vhnt, số 129
11 January 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
Giới Thiệu Người Viết: Lư Ngọc Dung & truyện ngắn "Mưa Hạ"
T h ơ :
1 - Giới thiệu thơ Lê Đạt........................................PCL
- "Thu nhà em" & "Hái hoa".....................................Lê Đạt
2 - Vượt thoát .............................................Vũ Lê Phan
3 - Cybele ............................................................Chinh
4 - Hoài bảo .............................................Từ Đông Nghị
5 - Rừng xa vắng ......................................Đèo Văn Trấn
6 - Lênh đênh giữa đời ..........................Đặng Khánh Vân
T r u y ệ n N g ắ n / S á n g T á c :
7 - Mưa Hạ .................................................Lư Ngọc Dung
8 - Mảnh vườn ,................................Nguyễn Phước Nguyên
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Trong cái hàn của tháng giêng, tôi chợt nhớ tới câu thơ của thi sĩ nào thật thi vị. Không hiểu ta có thể nếm tháng giêng ngon như mùi hương cốm xứ Bắc, hay cái ngọt của một cơn gió ở bờ hồ lúc chiều xuống, hay những điều thi vị nhân cách hóa nào khác của thi sĩ, mà chỉ thấy cái lạnh của tháng giêng... tàn nhẫn. Mùa đông là mùa khó hợp với thể chất tôi. Tuy có yêu mầu tuyết trắng và ngọn lửa hồng lách tách trong lò sưởi, nhưng cái lạnh thường làm tôi ốm và ủ rũ như chim sa nước. Buổi sáng dậy tôi nhìn đời với con mắt xám, bởi cảnh vật chìm trong một màu xám, và cái lạnh thì len lỏi vào suy nghĩ và những nỗi buồn vu vơ. Lạnh!
Dù sao thì tháng giêng vẫn rất gần, và mong sao tháng giêng sẽ mãi ngon như một cặp môi ấm...
o O o
vhnt số này giới thiệu Lư Ngọc Dung, một cây viết trẻ ít xuất hiện với tên thật. Dung là tác giả những truyện ngắn đã đăng trên vhnt những số cũ, với một bút hiệu khác. Truyện ngắn "Lời Ru Của Đá" ở vhnt số trước cũng là của Lư Ngọc Dung. Dung sẽ còn đi xa nữa trong những sáng tác và tìm tòi của Dung. Văn Dung chất chứa nhiều suy tư và ý nghĩa về sự sống cái chết, những cõi mênh mông của đời ngườị Xin giới thiệu Lư Ngọc Dung và truyện ngắn "Mưa Hạ"
Cũng xin tiện thể giới thiệu một lần nữa anh Nguyễn Phước Nguyên và một truyện ngắn của anh. Nguyễn Phước Nguyên là cây viết trẻ đã xuất hiện từ 10 năm về trước, trên các tạp chí văn chương hải ngoại. Văn và thơ anh theo năm tháng vẫn lấp lánh và thêm phần phong phú.
Chúc bạn đọc một ngày vui, tìm được những giờ phút nhẹ nhàng trong ngày.
thân ái,
PCL/vhnt
G i ớ i t h i ệ u n g ư ờ i v i ế t :
L ư N g ọ c D u n g
Ðang học Chemical Engineering tại University of New Mexico, năm thứ ba. Tập viết văn từ khi học lớp sáu, thường chỉ viết nháp cho chính mình coi. Có các bài đăng trên báo tường của trường trung học. Hồi nhỏ có tham gia vào nhóm "Câu lạc bộ Sáng Tác" do tòa soạn Khăn Quàng Ðỏ tổ chức.
Mục đích viết văn bây giờ: viết để giải sầu :), để đi tìm chính mình và để tìm một chút hương vị quê hương qua những giờ phút độc thoại Việt Ngữ.
Tác giả thích nhất là Hermann Hesse đặc biệt là tác phẩm "Steppenwolf" của ông. Cũng thích Albert Camus, Jean Paul Sartre, Franz Kafka, Agatha Kristie, Mark Twain, vân vân. Tác giả Việt Nam thì thích nhất là Nguyễn Thị Hoàng với "Nhật Ký của Im Lặng" và Trần Hoài Dương với truyện ngắn "Hoa Kim Ngân."
Giới thiệu thơ Lê Đạt
Hai bài thơ dưới đây được trích từ tập thơ "Bóng Chữ" của Lê Ðạt, một hiện tượng văn học VN, và là trung tâm điểm của rất nhiều cuộc bàn cãi tranh luận quanh nhà thơ Lê Ðạt, và tập thơ "Bóng Chữ" nói riêng. Phần bình luận xin dành cho các phê bình gia, chúng ta hãy thử thưởng thức 2 bài thơ này, mặc dù trình độ hay cảm thức có thể chưa "tới", nhưng biết đâu có thể học được đôi ba điều về cái mông lung kỳ diệu bí hiểm của cõi thơ Lê Đạt, cũng là một trò chơi cầu kỳ và kỳ diệu của ngôn ngữ Việt Nam.
Cõi thơ của Lê Ðạt đẹp, đẹp một cách khác thường, như là tranh lập thể của Picasso, như những nét vẽ ngây ngô nhưng đầy thi vị và siêu thực của Marc Chagall. Những biểu hiện, những lập thể, những hình ảnh của trí tuệ được lấp lánh trưng bày trong từng chữ, từng câu. Lê Ðạt đứng một cõi riêng biệt trong thi ca. Xin ngả mũ chào nhà thơ của VN.
PCL
Thu Nhà Em
Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lông mày
Nông nỗi heo may từ đó
Mưa đêm tuổi nổi ao đầy
Ðồi cốm đường thon ngõ cỏ
Bướm lượn bay hoa ngày
Tin phấn vàng hay thuở gió
Tóc hong mùi ca dao
Thu rất em
và xanh rất cao
Hái Hoa
Anh rừng anh hái hoa
hoa lúm hoa bông thắm
hoa hồng môi thật hồng
em đùa em lấy chồng
hoa cho bông chết đắng
anh lòng anh hái hoa
hoa hái hoa bông thắm
hoa bông hoa rỏ hồng
hoa hồng hoa hồng bông
Lê Đạt
Vượt Thoát
gửi PTHX
Em muốn đạp đổ hết mọi bức tường
ngôn ngữ, thành kiến và suy luận
để rung động chân thành làm bút,
và máu bật thành màu sắc
vẽ lên những cõi vô hình
Tôi muốn làm người xưa
móc mắt, cắt lỗ tai
để được nghe, nhìn và cảm
được vài nét vô minh
Cuộc đời đã bắn hai viên đạn tàn nhẫn
vào đôi trái tim xanh
Để em hiểu rằng
sẽ chẳng có không gian và ánh sáng nào
giúp được em
khi bức tranh chưa vẽ
đã phải nằm trong một khuôn khổ
hữu hạn, vô tình
Để tôi hiểu rằng
những rung động thầm kín nhất
vốn là những hơi thở
mà ta phải trả bằng giá buông lơi
chấp nhận tức là không bao giờ nói
Hãy để tôi dìu em đi
về một nơi xa và cao hơn
trong một ân huệ duy nhất của tạo hóa...
Và rồi em sẽ hiểu
Ở một phương diện nào đó
Mọi ngôn ngữ, thành kiến và suy luận
đều như nhau
có gì lạ đâu
cho em phản ảnh...
lephan
Cybele
Tháng giêng. Cybele.
Thành phố buổi chiều không có nắng.
Thành phố buổi chiều đầy sương mù.
Thành phố buổi chiều ngây ngất rượụ
Tháng giêng rồi, Cybele.
Thành phố buổi chiều trăng vừa nở.
Nóc nhà thờ năm xưa,
Con gà vẫn nằm yên trên thánh giá.
Cybele. Cybele tội nghiệp monh manh tuyệt vọng dại khờ.
Cybele chìm khuất muôn trùng.
Tháng giêng rồi, Cybele.
Nhà thờ buổi chiều không tiếng kinh
Làm sao Cybele thức giấc?
Nhà thờ buổi chiều không tiếng hát.
Ðể ta thành kẻ lạ giữa phố xưa.
Mùa đông tình khua từng nỗi buồn
Thành phố buổi chiều, không có ai.
Ta dẫn đêm về nghe sóng sánh,
bước người động vọng, giữa lòng sâu.
Tháng giêng rồi, Cybele.
Chẳng còn ai lên lấy con gà kia, trên nóc nhà thờ.
Chẳng còn ai nữa.
CYBELE
Tháng giêng. Cybele.
Thành phố buổi chiều không có nắng.
Thành phố buổi chiều đầy sương mù.
Thành phố buổi chiều ngây ngất rượu.
Tháng giêng rồi, Cybele.
Thành phố buổi chiều trăng vừa nở.
Nóc nhà thờ năm xưa,
Con gà vẫn nằm yên trên thánh giá
Cybele. Cybele tội nghiệp monh manh tuyệt vọng dại khờ.
Cybele chìm khuất muôn trùng.
Tháng giêng rồi, Cybele.
Nhà thờ buổi chiều không tiếng kinh
Làm sao Cybele thức giấc?
Nhà thờ buổi chiều không tiếng hát.
Ðể ta thành kẻ lạ giữa phố xưa.
Mùa đông tình khua từng nỗi buồn
Thành phố buổi chiều, không có ai.
Ta dẫn đêm về nghe sóng sánh,
bước người động vọng, giữa lòng sâu.
Tháng giêng rồi, Cybele.
Chẳng còn ai lên lấy con gà kia, trên nóc nhà thờ.
Chẳng còn ai nữa.
1.10.96
Chinh
Hoài Bảo
chiều nay, gánh mộng
đổ xuống dòng sông
trôi ra biển rộng
theo sóng rêu rong
mai, ra ghềnh vắng
vớt cánh rong hoang
nhìn bọt biển tan
nhớ nguồn, nhớ cội
hai bờ biển đợi
ngày hội trùng dương
từ đông nghị
Rừng Xa Vắng
Trong tôi gai góc chập chùng
Rừng xa vắng giữa mịt mùng cá tăm
Một vầng trăng vỡ xa xăm
Ðau thay chiếc bóng buổi rằm úa sương
Cõi người, một cõi thê lương
Áo ai phiêu bạt dặm trường áo phai
Nhớ nàng tóc xỏa bờ vai
Nửa khuôn mặt, vẻ liêu trai mờ mờ
Rừng xưa mất tự bao giờ
Tiều phu khóc ngất bên bờ cỏ hoang
Ðèo Văn Trấn
Lênh Đênh Giữa Đời
Thăm thẳm xa xăm một góc trời
Thả hồn lơ lửng khắp mọi nơi
Phiêu diêu trong gió, hồn thảnh thơi
Trút xuống dương gian - gánh nặng đời!
Trước mặt nhân gian những gọi mời
Bạc tiền, vật chất trải khắp nơi
Dang tay - quyện lấy muôn màu sắc
Lấy cả giang san, lấy cả trời...
Gục ngã bên hiên, mộng rối bời
Muôn màu vạn vật thoáng mù khơi
Buông tay - vụt mất ngàn ảo vọng
Mất cả giang san, mất cả đời...
Đặng Khánh Vân
1/96
Mưa Hạ
Michael đưa tay bật máy cassette để ở đầu giường, đoạn anh vòng ra phòng ăn lấy chai Whisky và một ly rượụ Anh chậm rãi trở lại phòng của mình, đứng bên cửa sổ với ly rượu trên tay và trầm ngâm nhìn ra khung cảnh bên ngoài.
Trời đang mưạ Những giọt mưa chiều cuối hè thật nhẹ nhàng êm ả như đang vỗ về những cây xương rồng và hoa cỏ dại khô khan vì nắng hạ. Thỉnh thoảng, những tấm rèm nước trong vắt khẻ lay động vì những cơn gió nhẹ thoảng qua đập vào cửa kính, vội vã để lại những dòng lệ dài trên nền kính bóng loáng. Tiếng nước nhỏ tí tách tí tách đều đều như điệu ru ngọt ngào của mẹ, như những bản tình ca buồn muôn thuở.
Michael cứ đứng như vậy rất lâu. Dường như anh đang đắm mình hẳn vào điệu nhạc huyền ảo của cơn mưa và không còn biết đến những gì xảy ra xung quanh anh. Những tiếng hát diệu êm của các ca sĩ Việt Nam trong băng nhạc với các bản nhạc trữ tình Tiếng Mưa Ðêm, Mưa Trên Biển Vắng, Hạ Trắng hầu như không thể đánh thức anh ra khỏi trạng thái trầm tư. Ðiệu nhạc trong băng bỗng trở nên thánh thót như tiếng mưa rơị All alone since you just left mễ. Bài hát Cơn Mưa Hạ quen thuộc!!! Michael chợt như bừng tỉnh và cảm thấy đau nhói tận tâm can...
Vào một buổi tối thứ Bảy cách đây bốn năm trước, Michael và các anh bạn người Việt cùng làm ăn trong một dịch vụ máy vi tính rủ nhau đến quán karaoke L'Amour nằm ở góc đường Fairview và Westminster của thành phố Santa Ana, trung tâm của người Việt tị nạn. Là một người Mỹ hiếm hoi trong quán karaoke lại hát được nhạc Việt, mỗi lần Michael hát xong là anh được sự tán thưởng nồng nhiệt của tất cả những người có mặt, đặc biệt là nhóm sáu thanh niên nam nữ ngồi chuyện trò trong góc quán. Trong quán không có những thiếu nữ nào khác ngoài nhóm các cô gái đó ra và họ xem chừng chỉ đến đây để nói chuyện và nghe nhạc mà thôi. Dường như chỉ có các nam ca sĩ nghiệp dư biểu diễn. Vì vậy khi một giọng hát nữ ngọt ngào điêu luyện bất chợt cất lên với âm điệu tiếng Anh rất chuẩn: All alone since you just left me... mọi người đều quay lại phía các cô gái. Người hát là một thiếu nữ có mái tóc dài buông xỏa. Cô ta không đẹp lắm, song có một vẻ mặt đặc biệt mà có thể nói đã gặp rồi không ai có thể quên được. Ðó là vẻ mặt buồn xa xăm vời vợi. Dưới ánh đèn vàng mờ ảo, cô gái dường như đặt hết tâm sự vào bài hát như thể bài hát đó là về chính cuộc đời của cô. Bài hát và cô như chỉ là một. Ánh mắt cô thật lạc lõng, trống vắng mênh mang như thể cô đang nhìn vào khoảng hư vô xa thẳm. Suối tóc dài suông mượt của cô càng làm tăng thêm nét buồn diễm ảo; cô ở đó mà dường như không hiện hữu. Mọi người đều trầm lặng lắng nghe cô hát và người ta chỉ có thể cảm nhận một nổi đau xót xa qua giọng hát của cô mà thôi. Cơn Mưa Hạ là bài hát duy nhất mà Ðỗ Quyên, cô gái có nét buồn man mác, đã hát trong buổi tối hôm đó và sự xuất thần của cô qua bài hát đã khiến Michael làm quen với cô.
Michael vẫn còn nhớ anh đã đến bên bàn các cô gái giữa một tràng pháo tay vang dội ngay sau khi Ðỗ Quyên vừa chấm dứt bài hát. Anh đã cất lời khen một cách tự nhiên:
- Cô hát hay quá!
Cô gái ngước lên nhìn anh bằng một cái nhìn u uẩn như thể đánh thức trong anh nỗi cô đơn lạnh giá của kiếp sống con người và đáp lễ bằng giọng nói thật thanh tao từ mịt mù xa thẳm của không gian:
- Xin cảm ơn ông. Chính ông hát tiếng nước tôi rất hay.
Michael đã rung động. Anh cảm thấy dường như Ðông Phương với những trường ca Ramayana và Mahabharata trước những uy lực của nền văn hóa vật chất và khoa học chỉ còn phản phất nét huyền bí qua ánh mắt u hoài đó. Và một Việt Nam tươi đẹp với những bi kịch hùng tráng mà anh chỉ biết được qua những năm học hỏi tìm tòi, qua những câu chuyện thú vị theo lời kể của cha anh, một bác sĩ quân y đã từng ở Việt Nam, dường như chỉ còn biểu hiện qua giọng nói xa vời hoài nhớ của một người vong quốc. Một niềm hoài cảm đã xâm chiếm trọn hồn anh và tồn tại trong anh cho đến mãi về sau...
Những mùa hạ qua đi. Như một nhà khảo cổ muốn đi tìm lại những nét đẹp lãng quên của lịch sử, gót chân Michael đã theo Ðỗ Quyên và nhóm bạn của cô lặng lội đến Grand Canyon, Bryce Canyon, Yellow Stone, Yosemite, Rocky Mountain... trong những kỳ nghỉ du lịch của cô sinh viên ngành hóa trường đại học Wyoming, với niềm mong mỏi sẽ phá tan được màn sương mù u ám bao quanh cuộc đời cô. Michael luôn luôn thu xếp để được gần cô, để được là một người bạn của cô, để được hiểu cô vì đối với anh cô chính là hiện thân của một châu Á với huyền thoại xa xăm mà anh luôn khát khao tìm kiếm.
Một buổi sáng sớm cắm trại tại Yellow Stone National Park, Michael vừa thức dậy ra khỏi lều đã thấy Ðỗ Quyên đang bách bộ một mình giữa rừng thông. Những giọt mưa hè lạnh giá của đêm hôm trước vẫn còn đọng lại trên cành lá. Sương mờ ngập phủ. Những ngọn thông chìm lẩn trong mànsương dày đặc. Ðỗ Quyên xoả tóc trong chiếc áo choàng đen với vòng khăn hờ hửng quấn quanh cổ. Cô đang đăm đăm nhìn về một hướng, một cái nhìn huyễn ảọ Michael có cảm tưởng như khi mặt trời hé rộ, cô cũng sẽ tan biến đi cùng với làn sương mờ lung linh của rừng núi. Anh đến gần cô và hỏi nhẹ:
- Quyên, em đang nghĩ gì mà mơ màng thế?
Cô gái đáp lời anh như trong một giấc mơ diệu vợi đầy đau xót:
- Anh không thể hiểu được. Sương mù ở đây giống sương mù Ðà Lạt ngày nào. Mẹ em thường thức dậy mỗi buổi sáng vào giờ này. Còn anh ấy sau mỗi mùa thi thường hẹn với em giờ này ra ngắm bình minh. Anh ấy và mẹ đã tan lẫn vào màn sương này. Em muốn gặp họ.
Michael sửng sờ. Anh đã nghe bạn bè của Quyên kể lại những bất hạnh của gia đình Quyên nhưng anh chưa bao giờ hỏi và cũng không bao giờ nghe Quyên đề cập đến trong vòng hai năm kể từ ngày anh quen với Quyên. Mẹ Quyên đã bị chôn vùi dưới sóng biển trong một chuyến vượt biên, và ba Quyên khi cùng cô vượt biên và sang định cư ở Mỹ đã lấy vợ khác. Người yêu của cô, một sinh viên của trường đại học Tổng Hợp Ðà Lạt đã chết thảm thương trong một tai nạn xe cộ chỉ một tháng trước ngày cưới của hai ngườị Michael chợt nhận ra rằng đối với các phụ nữ Á châu, họ ít khi bộc lộ niềm đau đớn nội tâm ra ngoài bằng lời nói. Thực tế, Quyên chưa bao giờ quên được người yêu của mình và chưa bao giờ quên được cái chết của mẹ mình. Có lẻ vì vậy mà Quyên luôn có vẻ buồn sâu thẳm. Phải chăng những mất mát đã gậm nhấm cô gái Việt Nam này cũng như chiến tranh đã tàn phá mảnh đất Việt Nam tươi đẹp? Anh nói một cách thông cảm:
- Quyên, những sự việc xảy ra không ai có thể ngờ trước được, chỉ là thái độ của chúng ta chấp nhận chúng như thế nào mà thôi... Quyên có thể quên đi những đau buồn được không?
Cô gái đã im lặng và anh phải lắc đầu thở dài. Thật là đau xót biết bao khi anh cảm thấy mình bất lực không thể làm dịu vơi nổi khổ đau của người khác, nhất là một người bạn thân của mình...
Trời vẫn cứ mưa, Michael nhấp một nhấp rượu và lại nhìn ra cửa sổ. Anh cảm thấy buồn vô tận. Sáng nay anh vừa đi đám tang Quyên; Quyên mất vì bị bướu não ác tính. Anh chỉ kịp bay từ Phoenix qua Laramie thăm Quyên trong những giờ phút cuối. Trong nổi đau đớn của những giây phút đón chờ thần chết, Quyên đã nói với anh bằng giọng nói thật thân mật, gần gũi:
- Mike, Quyên rất cảm ơn những gì anh đã làm. Anh là một người bạn tuyệt vời. Anh có biết không, thật không có gì khích lệ cho bằng được một người hiểu mình tường tận, biết rõ những lỗi lẫm lẫn những điểm tốt mà vẫn làm còn là bạn tốt của mình...
Michael bỗng luyến tiếc. Anh chợt nhớ đến một buổi trưa anh cùng Quyên đến ăn ở quán Việt Nam duy nhất tại Fort Collins, Colorado, cách Laramie một giờ lái xe. Họ có một cuộc tranh luận nhỏ; có lẻ đó là cuộc tranh luận mà Quyên tỏ ra sống động nhất. Anh đã bình luận về nét buồn trầm mặc của Quyên:
- Em đang ở đây, nhưng tâm trí em hình như đang ở đâu đâụ Phải chăng em đang ở Ðà lạt?
Quyên đáp từ tốn:
- Có lẻ vậy. Quyên luôn luôn cảm thấy mình là một người lạ trên mảnh đất này. Những khác biệt về phong tục, tập quán và ngôn ngữ quá lớn. Quyên sống ở đây như một tên bù nhìn, một con rối; Quyên không thể và không bao giờ hiểu được những người ở đâỵ Vả lại, trong tâm trí Quyên, Ðà lạt vẫn luôn luôn có anh ấy và mẹ. Có lẻ Quyên sẽ trở về đó sau khi học xong Ph. D. Cuộc sống ở đây quá vội vàng, chóng vánh, rốt cuộc có lẻ Quyên chỉ mong mỏi tìm một niềm bình an nơi quê hương của mình.
- Xin lỗi Quyên, nhưng họ đã chết rồi. Dù cho nơi đó có là quê hương của Quyên, nhưng khi Quyên về, với những thay đổi nơi Quyên và nơi vùng đất ấy, liệu Quyên có thể có được niềm bình an Quyên tìm kiếm hay không?
Michael nhìn Quyên rồi chậm rãi nói tiếp:
- Anh nghĩ là Quyên luôn là một kẻ tha hương cho dù ở bất cứ nơi nào trên quả đất này vì rằng Quyên không bao giờ bằng lòng với những gì trong hiện tại, vì rằng Quyên luôn mong mỏi một cái gì tuyệt đối không thể tìm được trên cõi đời này. Ngay cả như nếu anh ấy sống lại, Quyên cũng sẽ luôn luôn mơ màng về một tình thương bao la hơn, một cõi sống cao thượng hơn... Quyên sẽ luôn như một người dân vong quốc với nỗi Buồn Nhớ Cố Ðô và cố đô đó chỉ tồn tại trong tâm tưởng của mình Quyên mà thôi.
Quyên nhìn anh đầy bất ngờ rồi nói một cách trầm tĩnh:
- Có lẻ anh nói đúng. Nhưng Mike, chính anh cũng là một kẻ tha hương ngay trên quê hương của anh. Anh học hỏi về Việt Nam, về châu Á với tất cả niềm khát khao được trở về với những huyền thoại của vùng đất da vàng. Nhưng thực tế những gì anh học hỏi chỉ là những khoảnh khắc được ghi lại mà thôi. Anh sẽ không bao giờ thấu triệt được những huyền bí vì chúng giống như những bí ẩn của cuộc đời, phải sống cho hết cuộc đời mình mới biết được ý nghĩa và sự bình an tuyệt đối. Phải, chỉ khi nào anh bước vào màn đen giữa cái chết và sự sống anh mới sẽ hiểu được những kỳ diệu. Cho dù anh là một thương gia thành công, một kỹ sư tên tuổi, anh vẫn luôn muốn trốn chạy cuộc sống kỹ nghệ hoá năng động ở xứ sở này bằng âm nhạc, bằng hội họa, bằng văn chương, bằng thể thao, vân vân. Anh cũng như Quyên mà thôi, tiềm thức của anh cũng luôn tìm kiếm điều tuyệt đối.
Michael đã cười giả lả:
- Isn't it right that we all have the birth trauma as Richard Churn once said?
Phải, the birth trauma. Giờ đây, có lẻ Quyên đã đi về quê hương của cô, nơi có người yêu cô và mẹ cô đang chờ, đã đến một nơi bình yên mà cô ấy hằng mong ước. Cô đến nơi cô đã ra đi. Còn anh, ngày mai anh sẽ còn nhiều vấn đề phải giải quyết trong công ty, trong dịch vụ với khách hàng, sẽ trở lại với cuộc sống bận rộn hàng ngày vắng bóng người bạn có những hoài mong bí ẩn như chính anh.
Even now, you 've gone away
In my heart, love always stay
Day by day, I 'm here waiting
And you know yoúre always on my mind...
Ca sĩ trong băng đã kết thúc bài Cơn Mưa Hạ. Một dòng nước mắt chảy dài trên gò má Michael hồi nào anh không hay. Ðoạn kết của bài hát đúng như nổi tâm sự của cô bạn Việt Nam của anh. Ðỗ Quyên không bao giờ quên được tình yêu mà mẹ cô và người yêu cô dành cho cô. Và anh, có lẻ anh sẽ không bao giờ rủ bỏ được nổi hoài nhớ về cô. Michael nâng ly rượu lên và nói một mình:
- Quyên, chúng ta đều la những kẻ xa lạ trên mảnh đất này như L'estranger của Albert Camus. Vĩnh biệt em. Cầu chúc cho em bình an trên đường về quê hương.
Anh nốc cạn ly rượu và nhìn những hạt mưa rơi xuống một nhánh lá xương rồng. Hạt trước vỡ tan để hạt sau nối tiếp liên tục. Những hạt mưa vỡ lại biến thành những chuổi hạt nhỏ li ti len qua kẽ lá rớt xuống thấm vào lòng đất. Có lẻ một ngày nào đó chúng lại bốc hơi trở thành mây rồi sẽ thành mưa tưới mát đất đai.
Anh thở dài vì biết rằng có lẻ sẽ không bao giờ anh còn có thể bắt gặp một nét buồn diễm ảo của Ðông Phương huyền bí lần thứ haị Trong lòng anh chỉ còn lại là một nổi trống vắng. Phải chăng đó là tình yêu.
Bên ngoài, trời vẫn mưa nặng hạt.
Jul 20, 1995
Lư Ngọc Dung
Xin gởi đến truyện ngắn Mưa Hạ dù rằng đã có lúc NDL phải hối hận vì truyện làm cho nhiều người buồn khi đọc nó.
Mảnh Vườn
Qua Mỹ được bốn năm gia đình tôi mới mua được một căn nhà. Lúc mới xuất trại, chúng tôi được một nhà thờ Tin Lành bảo trợ về ở Wisconsin. Thành phố nhỏ chỉ có mỗi gia đình tôi là người Việt. Người ta lo cho đủ thứ áo quần, chén dĩa, nhà cửa, ti-vi, tủ lạnh... Ba tôi đi học nghề theo chương trình trợ cấp của chính phủ cùng với hai anh lớn của tôi. Mẹ tôi buồn bởi chuyện hai anh tôi phải đi học nghề lắm, vì người muốn mấy ảnh đi học đại học tiếp tục. Nhưng vì tiếng Mỹ thì không rành, mà tiền cũng không có. Nên đành. Hai năm ở đó chẳng có gì lạ. Đến khi ba tôi mãn khóa, mẹ tôi bảo là ở đó buồn, ít đồng bào, mùa đông thì quá lạnh - nên người muốn dọn về phía Nam. Cũng lạ, suốt hai năm mẹ tôi chịu lạnh không thấu mà vẫn cắn răng chịu đựng cho ba tôi yên tâm đi học nghề, không nói một câu nào cho đến hôm đó. Sau nầy tôi mới biết lý do. Lần đó mục sư nhà thờ dụ tôi và em gái tôi vô đạo. Nhà tôi đạo Phật. Hai đứa tôi về kể lại, cả gia đình bàn thảo. Rồi không hiểu vì sao tôi và em gái tôi cãi nhau. Bằng tiếng Mỹ. Và mẹ tôi biết mình phải làm gì.
Khi về Houston, chỉ cò anh Hai tôi được việc làm trước nhất. Làm thợ tiện, đúng với nghề học. Ba tôi cũng chạy xuống hãng đó xin việc làm cùng với anh Ba tôi. Được cả hai. Ba tôi cũng đi làm thợ tiện. Anh Ba tôi học kỹ-nghệ-họa, nhưng cũng được cho đi quét sắt vụn. Gia đình tôi ở chung cư. Được hai năm sau cả nhà quyết định phải mua nhà - "Chứ không lẽ cứ đưa tiền cho nó mà lúc đi chẳng có cái gì trong tay.". Mẹ tôi hay nói thế. Cái-gì-trong-tay đó là cái nhà chúng tôi đang ở hiện nay. Nghĩ cũng buồn cười. Cái nhà phải trả nợ đến ba mươi năm mới là của mình, nhưng mẹ tôi vẫn thích những cái-tạm-là-của-mình đó.
Những tháng năm kế tiếp, tôi và em gái tôi vẫn lớn lên như bao đứa trẻ Việt Nam khác. Nghĩa là vô trường nói toàn tiếng Mỹ, về nhà ‘thỉnh thoảng’ chêm tiếng Mỹ vô tiếng Việt. Mẹ tôi rất hãnh diện với sự ‘thỉnh thoảng’ đó, bởi dù sao con mình cũng ít nói tiếng Mỹ ở nhà hơn những đứa trẻ khác.
Nhà tôi khá rộng, nhưng khu vườn quanh nhà thì rất hẹp. Gọi là vườn, chứ thật ra, chỉ có một vùng đất nhỏ trước mặt tiền. Những phía còn lại thì chỉ là hai, ba thước đất bọc bởi hàng rào bằng gỗ. Vậy mà mấy năm sau, ba mẹ tôi đã trồng được đủ thứ rau, trái - mỗi thứ một ít. Trên thì giàn mướp, khổ qua, bầu... Dưới đất thì quế, hẹ, bạc hà, rau răm, húng cây, húng nhủi. Buồn cười em gái tôi. Lúc đầu, mẹ tôi bảo ra vườn cắt rau là sớm muộn gì cũng phải ra cắt lấy. Bởi em gái tôi nào biết rau nào tên gì đâu mà cắt. Mẹ tôi vừa cắt, vừa chỉ. Riết cũng quen. Có điều, mỗi lần nhà ăn bún, phải cắt rau cho mẹ, em gái tôi vừa đi, vừa nói lầu bầu một mình: "Húng nhủi!... Rau gì tên kỳ cục..." Vậy đó, mà cắt cũng trúng.
Ba tôi lúc nào cũng vậy. Mỗi buổi chiều đi làm về, vô thay đồ, mặc cái quần đùi dài tới đầu gối (mẹ tôi đã cắt hai ống sau một lần bị rách), ra sau vườn loay hoay mãi cho tới khi ăn cơm mới vô. Người ngắt đọt quế, hẹ cho mau lên. Người bắt ghế lung lay giàn mướp, giàn bầu, coi có chắc chắn không. Rồi sửa lại vị trí của trái mướp nầy cho nó khỏi bị cấn, cột lại giàn bầu chỗ kia, hoặc lấy vỏ trứng gà vùi quanh gốc cây ớt, cho nó cay (?). Thậm chí, mỗi lần nhà ăn tôm, người luộc đầu tôm đem chôn dưới đất. Cho tốt. Cũng may là đầu tôm luộc, chứ nếu là đầu tôm sống chắc láng giềng họ kiện cho chết luôn, vì mùi biển quá nặng. Cuối tuần ba tôi hay đi họp lung tung. Ba tôi xưa là lính, hơn hai mươi năm. Những lần đi như thế, người bảo tôi ở nhà tưới cây, tưới rau. Tưới cây là một cực hình với tôi. Nào là giàn bầu, giàn mướp phải tưới gốc cho thiệt ướt, rồi phải tưới lên trên giàn nữa. Rau thì phải tưới nhè nhẹ, kẻo trôi đất, tróc rễ. Còn mấy bụi hồng trước nhà ba trồng cho mẹ nữa. Phải vặn vòi nước thật nhẹ, tưới lên lá, lên hoa ‘như sương’ cho tươi lâu hơn. Đó là chưa kể lâu lâu bị kiến cắn. Nhà tôi có một ổ kiến lửa khá to sau vườn. Mẹ tôi không cho phá đi, sợ tội sát sinh. Ba tôi không đồng ý, nhưng cũng chìu theo ý mẹ. Mẹ bảo để nhìn nếu kiến dời tổ là biết khi nào có mưa lớn. Lúc đoán đúng thì mẹ nhìn ba nói: "Anh thấy chưa!". Còn khi nào đoán trật thì mẹ lại bảo: "Tại vì con kiến Mỹ nó... ngu hơn kiến Việt Nam!". Lúc đó, ba tôi thường ngó tôi nháy mắt cười hóm hỉnh. Hình như mẹ tôi cũng muốn cười lắm, mà cố làm nghiêm.
Cánh đây mấy năm, bão Allen thổi vào Texas. Lúc đó ba tôi đi họp xa, gọi điện thoại về nhà bảo tôi cột chặt lại giàn mướp, giàn bầu cho chắc - kẻo không gió thổi sập hết. Tôi dạ dạ, vâng vâng. Nhưng rồi lại quên hẳn đi vì mê coi ti-vi đến khuya. Sáng hôm sau, khi bão tan, ba tôi về lúc tôi còn đang ngủ. Người ra sau vườn lui cui một mình lấy cây gỗ chặt nhỏ làm lại giàn mướp bị bão thổi sập đêm qua. Mẹ tôi thì đã lục đục trong bếp từ sáng sớm, như ở Việt Nam, để khi ba tôi về có cháo ăn sáng cho khỏe sau chuyến lái xe đi họp xa. Tôi thức dậy trời đã sáng hẳn, nghe tiếng ba tôi đang chẻ cây sau vườn. Sực nhớ tới giàn mướp, tôi tốc mền chạy ra - Ba tôi đang ngồi chẻ cây bằng con dao sắt mà anh Hai tôi đã làm trước khi bỏ nghề thợ tiện để đi học lại đại học. Thấy tôi, ba nói: "Thằng Út! Vô nhà thay đồ đi, rồi ăn sáng. Mẹ có cháo ở trỏng.". Và tôi chết sửng, tưởng sẽ bị la một trận nên thân. Nhưng không. Hình như ba tôi đã đoán trước định mệnh giàn mướp của người. Tôi vô nhà sửa soạn, thay đồ. Vừa tính ra phụ ba thì mẹ tôi đã gọi ngược lại, bắt ăn hết tô cháo lót lòng rồi mới cho đi ra vườn. Khi ra đến nơi, ba tôi đang đứng trên ghế chấp cây làm lại giàn mướp. Người bảo tôi đứng ở dưới chuyền cây lên để cột cho lẹ. Dưới ánh nắng vào trưa, bóng của ba tôi vô tình ngả lên chỗ tôi đứng. Và tôi chợt muốn khóc, thấy mình thật có tội. Ba tôi vừa làm, vừa nói với tôi:
- Sửa lại giàn mướp cho con Út (em gái tôi) có mướp ăn. Út nó thích mướp. Tội nghiệp, lúc đi còn quá nhỏ nên nó đâu có biết mướp ở bển ngọt ra sao. Con may mắn hơn em, sinh trước mấy năm, nên còn nhớ.
Từ đó, tôi biết thương cái vườn. Tôi biết niềm vui những khi ra sau vườn, tìm được một trái mướp mới, còn non nằm núp sau đám lá rậm. Mỗi lần nhà ăn tôm, tôi cũng biết tự động xách cái xẻng theo ba tôi mang đầu tôm luộc ra sau vườn chôn dưới đất. Cho tốt.
Mùa đông năm nay sắp đến. Hôm qua ba tôi cùng tôi bứng rau bỏ vô chậu nhỏ đem vô trong nhà để làm giống cho năm sau. Người đem cỏ khô để dành từ những lần cắt cỏ mùa hè phủ lên khoảng đất đang trụi dần, bảo làm như vậy mùa xuân năm sau rau sẽ mọc nhiều hơn. Nhìn khoảng đất đầy cỏ khô, người nói với tôi:
- Từ đây về sau con ráng lo vườn rau cho mẹ. Ba sẽ bận nhiều hơn. Hai anh con còn đi học. Con may mắn hơn hai anh, được học hành suông sẽ. Bây giờ đi làm trước thì lo lại cho mẹ và em. Đừng như ba hồi đó sớm xa nhà, bây giờ có muốn lo cho Bà Nội, Bà Ngoại, chú Sáu, cô Bảy của con cũng không làm sao được. Con lớn rồi, đủ để hiểu những điều ba nói, những chuyện ba đang làm. Ba già rồi, nhưng ba không muốn chết già bên nay. Còn con Út nữạ Ba muốn nó được tự do ăn cây trái, rau cải bên nhà. Rau trái trồng bên này ăn hổng ngọt bằng bên bển. Con hiểu không?
Tôi gật đầu, nhớ lại những lần ba tôi bàn với mẹ về một chuyến đi xa, sau kỳ đi họp mùa bão năm nào. Em gái tôi, lúc đó, từ trong nhà bước ra. Một tay cầm rổ, tay kia cầm con dao nhỏ để cắt rau. Vừa đi, vừa nói lầu bầu một mình:
- Rau húng nhủi !... Tên gì kỳ cục...
Tôi ngó ba tôi. Ánh mắt người nhìn em gái tôi thật hiền từ. Chợt tôi nghe thương ba, mẹ và em gái tôi thật nhiều. Và tôi bỗng dưng thèm được cùng có mặt trong một chuyến đi xa nào đó, sẽ đến, với ba tôi.
Nguyễn Phước Nguyên
Văn Học Nghệ Thuật 1985
chép lại và bổ túc tháng 1, 1996