen như một hư từ trong trào lưu thơ mới. Tất cả những thứ này đều dẫn độc giả đến chỗ quá sáo, bế tắc, vô thưởng vô phạt, nhàm chán.
Trong thơ, sự tưởng tượng biến thành liên tưởng nơi độc giả để tạo một hình dạng mới. Những trăng sao, mây gió, thần thoại thường bị thơ áp chế đến nhập nhòa, nghiêng đổ, biến dạng cho đến khi bản thể nguyên thủy chỉ còn mờ ảo, tạo cho ý thơ sáng lên.
Thí dụ bản thể tiếng gió sẽ đổi ngôi vị trong những câu sau: gió là chủ từ cho cả câu văn vần đơn giản: gió uốn mình lên một ý thơ
sẽ nhạt nhòa hơn khi chỉ còn là chủ từ của một phần trong câu: gió hát ngực hoa tình tiết thơ, rồi thành phụ thuộc khi làm danh-trạng-từ trong câu: gió ngát hồn say động cõi thơ
hay chuyển sang hình tượng mới (tính từ cho thở ): gió thở thiền em động mắt thơ.
4. Nghiệm thức trong thơ.
Một hình thức biến đổi thời gian và không gian trong thơ là cách dùng nghiệm thức. Nghiệm thức đây mở rộng từ truyện tích (nhân vật) sang thơ tích (chẳng hạn trích thơ hoặc ý người khác), đến ngữ tích (chữ hán, ngoại ngữ) cùng tất cả những tích lũy trong lịch sử thơ. Nghiệm thức đưa độc giả đến một không gian lạ, một khái niệm khác về thời gian và một cảm tưởng mới về tình lý.
Trong văn, nghiệm thức thường được sử dụng dưới dạng so sánh đơn giản, nhiều khi trở thành nhàm sáo nếu không so đo kỹ, nhất là trong văn vần. Trường hợp dùng điển tích vừa để so sánh mới với cũ vừa phải tôn trọng vần điệu làm cho nó đôi khi rất gượng ép. So sánh có nghĩa là sử dụng điển tích trong khung cảnh lịch sử của nó với giả thuyết độc giả hiểu biết ngọn nguồn. Trong khi thực tế không bao giờ có hai hoàn cảnh giống nhau để có thể so sánh trọn vẹn được.
Trong thơ, nghiệm thức trở thành tượng trưng, nó đưa cả khung cảnh điển tích vào một hoàn cảnh siêu thực thể. Mục đích là tạo một cảm xúc hư thực, xa gần nào đó làm phương tiện cho độc giả phiêu lãng vào thơ. Thí dụ những điển tích: Tiêu sử với Lộng Ngọc, Giáng Kiều trong Bích Câu Kỳ Ngộ, Hồ Xuân Hương, Hàn mặc Tử được nghiệm thức tổng hợp thành cảnh mờ ảo, thành âm ảnh của một khung cảnh có một mái lầu thần thoại thấp thoáng bóng tình nhân xinh đẹp, có hồ nước ngát xuân và có đêm ôm lấy trăng tình cong lên... như trong khổ đầu của đoạn Tình Ca sau:
Lộng ngọc lầu tiêu sử
Giáng kiều thấp thoáng em
Hồ xuân hương phấn lạ
Trăng mặc tử cong đêm
Em kiều nữ tất nhiên
lưu lạc tình sử mộng
vô thức bóng thơ nghiêng
chinh phụ trăng cuồng kiếp
nhục thể hóa thơ yêu.
Trong khổ thứ hai: những tiếng kiều nữ tất nhiên phác họa một người con gái kiêu sa, nghịch ngông ẩn hiện trong thơ Nguyễn Tất Nhiên. Nếu thay kiều nữ tất nhiên thành kiều mộng tất nhiên thì hồn thơ Nguyễn Tất Nhiên sẽ sai lạc đi. Những tiếng tình sử mộng liên tưởng từ những bài thơ của Ðinh Hùng, nếu thay chúng bằng hùng sử mộng hoặc trăng sõng mộng thì nó quá lộ liễu hoặc lạc sang thế giới Hàn Mặc Tử.
Giá trị thơ đây lệ thuộc vào sự linh động (độ hiểu biết và cảm xúc) của nghiệm thức sử dụng. Nếu hiểu mạnh hơn cảm, chúng ta sẽ thấy gần như văn. Nếu cảm xúc lấn áp độ hiểu biết, chúng ta đi quá xa cái hào quang hoặc cái bóng mờ, âm ảnh của nghiệm thức làm thơ khó hiểu. Cái kỳ công của nghiệm thức là sự kết hợp bằng liên tưởng và bằng nghiệm thức những tích lũy của thơ với hồn thơ để tạo một hình tượng tổng hợp phát sinh cảm xúc lẫ
5. Nhạc và cảnh
Trong khi văn chú trọng vào những tiếng tượng thanh, tượng hình, những động từ gợi cảm thì thơ ngược lại, sử dụng tối đa những vô âm, vô ảnh, tránh những động từ thực tế bằng những động từ ngầm, khách quan, siêu thực để chúng lấn át vần điệu và cuốn hút nhạc cảnh vào một cấu trúc lẫ Nghĩa là nhạc và cảnh trong thơ khác với thính giác và thị giác của cơ thể chúng ta. Thí dụ 2 vế lục bát với 6 danh từ và không có động từ dưới đây:
Hoang đàng / nhân loại / tình ngoan
Hồn trinh - song cửa - tháng năm - hoa hồng.
Thần duyên thế tục mắt trong
Hóa tâm rực rỡ vỡ lòng gọi em.
Sáu danh từ trong hai vế đầu viết liền nhau tự đong đưa va chạm xếp đặt với nhau tạo nên một dạng thể tổng hợpnơi mỗi người. Những nhạc cảnh này trong tiềm thức, nghiệm thức, tưởng tượng, chúng vừa hòa hợp với nhau vừa rung động theo từng độc giầ Chúng ta thử phân tích một vài chi tiết sau:
Hoang đàng:
a. Những bước chân giang hồ lang bạt
b. Những phá phách dễ thương của tuổi trẻ
c. Những tìm kiếm khác lạ, những hành động khác đời
nhân loại:
a. Tất cả mọi người, trong đó lúc có mình, lúc không có mình.
b. Một cảnh đời có vui buồn sướng khổ...
c. Một thực tại nào đô
tình ngoan:
a. Chỉ có tình là ngoan, là đẹp
b. Một đối tượng, một lý tưởng tình cảm dễ thương.
c. Một thứ tình ý nào đó ngoại lệ.
Với những cách hiểu trên, vế đầu tiên có thể hiểu:
1, Chỉ có những nét hoang đàng nhân loại mới lộ diện tình yêu
2. Lang bạt khắp cả nhân loại mới thuần thục với tình.
3. Những cái nhân loại cho là hoang đàng thì anh cho là đẹp trong tình yêu.
4. Những nét khác người đi của em là những nét anh yêu thích.
Hồn trinh:
a. Hồn chưa yêu ai
b. Hình dạng tinh tuyền trừu tượng của một người
c. Nét kín đáo, cõi bí mật của ai đó,
song cửa:
a. Một song cửa theo nghĩa đen
b. Một cõi riêng, một cấm địa lãng mạn
c. Một khung cảnh thấp thoáng những điều bí ẩn nào đô
tháng năm:
a. Thời gian ngày tháng
b. Tháng thứ năm trong một năm
c. Mùa xuân
hoa hồng:
a. Một loại hoa có gai, có hương
b. Một kiều nữ vừa trưởng thành.
c. Một biểu hiệu của tình yêu.
Và vế thứ hai có thể hiểu:
1. Anh thấy em nơi khung cửa đầy khiêu gợi và quyến rũ như hoa hồng vào tháng năm.
2. Anh thấy vẻ trinh tiết của em như một khung cửa hoa hồng mùa xuân.
3. Anh thấy em như hoa hồng lãng mạn trên một dàn thời gian giống như khung cửa (nghĩa là biến thời gian (trừu tượng) thành hình tượng như một dàn hoa.).
4. Thấy em đứng trong song cửa gợi hứng chinh phục của anh ví như hoa hồng với gai góc ẩn hiện thách đố.
5. Em đang tuổi xuân rực rỡ, cuộc đời là những hoa hồng quyến rũ qua khung cửa tình lãng mạn.
Và còn nhiều cảm xúc khác tùy theo rung cảm riêng biệt nơi mỗi độc giầ Chúng ta thấy rõ rằng xen kẽ những danh từ này là những khoảng trống dành cho độc giả kết hợp chúng thành một hình thể siêu thực nào đó mà mỗi tiếng khi đứng riêng biệt không có.
6. Thi pháp:
Trong văn, bút pháp là cách sử dụng ngôn ngữ (rất nhiều động từ) để giải thích và diễn tả một cái gì thực tế. Tiêu chuẩn chính của nó là những cái MỚI|. Cái mới này lệ thuộc vào thời thế rất nhiều (vần gợi vần, ý gọi ý), nó có thể trở thành trào lưu văn chương rồi cũ mòn theo thời gian.. Ðương nhiên văn vần có giá trị văn vần (chúng ta sẽ đề cập tới trong dịp khác) nhưng một khi thực tế đổi khác thì cách giải thích và diễn tả trong văn vần cũng biến khác.
Trong thơ, thi pháp phát sinh từ tiềm thức, tưởng tượng, nghiệm thức... cho nên bản chất nó đã là độc đáo duy nhất. Nếu tìm tiêu chuẩn làm giá trị thì đó là cái LẪ
Cái lạ này phải nhận thức được từ chính tác giả, nghĩa là phải biết mọi ngõ ngách của ngôn ngữ và có bản lãnh vượt qua mọi ám ảnh (ảnh hưởng của giáo dục, của người khác, của chủ quan mình) của nó.
Đạt đến trình độ này, thơ, nơi tiềm thức sẽ tự động phát tiết, từ đó áp chế ngôn ngữ cũ và sáng tạo ngôn ngữ mới. Tìm giá trị thi pháp là tìm cách thức và bản lãnh của nhà thơ trong việc chuyển hình tượng của nội tâm mình ra ngôn ng Chúng ta tạm chia thi pháp ra 3 trình độ:
Thi pháp thấp:
Tác giả còn trong giai đoạn tìm kiếm ngôn từ vần điệu. Thơ tiềm tàng đâu đó không nhìn thấy hoặc không thoát được. Những hình tượng lạ của thơ bị ngôn ngữ và văn vần che khuất đi, những cái tinh tuyền bị biến dạng thành tầm thường và đôi khi sáo.
Thi pháp trung bình:
Những gọt dũa sửa đổi ngôn ngữ làm thơ biến dạng đi phần nào so với nguyên thủy. Những ám ảnh ngôn ngữ vẫn còn ảnh hưởng làm cho thơ thấy công phu hơn ngược lại cái lạ kỳ của thơ cũng lu mờ hơn. Ở trình độ này chúng ta thấy cảm xúc thơ mới chỉ bàng bạc, ẩn hiện như còn khúc mắc riêng tư đòi hỏi một sự giả thích nào đó. Thí dụ tiếng Thu em trong câu Thu em tiết hạnh trăng đầy của bài Tình Thu Em. Tại sao không là Ðợi em, Vì em, Nhớ em... Có nghĩa là chữ thu bị vần điệu ám ảnh, hoặc bị ý chủ quan hóa hoặc không đủ mạnh để tạo cảm xúc mong muốn, hoặc được chọn sửa quá kỹ làm phai lạc cảm xúc tự nhiên nguyên thủy đi.
Thi pháp cao:
Là một hình thức thơ nhập thần xuất ngôn (đương nhiên không phải tả con cóc). Ở trình độ này, cảm xúc sẽ trực tiếp tạo ra hoặc tái tạo ngôn ng thí dụ đổi chữ hiên thành thiên trong câu:
cõi em trinh tiết đỏ màu hiên thu
thành
cõi em trinh tiết đỏ màu thiên thu
thì rõ ràng chúng ta thấy tiếng hiên tạo ra cảm xúc còn tiếng thiên nặng về lý luận. Thơ không phải để hiểu mà để cảm, ngôn ngữ không còn cần lý lẽ, xa hơn nữa những tiếng vô nghĩa cũng biến thành một hình thể nào đó tạo cơn say thơ trong độc giả. Những tiếng vô nghĩa Phượng trì!, phượng trì!, phượng trì!, phượng trì! trong bài Ave Maria của Hàn Mặc Tử là một thí dụ nhỏ.
Kết luận:
Giá trị thơ do tự nó có một vài yếu tố trên chỉ có tính cách văn phạm giúp chúng ta cảm thức thơ rõ hơn mà thôi. Ngoài ra, sáng tác thơ cốt yếu là dùng tiềm thức, tưởng tượng, nghiệm thức để tạo ra nét lạ nghệ thuật mà trong đó ngôn ngữ là biểu hiện đầu tiên.
Khải Minh
MỘT VÀI Ý NGHĨ VÀO BUỔI SÁNG
Nghĩ cho cùng, một tạp chí được gọi là Văn Học Nghệ Thuật là một tạp chí đang làm cái sứ mạng trọng đại đối với chính mình và đối với tha nhân.
Ðối với chính mình tức là đối với những người sáng tác như viết văn, làm thơ, biên khảo. Tất cả những sáng tác ấy phải chuyên chở, chứa đựng những gì được suy nghĩ chín chắn, cặn kẽ, rạch ròi cùng với một con tim rung cảm của người nghệ sĩ. Vì rằng, Văn Học Nghệ Thuật tự nó đã là những gì đẹp, trong sáng, cao qúy nhất rồi. Do dó, những người làm công tác văn học nghệ thuật trước nhất là làm những công việc đó cho chính mình và người đọc cũng nhìn vào đó để đánh giá chính tác giả.
Ðối với tha nhân tức là đối với độc giả, đối với người đời, đối với nhân sinh. Khi những sáng tác mang tính chất văn học nghệ thuật được phổ biến trong bất cứ phạm vi nào dù nhỏ hẹp hay rộng lớn, dưới bất cứ hình thức nào, những sáng tác đó không còn là của riêng tác giả nữa, mà là của tha nhân, của độc giả. Những sáng tác đó có thể mang đến cho người đọc một sự cảm nhận trong thích thú hoặc bất bình, hoặc người đọc không hiểu tác giả muốn nói gì, hoặc hiểu rất rõ tấm lòng của tác giả để từ đó cảm thông, chia sẻ với tác giả.
Do đó, một tạp chí mang tên Văn Học Nghệ Thuật là một tạp chí tự chọn cho mình "sự chính danh định phận." Người chủ trương và những người cộng tác của tạp chí Văn Học Nghệ Thuật là những người can đảm nhập thế, dấn thân vào một con đường, dĩ nhiên, không dễ dàng.
Không dễ dàng là vì bất cứ tạp chí Văn Học Nghệ Thuật nào khi xuất hiện như một con người được chào đời, một loài hoa trồng trong vườn. Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật không phải làm một sản phẩm mà là một tác phẩm. Cũng như một đứa bé được chào đời là kết tinh của một tình yêu đầy mật ngọt, hạnh phúc của những người làm cha mẹ. Ðứa bé, tự nó, nó không ý thức được nó sinh ra đời để làm gì. Mà cha mẹ đứa bé phải ý thức điều đó, để mà nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục, vun bón cho nó trở nên một tác phẩm trong sáng, hữu ích. Một loài hoa cũng vậy. Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật có mặt trong vườn văn học không phải là một ngẫu nhiên. Vì rằng, người làm vườn khi đào một vùng đất, cho những nhúm phân chuồng, rồi đặt hạt giống vào đó, là họ đã chọn lựa một loài hoa, một vẽ đẹp, một sắc màu tươi sáng rồi. Nhưng không phải tới đó là hết trách nhiệm. Mà còn phải dày công tỉa lá, chiết cành, tưới nước, thêm phân, thêm đất để hoa có thể nở đúng mùa, đúng tiết một cách trọn vẹn. Chẳng hạn, tạo hóa khi cho loài người cùng sống với muôn loài trong vũ trụ, không phải ngẫu nhiên mà có như vậy. Vì rằng, tạo hoá biết con người khôn hơn mọi loài và do đó, con người và chỉ con người mới có đủ khã năng cảm nhận, thưởng ngoạn, đánh giá cái vẽ đẹp của vạn vật, của thiên nhiên, của đất trời. Do đó, tất cả đều có sự sắp xếp của một đấng Vạn Năng, Tối Caọ Nên vũ trụ, thiên nhiên, đất trời, sinh vật, con người, cứ tiếp tục chuyển vận theo một trình tự êm đềm, hổ tương, thuận chiều, suôn sẻ như vậy.
Nếu không có loài người, hoa có biết hoa đẹp, hoa thơm không? Nếu không có loài người, thời tiết có biết thời tiết đổi thay từ Xuân rồi Hạ, rồi Thu, rồi Ðông không? Nếu không có loài người, vần trăng có biết vần trăng đẹp, vần trăng sáng không? Nếu không có loài người, mây có biết mây đang bay hay mây đang kết tụ thành những bức tranh vân cẩu không?
Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng vậy. Có bao giờ một tác phẩm văn học nghệ thuật được đánh giá, được xác định, được thưởng ngoạn, được cảm nhận từ những sinh vật nào khác hơn là con người, là độc giả không?
Từ đó, cho thấy rằng, tạp chí Văn Học Nghệt Thuật nói riêng, và những tác phẩm Văn Học Nghệt Thuật nói chung không phải chỉ đến với nghệ thuật không thôi, mà còn phải đến với con người, với nhân sinh, với độc giầ Một tác phẩm văn học nghệ thuật chỉ chăm chút phần nghệ thuật không thôi, chẳng khác nào một loài hoa chỉ có sắc mà thiếu hương, một con người chỉ có dáng dấp bề ngoài mà thiếu một tấm lòng. Nó chưa trọn vẹn, chưa hài hoà, chưa làm tròn sứ mạng trọng đại đối với chính mình và đối với tha nhân.
Có biết bao loài hoa, dù không đẹp lắm về sắc màu nhưng vẫn mang lại cho người đời những mật ngọt. Chẳng hạn như hoa cây chuối, dáng hình không thanh thoát lắm, màu sắc không sặc sỡ, nhưng có lẽ không có mật loài hoa nào ngọt bằng mật loài hoa chuối. Một thứ mật ngọt bình dị, nhà quê, nhà mùa mà hữu ích, có thật. Còn biết bao loài hoa khác như hoa sen, hoa súng, hoa điên điển. Sắc màu cũng bình dị, mọc giữa đồng, giữa ao, giữa lung, giữa vũng nhưng ngào ngạt hương thơm. Chẳng những mang lại cho thôn dã, một bức tranh quê tuyệt vời, mà còn mang lại cho con người những thực phẩm, những hương vị ngọt ngào đầy chất liệu cỏ nội hương đồng. Hoặc giả những loài hoa như hoa bưởi, hoa chanh, hoa cau, hoa lài, những loài hoa chưa một lần được đem chưng, đem bày ở một nơi trang trọng. Thế mà vẫn giữ lại trong hồn của thế nhân một niềm thân thương, cảm mến, trân trọng, thiết tha chính cái hương thơm tinh khiết của mỗi loài hoa ấy, trong mảnh vườn, bên bờ mương, bờ đập...
Còn gì đẹp cho bằng một tác phẩm Văn Học Nghệ Thuật thật bình dị, trong sáng, gọn gàng, mà ở đó chuyên chở được bao điều bổ ích, êm đềm, làm thăng hoa đời sống tâm linh của con người, của độc giả trong dòng đời vốn không bằng phẳng, "khi khu" này...
Lương Thư Trung
Boston, 10-12-96
NĂM CỦA CÁC NỮ THẦN
Trong buổi lễ phát thưởng giải Grammy được đài truyền hình CBS phát vào thứ tư 28-2-1996, tay xướng ngôn viên đã phải thốt lên rằng sức mạnh của các diva (nữ thần) đang đè bẹp những giọng ca nam - một thời điểm độc chiếm sân khấu Mỹ. Không chỉ ở Mỹ, làng nhạc thế giới hiệnnay tràn ngập các diva thượng thặng.
Céline Dion , 28 tuổi, sinh tại Charlemagne (Quebec, Canada) sống tại Montreal và Palm Beach (Florida, Mỹ). Với số đĩa bán được đến nay là 35 triệu, Dion nhanh chóng khẳng định tài năng tuyệt vời của mình, nhất là qua "album không thể chê một bài" The color of my love, trong đó có những tuyệt phẩm như The power of love, Think twice, Just walk away, I remember L.A. Bởi là dân gốc Quebec, Dion còn hớp hồn khán giả qua The French album, hát toàn bằng tiếng Pháp (Pour que tu m'aimes encore, La mémoire d'Araham, J'attendais...) Cô cũng là một trong số ít nữ danh ca được mời hát tại Thế Vận Hội Atlanta vừa qua, với ca khúc đầy uy lực The power of dream, cùng dàn đồng ca 300 người.
Gloria Estephan, 39 tuổi, sinh tại Havana (Cuba), sống tại đảo Star (Miami, Mỹ), với 45 triệu đĩa đã bán được, cũng là nữ ca sĩ được mời hát đêm bế mạc Thế vận hội Atlantạ Album Destiny mới nhất đã khẳng định tài năng của Estephan.
Kế đến, phải kể Alanis Morissette - một giọng ca rất đặc biệt, mang âm hưởng vừa than thở oán giận, vừa yêu thương trách cứ 22 tuổi, sinh tại Ottawa (Canada) với bố mẹ đều là giáo viên, đang sống tại Los Angeles. Với số đĩa bán được là 16 triệu, Morissette hiện là một trong những diva được yêu thích nhất, đặc biệt ở ngoại hình trông rất hoang dại của cô ("giống như dân da đỏ thế nào ấy" - theo lời đa số các fan tại Saigon). Các ca khúc của Morissette đang nằm trên top 10 tại châu Âu, châu Mỹ và cả châu Á. Morissette từng được đề cử sáu giải Grammy, với album cực kỳ khó nghe Jagged Little Pill. Giọng alto của Morissette nghe rất "khó chịu", gào khàn khàn rồi thét xé tai...
Ở Úc, giọng ca của Tina Arena cũng đang trở nên "quốc tế hoá" Lên sân khấu từ năm năm tuổi, Arena đã có thể tự sáng tác. Với chất giọng nhí nhảnh hơn cả Cyndi Lauper, nghe như trẻ con, giai điệu khá đơn giản, Arena có thể khiến người nghe hát theo mình chỉ sau vài đọan trình diễn, nhất là trong các ca khúc Heaven help my heart, Greatest gift, Standing up ...
Và nói đến "tiếng thét nát lòng" (hơn cả Olivia Newton John trong Keep you waiting), không thể không kể Whitney Houston, nổi tiếng từ nhiều năm nay với chất giọng soprano trong các tuyệt phẩm bất hủ All at once, Saving all my love for you, The greatest love of all, I have nothing (trong phim The Bodyguard đóng với Kevin Costner). 33 tuổi, sinh ở Newark (New Jersey, Mỹ), sống tại New Jersey, với số đi+~a bán được 67 triệu, Houston là hậu duệ xứng đáng của các diva da đen đàn chị như Dionne Warwick (chị họ của Houston), Diana Ross, Tina Turner hay siêu sao nhạc jazz vừa mới từ trần cách đây vài tháng Ella Fitzgerald.
Còn tại xứ Scotland, nơi đàn ông chuyên ăn mặc váy và thích nhảy múa hơn..uống rượu, cũng có giọng ca nữ đang lên: Annie Lennox. Chất giọng khoẻ, bộc lộ niềm khao khát dữ dội khi trình bày, đặc biệt trong ca khúc mở đầu album Medusa, có tên No more "I love you". Lennox được xem là hiện thân của danh ca một thời Edith Piaf.
Tuy thời gian gần đây mang nhiều tai tiếng như "ăn cắp" bài của người khác, Mariah Carey hiện vẫn còn được nhiều người ưa thích. Tại Saigon, không quán cà phê nào không có các ca khúc Carey vào mỗi đêm. 26 tuổi, sinh tại Long Island (New York, Mỹ), sống ở Westchester (New York), với số đĩa bán được 80 triệu, Carey có chất giọng đầy màu sắc (coloratura). Trong bài When I saw you , từ album mới nhất của cô, Daydream, Carey đã "cắt" một từ thành 26 nốt tách biệt, một kỹ thuật điêu luyện mà không phải ai cũng làm được. Cũng như Carey, hay Arena, nhiều nữ ca sĩ hiện nay đều có khả năng sáng tác.
Ở thể loại gospel, có Alison Krauss; rock có Joan Osborne, PJ Harvey, Roxette, Joan Jett, Lita Ford; vàở thể lọai dân ca Celtic được thể hiện bằng tiếng Celtic, Anh và cả tiếng Latin thì đứng đầu hiện nay là Enya. Nhạc Enya nghe như lời tâm sự e thẹn, mắc cở và du dương đầy màu sắc thánh ca (Anywhere is, Pas diorum, La sonadora hoặc China roses trong album The memory of trees).
Cuối cùng, có thể nhắc đến Courtney Love, 31 tuổi, vợ góa của rocker Kurt Cobain (nhóm Nirvina). Nổi tiếng là một trong những ca sĩ rock báng bổ nhất, cùng với nhóm Hole, Love chỉ mới phát hành hai album chủ yếụ Sự thành công của Love và nhóm Hole đã mở đường cho đợt sóng gồm những nữ rocker như Tracy Bonham hay Shirley Manson. Trước Love, đã có một số rocker nữ nổi tiếng như Patti Smith hay Kim Gordon...., nhưng chỉ Love mới là nữ ca sĩ rock duy nhất đứng ở cương vị "thủ lĩnh" nhóm gồm 4 thành viên, vượt qua các cuộc tranh cãi và những tầm thường khác, để mở lối thoát cho tâm hồn khi nói về tội lỗi, xã hội, tình dục và cả cái chết...
Mạnh Kim
(TTCN 3-11-1996)
giới thiệu văn học thế giới: COLETTE
Tên thật là Sidonie Gabrielle Colette, sinh năm 1873 tại Pháp. Là chủ tịch Viện Hàn lâm Goncourt, bà nổi bật như một tiểu thuyết gia Pháp thời hậu Maupassant với tài quan sát nhạy bén và tinh tế. Một số tác phẩm của bà gồm có L'Envers du music-hall (1913), Cheri (1920), La Fin de Cheri (1926), Gigi (1945). Khi bà mất năm 1954, nước Pháp làm quốc táng.
The Other Wife (Người Vợ Kia) trích trong The World of the Short Story, do Clifton Fadiman tuyển chọn; Houghton Mifflin Company, Boston, xuất bản năm 1986.
oOo
Người Vợ Kia
- Bàn hai người? Lối này, Monsieur, Madame, vẫn còn một bàn cạnh cửa sổ, nếu Madame và Monsieur thích phong cảnh vịnh.
Alice theo sau người bồi.
- Ồ, vâng. Nào, Marc, giống như ăn trưa trên thuyền trên mặt nước...
Chồng nàng quàng dưới tay nàng giữ lại:
- Mình sẽ thoải mái hơn phía đằng kia.
- Ðằng kia? Giữa tất cả đám người đó? Em thích...
- Alice, thôi mà.
Anh siết chặt cái nắm một cách có ý nghĩa đến nỗi nàng quay lại:
- Chuyện gì vậy?
- Shh...
Anh nói nhỏ, nhìn nàng chăm chăm, và dẫn nàng tới bàn ở giữa.
- Gì vậy, Marc?
- Anh sẽ nói cho em sau, cưng. Ðể anh gọi thức ăn trưa trước. Em thích tôm không? Hay trứng với thịt đông.
- Bất cứ món gì anh thích, anh biết mà.
Họ mỉm cười với nhau, làm phí phạm thì giờ quí báu của người bồi lắm việc có điệu bộ nhún nhảy bồn chồn đang đứng toát mồ hôi cạnh họ. Marc nói:
- Món tôm. Rồi trứng và thịt heo muối xông khói. Và sà lách gà. Fromage blanc? Món đặc biệt của hiệu à? Chúng tôi lấy món đặc biệt. Hai cà phê đậm. Tài xế của tôi cũng sẽ ăn trưa, chúng tôi sẽ lại đi lúc hai giờ. Nước táo à? Thôi, tôi không tin tưởng... Sâm banh.
Anh thở dài như vừa mới dời tủ áo, đăm đăm nhìn biển không màu sắc giữa trưa, bầu trời trắng như ngọc, rồi nhìn người vợ mà anh thấy đáng yêu với cái mũ du lịch nhỏ có mạng che lớn của nàng.
- Em trông xinh lắm, cưng. Tưởng tượng xem, màu xanh dương của nước lại làm mắt em xanh màu ngọc. Và em mập ra từ ngày đi du lịch... Tới một mức nào đó thì đẹp, nhưng chỉ tới một mức nào thôi!
Ðôi vú tròn chắc của nàng nhô lên kiêu hãnh khi nàng nghiêng người qua bàn.
- Tại sao anh không để em lấy chỗ cạnh cửa sổ?
Marc Seguy không bao giờ nghĩ đến chuyện nói dối:
- Vì em sẽ ngồi cạnh người anh biết.
- Người em không biết à?
- Vợ cũ của anh.
Nàng không nghĩ được điều gì để nói và mở lớn cặp mắt xanh.
- Rồi sao, cưng? Chuyện đó lại xảy ra nữa thôi. Ðâu có gì quan trọng.
Alice định thần lại và hỏi, theo thứ tự, những câu hỏi không thể tránh khỏi:
- Bà ta thấy anh không? Liệu bà ta thấy anh thấy bà ta không? Anh chỉ bà ấy cho em được không?
- Ðừng nhìn bây giờ nhé, cô ấy chắc đang nhìn mình... Người đàn bà tóc nâu, không mũ, cô ấy chắc ở trong khách sạn này. Ngồi một mình, đằng sau lũ trẻ con áo đỏ đó...
- Vâng, em thấy.
Nấp sau những chiếc mũ đi biển rộng vành, Alice có thể thấy người đàn bà mười lăm tháng trước còn là vợ của chồng mình.
Marc nói:
- Không hợp tính. Ồ, anh muốn nói là ... hoàn toàn không hợp tính! Cô ấy và anh ly dị như những người dòng dõi, hầu như bạn, lặng lẽ, nhanh chóng. Và rồi anh yêu em, và em thật tình muốn có hạnh phúc với anh. Thật may mắn là hạnh phúc của mình không dính líu đến những bên có lỗi hay nạn nhân nào!
Người đàn bà áo trắng, tóc mượt bóng, có những đốm xanh biếc phản chiếu ánh sáng từ biển vào, đang hút thuốc, đôi mắt lim dim. Alice quay lại chồng, nhặt vài con tôm và bơ, và ăn một cách điềm tĩnh. Sau một thoáng yên lặng, nàng hỏi:
- Tại sao anh không bao giờ cho em biết mắt bà ta cũng xanh?
- Ôi dào, anh chẳng bao giờ nghĩ đến!
Anh hôn bàn tay nàng đang với rổ bánh và nàng đỏ bừng mặt vui sướng. Da sậm và lụng thụng, nàng trông có thể hơi thô, nhưng màu xanh linh động của mắt nàng và mái tóc vàng dợn sóng làm nàng trông như cô gái tóc vàng ẻo lả và đa cảm. Nàng biết ơn chồng quá nhiều. Phô trương mà không biết, mọi thứ về nàng mang quá rõ dấu vết của hạnh phúc cực điểm.
Họ ăn uống tận tình, và người này nghĩ người kia đã quên người đàn bà áo trắng. Tuy nhiên, thỉnh thoảng Alice cười quá lớn, và Marc cẩn thận bộ tịch, ưỡn ngực, ngửng đầu. Họ đợi cà phê khá lâu, trong im lặng. Một dòng sông sáng, ánh phản chiếu lộn xộn của mặt trời khuất trên cao, từ từ lướt qua biển và sáng lên ánh rực rỡ đến chói mắt.
Alice thì thầm:
- Bà ta vẫn còn đó, anh à.
- Cô ấy làm em không thoải mái à? Em muốn uống cà phê chỗ khác không?
- Không, không! Bà ta mới phải là người không thoải mái! Hơn nữa, hình như lúc này bà ta không có vẻ vui cho lắm, nếu anh thấy bà ta...
- Anh không cần. Anh biết cái vẻ của cô ấy.
- Ồ, hồi trước bà ta cũng vậy à?
Anh thở khói thuốc qua mũi và nhíu mày:
- Giống vậy? Không. Thành thật mà nói với em, cô ấy không hạnh phúc với anh.
- Ồ, anh đùa đấy thôi!
- Cách em chiều anh thật quyến rũ, đáng yêu...
Ðiên cuồng... Em là thiên thần... Em yêu anh... Anh rất tự hào khi nhìn thấy đôi mắt em. Ừ, cặp mắt đó... Cô ấy... Anh chỉ không biết làm sao cho cô ấy hạnh phúc, thế thôi. Anh không biết làm sao.
- Bà ta khó tính đấy thôi!
Alice cáu kỉnh quạt, và liếc nhanh người đàn bà áo trắng đang hút thuốc, đầu tựa lên lưng ghế mây, mắt nhắm với một vẻ uể oải mãn nguyện.
Marc hơi nhún vai. Anh công nhận:
- Chữ đó đúng. Em làm gì được? Em phải cảm thấy tiếc cho những người không bao giờ thoả mãn. Nhưng chúng mình mãn nguyện... Phải không cưng?
Nàng không trả lời. Nàng đang nhìn lén và kỹ khuôn mặt chồng, hồng hào và bình thường; nhìn mái tóc dầy, đây đó lẫn vào những sợi trắng; nhìn đôi bàn tay ngắn được chăm sóc kỹ; và lần đầu tiên nghi ngờ, nàng tự hỏi:
- Bà ta muốn gì hơn ở anh ấy?
Và khi họ rời nhà hàng, trong khi Marc trả tiền và gọi tài xế và hỏi đường, nàng tiếp tục nhìn người đàn bà áo trắng với lòng ganh tị và tò mò, con người bất mãn này, khó khăn này, trội hơn này...
Y Cựu chuyển ngữ