vhnt, số 188
22 May 1996
Trong số này:
thư vhnt...............................................Nguyễn Tiến Dũng (viết thay PCL 1 kỳ)
T h ơ :
1 - Trầm hương .............................................Sung Nguyễn
2 - Ngày ..................................................Trần Thái Vân
3 - Nét đời trên môi ..........................Nguyễn Hiện Nghiệp
4 - Ðò chiều .................................................Ðức Lưu
5 - Ðọc thơ cũ: Lá Diêu Bông .............................Hoàng Cầm
S i n h H o ạt V ă n H ọc :
6 - Giới thiệu sách báo trong tháng .....................N T Dũng p/t
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Rơi tự do ............................................Bùi Thanh Liêm
8 - Tháp ký ức ...........................................Phùng Nguyễn
22 tháng 5, 1996
Giữa tháng 5, Florida đã có vài trận mưa. Lất phất, nhẹ nhàng. Nhìn qua khung cửa sổ, ngắm những giọt mưa bay lượn, nghịch ngợm bên ngoài, và bên trong là những giòng nhạc trữ tình của Chopin đang thầm thì qua chiếc headphone đeo trên tai. Hạnh phúc quá đỗi! Tôi yêu mưa. Dứt khoát là vậy. Chẳng thế mà bài thơ làm đầu tiên, hồi còn bé, là bài thơ viết về mưạ Và cuốn phim "La passer dans la pluie" do Charles Bronson đóng năm xưa vẫn còn in trong đầu.
Nhưng ngoài cái dịu dàng thơ mộng lẫn lãng mạn của mưa, là thấp thoáng giông bão, sấm chớp, là những cơn lốc. Trong mưa có cái êm đềm, nhưng trong mưa cũng có sự bất an. Cũng như mưa, văn chương nghệ thuật, ngoài những tác phẩm ngọt ngào, có hậu, cũ ng có những tác phẩm nổi loạn, khó tiêu, làm điên đầu độc giả. Phải chăng văn chương chỉ nên vuốt ve, chiều chuộng người đọc? Không, tuyệt đối không. Văn chương nghệ thuật phải phản ảnh thời đại đương thời, cả mặt tốt lẫn mặt xấu. Nếu không làm gì chúng ta có những đại tác phẩm như Chiến Tranh và Hoà Bình của Tolstoy, Tội Ác và Hình Phạt của Dostoyesky, Những Người Cùng Khổ của Victor Hugo? Cám ơn những nhà văn, nhà thơ, những hoạ sĩ, nhạc sĩ đã có những tuyệt phẩm góp mặt cho cõi nhân gian mỏng manh này.
Nguyễn Tiến Dũng
(viết thay PCL 1 kỳ)
Trầm Hương
Ðốt nén trầm
Khói lan xa
Ôm hương cho mình
Lỗ mũi đen
Ðốt nén trầm
Quạt khói lan xa
Mang hương cho người
Lòng trống không
Ðốt nén trầm
Gió thoảng
Miếng gỗ khô
Thành lời hư vô
Ðốt nén trầm
Ði chơi
Sung Nguyễn
Ngày
Ngày như một áng mây
Bay qua, bay qua mãi.
Ngày như những cọng râu
Mọc dài, dài thêm mãi.
Ngày như chó không nhà
Cong đuôi, cong đuôi mãi.
Ngày như con mèo nhỏ
Ngủ gật, ngủ gật hoài.
Ngày đi trong ảo tưởng
Vạn ảnh vô hình hài.
Ta đánh bể tấm gương
Hình hài rơi từng mảnh.
Ta xoá bỏ nhớ thương
Thân làm chim gãy cánh.
Ta đốt chữ thành tro
Góp lại không là thuốc.
Ta viết ngàn câu thơ
Cột không tròn nửa bước.
Ta không là Giả Ðảo
Ba năm thơ không thành
Thơ hai câu hoài bảo
Giả Ðảo lệ vòng quanh.
Ta khờ hơn sỏi đá
Sỏi đá thành thời gian
Buồn nhăn nheo trên má
Tóc thành mây trên ngàn.
Ngày tiếp tục thay nhau
Người ngoảnh mặt xa nhau
Ta sợ ta bỏ trốn
Kiếp nào mới gặp nhau?
trần thái vân
nét đời trên môi
giữa mùa
đông trắng,
hạ xanh
ta tìm
nhặt
nhánh xuân hồng,
từ duyên
đời không cho những bình yên
em về
ngả bóng lên triền miên
ta thương em
đau
rát
thịt,
da
thương ngàn năm - một sát na dật dờ
bấm tay, rõ được thiên cơ
thương em,
biết,
chỉ tình cờ mà thôi
này em, tô lại bờ môi
vẽ cho ta
một nét đời
phấnson
từ xưa
trái đất quay tròn
ta
trên trái đất
quay tròn quanh em
tiền thân em là kiếp chim
chim bay biển
Bắc,
ta tìm biển
Nam
nguyễn hiện nghiệp
Đò Chiều
Nhà em ở mé đây sông,
Nhà tôi cũng ở bên hông chợ làng
Mỗi chiều một chuyến đò ngang
Ðưa em bên nớ bán hàng chè xanh.
Che nghiêng nón vải rộng vành,
Áo bà ba thắm nắng hanh chiều tàn.
Tôi, nàng cùng một chuyến sang,
Lái đò cùng với cô hàng chè tươi.
Ðầu thu năm ấy đưa lời,
Gió thu năm ấy cũng hơi ướm tình
Trái ngang chi lắm sự tình
Dẫu sao cũng chỉ thân chinh lái đò,
Rồi trong một phút giằng co,
Em quen phụ khó, dẫn đò tìm sang.
Gặp nhau mỗi buổi chợ làng,
Sao em lại vẫn ngỡ ngàng, dửng dưng?
Hoạ chăng em ngại chồng gần?
Hay là em ngại tấm thân tôi nghèo?
Người ta tốt số của nhiều,
Dẫu xa xôi mấy la điều kể chi.
Hoặc chăng vì chữ hiếu nghì?
Mai sang phố chợ em đi lấy chồng.
Mặc tôi trơ trọi trống không
Như con đò nhỏ lạc giòng bến mơ,
Biết đâu nối lại đường tơ,
Biết đâu gửi gấm tình thơ ít, nhiều.
Ði, về hai buổi đò chiều,
Mà nghe gió lạnh hắt hiu trăm lần.
Cuối thu gió lại buốt dần,
Xua con đò nhỏ muôn phần chơi vơi.
Lá thu lả chả tuôn rơi,
Từng cành run rẩy buông lời thở than:
Cách nhau một chuyến đò làng
Bởi chưng xấu phận, nên nàng xa anh...
Ðức Lưu
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 tại tỉnh Bắc Giang. Ông có những tập thơ nổi tiếng như Bên Kia Sông Ðuống, Về Kinh Bắc... và kịch thơ như Viễn Khách, Kiều Loan, Men Ðá Vàng, Lên Ðường... Cõi thơ của Hoàng Cầm thật bát ngát, bát ngát vì Ông luôn cảm nhận và cảm thông được với những nỗi đau thân phận của Con Người.
Lá Diêu Bông
Váy Ðình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Ðồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo:
- Ðứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày, Em tìm thấy lá
Chị chau mày
- Ðâu phải lá Diêu Bông.
Mùa Ðông sau, Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười, xe chỉ ấn trôn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Ði đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!
Ới Diêu Bông!...
Hoàng Cầm
SÁCH BÁO TRONG THÁNG
Vương Hữu Bột * Lê Tam Ca * Phạm Xuân Đài
Hoa Ðịa Ngục tập 2 (Hạt Máu Thơ) thơ Nguyễn Chí Thiện, tác giả xuất bản và giữ bản quyền, 171 trang, giá US$12.00, không ghi địa chỉ liên lạc. Tập một, là tập thơ Nguyễn Chí Thiện trao tại tòa Ðại sứ Anh ở Hà Nội năm 1979, và sau đó được xuất bản ở hải ngoại với tên Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam. Sau khi trao tập thơ này, Nguyễn Chí Thiện lại bị bắt, và lại tiếp tục làm thơ trong tù. Cho đến năm 1988, ông làm được hơn bốn trăm bài, cố gắng học thuộc chứ không ghi chép gì được. Khi ra khỏi tù năm 1991, về nhà định chép ra giấy thì ông mới thấy là đã quên gần hết. Phải mất hơn một năm sau ông mới cố gắng "khôi phục" lại được hơn ba trăm bài, nhưng không chuyển đi nước ngoài được. Sang đến Hoa Kỳ ngày 1 tháng Mười Một 1995, ông bắt đầu viết các bài thơ ấy ra giấy ngay, sợ để lâu nữa lại quên. Các bài ấy đã làm thành Hoa Ðịa Ngục tập 2 ngày hôm nay. Các bài thơ trong tập này, cũng như tập trước, chủ yếu nói về cảnh bi thương trong nhà tù Cộng Sản. Ông là nạn nhân, là chứng nhân bi đát của chế độ ấy, ông tự thấy trách nhiệm của mình: "Coi mình là người ghi chép cảnh thực, tình thực của một giai đoạn lịch sử đau đớn tột độ, tôi luôn luôn tôn trọng sự thật, không cường điệu, khuếch đại, bôi đen, hoặc gay cấn hóa. Vả lại, nguyên những sự thực cũng chỉ ghi được phần nào, cần gì phải vẽ vời thêm!"
Tác giả đã ghi lại bằng thơ, một loại nghệ thuật bóng bẩy. Nhưng thơ Nguyễn Chí Thiện thì không bóng bẩy, nó cố vươn tới sự giản dị tối đa, và ta nhận ra điều này: hình như dùng sự giản dị để mô tả cái bi đát thì hiệu quả hơn là sự màu mè, vì dễ đi thẳng vào tim người ta hơn là những gì vướng víu nhiều hoa lá cành. Nghệ thuật ở đây rất đơn giản nhưng làm chúng ta "nhợt nhạt cả mặt mày" khi đọc đến, và hiểu được rằng đối với một số người, quả thật sự đau khổ đã làm cho họ thành lớn lao.
oOo
Trầm Hương, thơ Liễu Nhiên, do Anh Em xuất bản, bìa và phụ bản của Nguyễn Hữu Nhật, lời bạt của Hồ Trường An, 95 trang, không ghi giá bán.
Tôn giáo là một đức tin, một giáo thuyết để con người tu tỉnh hướng về điều thiện. Nhưng cũng nhiều khi tôn giáo hiện ra trong góc cạnh tình cảm, và thường được diễn đạt bằng thơ ca. Thơ và đạo xem ra không mâu thuẫn nhau, vì đều là các khám phá mới lạ của tâm linh, nên cái này chuyển tải cái kia một cách rất tự nhiên, không ì ạch khổ sở như khi dùng thơ để diễn tả những thắng lợi chính trị hay thành tựu về sản xuất chẳng hạn. Mỗi khám phá về đạo đối với Liễu Nhiên có thể thành một cảm hứng, và tác giả đã phổ thành thơ. Có lẽ đó cũng là một cách ghi nhận và đánh dấu trình độ chứng ngộ của mình, nhưng được thể hiện một cách... văn nghệ. Người đọc những vần thơ đạo ấy, tùy căn cơ, có thể có những nắm bắt và rung động với các khám phá tâm linh của tác giả.
oOo
Những Ngày Xa Xưa Ấy hồi ký của Thu Tâm, Thế Kỷ xuất bản, 120 trang, giá US$10.00.
Những ngày xa xưa ấy cách đây 60 năm, của một phụ nữ Việt Nam nay đang ở tuổi tám mươi, viết về mối tình thủa thanh xuân của mình. Bà Thu Tâm hiện nay đang ở Sài Gòn, trước kia đã là người tình và là vợ hai của ông Trần Huy Liệu, một đảng viên cao cấp cộng sản thời trước 1945, nhưng sau phải rời xa ông vì kỷ luật đảng buộc ông phải "thôi" bà vợ hai. Thiên hồi ký mỏng kể lại một mối tình khá lạ lùng và không kém phần thơ mộng, và mặc dầu có một kết thúc nghiệt ngã, những người tình một thời vẫn không hề quên nhau. Giọng văn thành thật của một cây bút khá vững về thơ văn cùng với tấm lòng thiết tha và kinh nghiệm sống đã cống hiến cho chúng ta vừa một chuyện tình, vừa là những trang tài liệu đặc biệt về một thời đã qua. Ðể bổ túc cho câu chuyện ấy, nhà xuất bản đã sưu tầm thêm một số tài liệu liên quan đến ông Trần Huy Liệu và bà Thu Tâm và in vào phần phụ lục, giúp cho những trang hồi ký của một người tuổi đã cao và sống trong một hoàn cảnh đặc biệt thêm tính chất xác thực. Trần Huy Liệu, nhân vật mang huyền thoại là người thay mặt cách mạng nhận ấn kiếm của ông vua thoái vị Bảo Ðại năm 1945 tại Huế, nay hiện ra với tất cả vẻ "người" của ông trong tình yêu và trong những vần thơ tình lắm khi rất đẹp của ông. Vẽ lại bộ mặt thực của một chút lịch sử, đó chính là giá trị của cuốn sách này.
oOo
Marie Sến tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài, Thanh Văn xuất bản, 158 trang, giá US$10.00.
Nhà văn Phạm Thị Hoài, hiện định cư tại Berlin, Ðức Quốc, là một trong những nhà văn trẻ thuộc thế hệ mới (gồm Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Bảo Ninh...) từng làm thay đổi nền văn chương quốc nội những năm cuối thập niên 80. Ðây là cuốn sách mới nhất của tác giả, vừa viết xong vào cuối năm 1995. Tạp chí Văn Học (Nam California, Hoa Kỳ) đã nhận xét về cuốn này như sau: Cuốn truyện là một tác phẩm đề cập tới những xáo trộn của Hà Nội hiện nay trong giới trí thức, viết bằng một bút pháp dữ dội, quyết liệt, khinh bạc tột cùng, nhưng đồng thời vẫn bàng bạc một vẻ thơ mộng hiếm cô Marie Sến mới mẻ, độc đáo cả hình thức lẫn nội dung, nên dĩ nhiên không thể in trong nước. Hãy đọc vài câu trích trong chương mô tả một hội nghị của những nhà trí thức Hà Nội: "Tôi cũng nghe thủng mọi ý tứ của các nhà bác học cấp tiến ôn hòa, cũng chiêm ngưỡng họ thi đua nhân cách, nhưng thú thực nghe nhìn xong ít khi nhớ được điều gì. Có lẽ vì ý kiến họ na ná nhau, nhân cách họ từa tựa nhau, họ lại có tật nói dài, nói rất dài, người này lặp lại người kia và lặp lại chính mình không mệt mỏi, không đếm xỉa đến sức khỏe của người nghe, và dán đầy trích dẫn đông tây lên trụ cột tư tưởng như những cột áp phích kín mít. Ai không theo phong cách đó có thể bị coi ngay là thất học, hay chưa chín mùi." Tác phẩm Marie Sến có một nội dung và phong cách vô cùng đặc biệt, lâu lắm mới thấy xuất hiện trong văn học Việt Nam.
oOo
Quả Bóng Tuổi Thơ tập truyện thiếu nhi của Ngọc Thủy, Cơ Sở Văn Hóa Ðông Phương xuất bản 1995, 87 trang, giá US$5.00.
Ngọc Thủy rất có tài viết truyện cho trẻ thơ. Cô không viết truyện cổ tích, mà lấy đề tài trong đời sống hàng ngày, rất gần gũi với con trề Tuy chuyện quen thuộc nhưng lối kể của cô rất hấp dẫn, trẻ em đọc không chán, mà lại học được nhiều kiến thức lồng trong đô Cô viết về tình gia đình, tình bạn, về loài vật, cây trái và các sinh hoạt của trẻ thơ, lời văn trong sáng và lôi cuốn với hậu ý giáo dục rất khéo léo. Một cuốn sách rất tốt để các em bé Việt Nam ở hải ngoại tập đọc tiếng Việt.
oOo
Gởi Người Dưới Trăng tuyển tập thơ của Cung Diễm, Nguyễn Phúc Sông Hương, Khương Hạ, Tâm Huyền, Vi Khuê, Hà Ly Mạc, Sương Mai, Duy Năng, Tuệ Nga, Diên Nghị, Hà Thượng Nhân, Cao Mỵ Nhân, Song Nhị, Nguyên Phương, Thinh Quang, Ngô Văn Thọ, Huệ Thu, Bùi Duy Thuyết, Trình Xuyên, Tô Thùy Yên, do Thi Văn Ðoàn Cội Nguồn xuất bản 1995, 280 trang, giá US$12.00.
Tuyển tập thơ Gởi Người Dưới Trăng là nơi hội ngộ của hai mươi tác giả thuộc nhiều thế hệ, hiện sống tại Hoa Kỳ và Canada. Toàn tập gồm 126 bài thơ thuộc nhiều thể loại: Ðường luật, lục bát, thơ mới, tất cả đều chất chứa nhiều sắc thái tình tự của mỗi tác giả, "cùng chung một thể hiện tâm tình của kẻ lưu vong hướng về quê mễ" Xuất bản thơ tập thể gồm nhiều tác giả là một điều hay, vì mỗi tác giả có một sắc thái riêng, và cùng trong một tập, người đọc được thưởng thức nhiều dáng vẻ thi ca khác nhau. Giữa lúc trên thị thường sách vở thi ca thường được tiêu thụ rất chậm thì hình thức in thơ tập thể giúp thơ dễ đến với người đọc hơn.
oOo
Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà (Your Scented Garden, My Nostalgia) Tuyển tập thơ của Du Tử Lê, (với bản dịch tiếng Anh một số bài, của Lê Vương Ngọc, Nguyễn Ngọc Bích và Phạm trọng Lệ), Tủ sách Văn học Nhân chứng xuất bản, 1996. Dày 200 trang, giá 12 Mỹ kim.
Ðúng ra, phải gọi là một tuyển tập thơ, văn, nhạc, họa, vì trong 200 trang giấy có đủ cầ Khoảng 40 bài thơ Du Tử Lê mới viết, đã đăng báo, và hầu hết đề tặng bạn bè (như một thứ văn chương thù tạc). Gần 20 bài tiếng Anh do ba người dịch, không ghi rõ dịch từ bài nào, nên phải đọc và tìm. Cũng là một trò chơi đánh đố vui về Bài dịch nhiều khi dễ... hiểu hơn nguyên tác! Thơ Du Tử Lê được phổ nhạc rất nhiều. Riêng trong tập này, ông cho in tới 11 bài - vì mới nên chưa thấy ai hát. Rồi họa của Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Khánh Trường, v.v... Rồi tựa, rồi bạt, v.v... Du Tử Lê tiếp tục "làm mới" thơ ông bằng những thủ pháp chấm, phết, gạch, ngắt câu, xuống hàng, không theo văn phạm cổ điển. Ðương nhiên là khó hiểu. Có người còn... khó chịu - đó là những người
khó tính. (LTC)
oOo
An Ocean Apart Tập tranh và ảnh của 41 họa sĩ và nhiếp ảnh gia Việt Nam (25 đang ở trong nước, và 16 đang ở Mỹ), do Viện Bảo Tàng Quốc Gia Smithsonian ấn hành, nhân dịp có cuộc triển lãm của "Smithsonian Institution Traveling Exhibition Service." Cuộc triển lãm diễn ra ở nhiều thành phố trên nước Mỹ, kéo dài ba năm từ 1995 đến 1997. Tập tranh in khổ lớn, trên giấy trắng mịn, có bài mở đầu do Jeffrey Hantover viết, được Nguyễn Ngọc Bích dịch sang Việt ngữ. Các lời giới thiệu các tác giả và tác phẩm cũng được in song ngữ Anh-Việt (phần tiếng Việt của Nguyễn Ngọc Bích). Ðây là lần đầu tiên ở Mỹ có cuộc triển lãm tranh Việt Nam ở quy mô lớn cỡ này. Và cũng lần đầu tiên tranh của các họa sĩ Việt Nam được in một cách trang trọng trong một tập sách có trình độ mỹ thuật cao. Trong số 41 họa sĩ và nhiếp ảnh gia được giới thiệu trong sách, nếu phân tích theo "vùng," thì chỉ có 13 người thuộc chế độ cộng sản. Năm người tuy sống ở Hà Nội, nhưng thuộc lớp họa sĩ cao niên được đào tạo từ Trường Mỹ Thuật Ðông Dương từ thập niên 1930-40. Có bẩy người thành danh từ thời Việt Nam Cộng Hòa, hiện ở Saigon hay các tỉnh khác. Còn lại 16 người đang ở Mỹ. (LTC)
Nguyễn Tiến Dũng
(trích báo Thế Kỷ 21 số 85-05/1996)
Rơi Tự Do
Hắn choàng tỉnh dậy. Mồ hôi vã ra như tắm, ướt hết cả cái áo sơ-mi trắng đang khoác trên người. Có lẽ hắn vừa mới trải qua một cơn ác mộng. Hắn nghĩ như vậy, vì mồ hôi còn đang lấm tấm trên trán. Hắn liếc nhanh qua khung cửa sổ bé xíu. Bên ngoài, không gian bao phủ bởi một màu đen, cũng một màu đen mà hắn đã thấy khi bước lên chiếc Boeing 737 này hồi nãy. Hắn vén tay áo nhìn đồng hồ, chỉ mới có hơn nửa tiếng, từ khi phi cơ rời phi cảng Ðông Kinh.
- Không thể được!
Hắn lẩm bẩm trong miệng: "Không thể được!". Hắn đang trên đường bay về Việt Nam để du hí. Hắn cần phải tỉnh táo, sáng suốt để tối nay còn ra ngoài công viên Văn Thánh ở gần cầu Sài Gòn để đưa em tìm động hoa vàng. Dạo gần đây, cứ một năm là hắn làm lai rai vài chuyến từ Mỹ về Việt Nam chơi bời. Bạn bè thấy hắn đi đi về về như cơm bữa nên lấy làm lạ, hỏi thì hắn trả lời là về tìm đường làm ăn. Ðúng ra thì hắn cũng có về làm ăn, nhưng là ăn chơi. Cái hấp lực duy nhất ở quê nhà không có gì khác ngoài tiết mục tìm em út để xả xui. Dạo gần đây, hắn còn khám phá ra cái mục tìm gái tơ để phá trinh lấy hên. Những cô gái tuổi mười ba, mười bốn mới lớn đào tơ mơn mởn, tràn đầy nhựa sống.
Một năm chỉ có vài lần áo gấm về làng vậy mà hắn đã không lợi dụng triệt để. Chuyến viếng thăm vừa qua, mấy ngày đầu tiên hắn chả cơm cháo gì được, lý do là vì trên phi cơ hắn cứ bồn chồn nôn nóng, mong chóng đến giờ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Chập chờn mãi không tròn giấc, nên về đến Sài Gòn, hắn đã phí mất gần một ngày trời nằm khách sạn ngủ li bì.
- Mình vừa nằm chiêm bao thấy gì vậy cà?
Hắn tự hỏi. Một vài hình ảnh rời rạc còn đọng lại trong hành lang trí nhớ của hắn, nhưng hắn không tài nào hình dung ra toàn vẹn bức tranh trong đầu.
Chiếc máy bay đang lao vào trong cơn bão. Tất cả mấy ngọn đèn điện bên trong vừa được tắt đi. Một vài tia chớp bên ngoài lóe lên trong màn đêm, soi rõ từng khuôn mặt của hành khách. Phong cảnh trông có vẻ rùng rợn, quái đản, làm hắn nhớ lại mấy cuốn phim của Stephen King mà hắn có dịp xem qua trên ti-vi.
Hắn gọi cô chiêu đãi viên lại, mua thêm một ly "Scotch on the rock". Nước và rượu trôi nhanh qua cái cần cổ khô rát của hắn. "Giấc ngủ bằng trợ lực của hơi men còn hơn là không có giấc ngủ nào hết!" Hắn nhủ thầm. Hắn đã nốc hết 3 chai Budweiser mà chả thấm vào đâu.
Trong lúc chờ đợi cho chất men thấm vào trong máu, hắn dở ra tờ báo "Chuyên Ðề Phụ Nữ", tờ báo do bộ văn hóa thông tin của Việt cộng xuất bản. Hắn ngắm nghía mấy tấm hình dự thi ảnh đẹp đăng ở trang bìa trong. Những tấm ảnh màu, chỉ để lộ chân dung của những thiếu nữ trẻ trung xinh xắn, cũng đủ làm cho hắn cảm thấy cả châu thân nóng bừng. Vừa lúc đầu óc cảm thấy phê phê, sắp sửa chìm vào giấc mộng, hắn liếc nhanh ra ngoài khung cửa sổ bé xíu một lần nữa, như muốn chắc ăn rằng cái cánh phi cơ vẫn còn dính liền với phần bụng.
Và rồi hắn bị một cơn đại hồng thủy đen ngòm cuốn mất đi.
Sấm sét tiếp tục xẹt ngang bầu trời, lóe lên những khuôn mặt ma quái, ẩn hiện như một bức tranh trừu tượng. Mây đen ôm chùm lấy tất cả, như một con ma khổng lồ đang ngự trị bầu trời bao la.
Giấc mơ lại tái diễn.
Chiếc phi cơ bị rơi vào vùng không khí loãng. Toàn thân phi cơ bị cơn bão vùi dập, rung lên từng cơn như đang va phải ổ gà. Các chiếc ghế ngồi trong phi cơ chao qua chao lại, rít lên từng tràng âm thanh được tạo ra bởi tiếng kim loại ma sát vào nhau, nghe thật chói tai, buốt óc. Cộng thêm tiếng la ó của hành khách làm cho phong cảnh càng hỗn loạn thêm.
Hắn cảm thấy lạnh buốt. Một phần bụng của phi cơ vừa bị rách toạt, để lộ rõ một khoảng trống đen ngòm nhìn ra bầu trời. Cô chiêu đãi viên kêu gọi mọi người lập tức đeo chiếc mặt nạ dưỡng khí vào. Hắn thấy giấy tờ, báo chí tung bay, hướng về phía lỗ hổng, trôi tuột ra ngoài.
Có tiếng của viên phi công trên loa, nhưng hắn không nghe được gì hết vì tiếng gió rít lên ào ào, qua chỗ hở của bụng phi cơ. Chiếc phi cơ tiếp tục chúi mũi mà lao xuống, với một gia tốc ghê hồn.
Hắn muốn tỉnh dậy. Hắn muốn thoát ra khỏi cơn ác mộng.
Máy bay tiếp tục rơi nhanh. Xa xa, mặt biển đang hiện rõ dần. Những làn sóng nhấp nhô trên mặt biển trông không khác nào những bó xương, đúng hơn là những núi xương. Những núi xương trắng xóa ngập trời, của anh, của chị, của mẹ, của cha đã bỏ lại trên biển Ðông, trên đường tìm tự do.
Cô chiêu đãi viên đang biểu diễn cách dùng phao. Hắn thầm nghĩ chắc hẳn cô chiêu đãi viên này cũng biết rõ là những chiếc phao kia sẽ trở nên vô dụng trong trường hợp này.
Hắn nghe được tiếng sóng vỗ. Tiếng sóng rì rào. Không! Ðúng hơn là tiếng sóng gầm rú, giận dữ, sẵn sàng xé nát con chim sắt mỏng manh. Tiếng kinh cầu vang vọng đâu đây. Những khuôn mặt trẻ thơ mười ba, mười bốn trong thoáng chốc đã biến thành những bà già nhăn nhó, xấu xí.
Hắn cũng bắt đầu lâm râm khấn nguyện câu "kinh dâng đêm":
- Giêsu ơi con nhờ tay Mẹ Maria, mà dâng lên Chúa, dâng chúc lời cám ơn, dâng trót cả xác hồn.
Sấm chớp, đại dương trông không khác nào địa ngục đen. Những ngọn sóng vỗ cao lên, mời gọi hắn nhập cuộc chơi.
- Các việc con làm, các lời con xin, cùng với mọi khó nguy con chịu trót một ngày qua.
Mặt nước đã gần kề. Chết rồi. Sao hắn vẫn còn trong giấc mơ, hay là đây không phải là giấc mơ, mà là hiện thực!
- Cùng với bóng chiều tà, Giêsu Maria, con hòa ca, dâng về nơi bao la.
Hắn véo vào đùi một phát thật mạnh, thật đau điếng, nhưng ô kìa, sao vẫn không có gì thay đổi.
- Chúa ban phép lành, một đêm ngủ an bình, hồn trong xác tươi xinh.
Giờ đây mặt đại dương sóng nhấp nhô êm đềm. Không! Sóng đại dương gợn lên nham nhở, như những vết răng nanh tua tủa, những vết răng của hàng trăm ngàn thuyền nhân xấu số.
Như một giấc mơ, chiếc Boeing 737 tan vỡ thành từng mảnh vụn. Ðại dương nuốt trọn tất cả.
Bùi Thanh Liêm
Tháng 5, 1996
Tháp Ký Ức
Năm đó tôi mười một tuổi. Sau mấy năm ròng rã mài đũng quần ở ngôi trường tiểu học dột nát ở làng trên, thuộc nát bấy cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, và lãnh những trận đòn thừa sống thiếu chết vì tội trốn học đi bẫy chim đá dế ngoài đồng, tôi may mắn trúng tuyển vào trường trung học công lập cấp tỉnh duy nhất của tỉnh Quảng Nam, trường Trần quý Cáp.
Hôm đi coi bảng, tôi chẳng có hy vọng gì mấy. Tỉnh Quảng Nam có đến hàng trăm xã ấp, mỗi xã có một trường Tiểu Học, mỗi trường Tiểu Học có một lớp Nhất, tức là lớp Năm sau này. Mỗi lớp Nhất có khoảng năm chục đứa học trò mà trong đó có tới bốn mươi đứa tham gia cuộc thi tuyển, tính ra không dưới năm ngàn thí sinh. Trường Trần Quý Cáp có sáu lớp đệ Thất, cao lắm khoảng ba trăm học sinh được tuyển vào mỗi năm, còn mấy ngàn đứa kia thì có nhiều hy vọng về nhà… chăn trâu trừ phi được cha mẹ cho vào bán công hoặc tư thục. Lúc còn học tiểu học, tôi thích chơi nhiều hơn thích học, những con cá rô cá cấn, chim giồng giộc chim sâu trông hấp dẫn hơn những bài địa dư sử ký, bị thầy bắt quỳ gai mít hoài mà vẫn chứng nào tật nấy. Tuy nhiên, bà nội tôi tin tưởng mãnh liệt vào câu học tài thi phận, vả lại chuyện thi cử là chuyện thiên kinh địa nghĩa nên cuối cùng mẹ tôi vắt cho tôi một mo cơm nắm, dúi vào tay tôi mấy đồng bạc để đi ‘xe điện’ – danh từ địa phương dùng để chỉ xe đò- xuống Hội An dự thí.
Chen lấn mãi mới đến gần được tấm bảng gỗ có dán danh sách thí sinh trúng tuyển, tôi dự định sẽ đọc cái danh sách từ dưới lên, chừng năm mươi hàng mà chưa thấy tên mình thì tốt hơn chui trở ra cho đỡ mất thì giờ. Ai dè mới đọc được có mấy hàng đã thấy tên mình. Tôi dụi mắt hai ba lần, đọc lại cho kỹ vẫn thấy tên mình còn sờ sờ ở đó bèn mừng rỡ mở một đường máu chui ra khỏi cái đám con nít đang xô đẩy nhau, chửi mắng nhau, la hét, cười khóc ồn ào như cái chợ nhỏ. Thằng bạn cùng làng cũng vừa mới thoát ra khỏi cái đám đông hỗn tạp, mặt mày tái mét, thở hổn hển hỏi tôi:
- ‘Bộ mày đậu rồi hay sao mà nhảy tưng tưng vậy?’
- ‘Đậu rồi. Còn mày?’
- ‘Tao đậu bình thứ. Còn mày?’
- ‘Tao không biết. Tên tao ở hàng thứ năm.’
Thằng bạn tròn mắt ngạc nhiên:-
‘Thứ năm? Vậy là mày đậu ưu rồi.’
Hắn gãi đầu có vẻ suy nghĩ, nói tiếp:-
‘Hồi nãy tao xem bảng kỹ lắm mà tại sao không thấy tên mày.’
Tôi bỏ mặc thằng bạn đứng ngẩn ngơ, đi bộ ra bến xe đón xe đò về nhà.
Việc tôi đậu vào đệ Thất trường công lập, dù đậu hạng bét, là một sự kiện đáng kể cho gia đình tôi, vốn gồm có bà Nội, Mẹ tôi, tôi và ba đứa em gái còn nhỏ xíu. Mấy năm về trước, sau khi đã chán công việc sản xuất và dưỡng dục nhi đồng, Ba tôi quay lưng lại nguời vợ đáng thương và bầy con nheo nhóc, bỏ đi giang hồ vặt, lâu lắm không nghe tin tức. Mẹ tôi ở lại một mình tảo tần buôn bán, nuôi nấng bầy con. Bây giờ thằng con lớn được vào trường tỉnh học, bà vừa mừng lại vừa lo bởi vì chỉ còn vài tuần nữa là thằng con phải đi xa trọ học.
Làng tôi cách thị xã Hội An -còn được gọi là Phố hay Faifo- khoảng gần ba chục cây số. Muốn đến thị xã, tôi phải đi bộ bốn năm cây số, băng qua chiếc cầu xe lửa dài ngoằng bắc ngang qua con sông Thu Bồn nuớc trong veo, rồi leo lên cái ‘xe điện’ duy nhất của tuyến đường Kỳ Lam-Hội An để kết thúc cuộc hành trình. Gần đến Vĩnh Điện, quận lỵ Điện Bàn, xe đi ngang qua tháp Chàm Bàng An, một di tích lịch sử. Ngôi tháp cổ xây bằng gạch nung, lâu ngày rêu phong bám đầy, đứng im lìm, sừng sững nhìn xuống con đường trải đá lầm bụi chạy dài từ quận lỵ về đến vùng núi non tiếp cận dãy Trường Sơn. Cây tháp chứng nhân của một triều đại đã suy tàn mà mỗi khi nhìn thấy đã gợi trong tôi những ấn tượng mạnh mẽ, những cái tên như Chế Mân, Chế Cũ, những Lý Thường Kiệt, Trần Khắc Chung, những câu chuyện huyền hoặc về những người dân của một quốc gia đã bị xoá tên.
Vậy là tôi bắt đầu cuộc đời trọ học từ lúc còn rất trẻ. Cứ mỗi vài tuần tôi lại đáp xe đò từ tỉnh lỵ về, băng qua chiếc cầu xe lửa bằng sắt, sải những bước chân nôn nao trên con đường đất khi thì nứt nẻ mấp mô, khi thì lầy lội trơn trợt, bỏ lại sau lưng những ruộng lúa nghèo nàn, những bãi dâu tươi tốt, rặng tre xào xạc, tiếng rầm rập của những máy dệt vải bằng gỗ, tiếng sè sè của những chiếc trục ươm tơ, lòng hớn hở khi nhìn thấy cái hàng rào quen thuộc có những bông hoa dâm bụt đỏ chói. Rồi có tiếng con chó Vàng sủa ăng ẳng mừng rỡ, tiếng mấy đứa em kêu réo om sòm ‘Mẹ ơi anh Hai về’, rồi bà Nội đứng ở ngưỡng cửa đưa bàn tay nhăn nheo có dính những vệt vôi ăn trầu lên xoa đầu đứa cháu nhỏ hỏi han ‘Con đi đường xa có mệt không’, rồi Mẹ đôi má ửng hồng bên ánh lửa rơm nhìn tôi mỉm cười dịu dàng ‘Mẹ biết thế mô con cũng về bữa ni, cái con mắt trái hắn giựt giựt hồi sáng tới chừ’.
Rồi trong bữa ăn tối thế nào cũng có hoặc là nồi canh cá diếc nấu rau răm, hoặc là ‘trã’ cá đồng kho khô, những món ăn mà tôi ưa thích. Dưới ánh đèn dầu, gia đình tôi quây quần vui vẻ bên nồi cơm độn bắp bốc khói, nói chuyện không ngừng. Mấy đứa em tôi hỏi tôi hàng trăm lần về những chiếc ‘xe điện’, xe ‘bình bịch’ mà họa hoằn lắm chúng mới có dịp thấy, những con khỉ đá, chó đá ở chùa Cầu, những đoàn hát bội nổi tiếng chúng chưa bao giờ được xem. Mẹ tôi bận rộn suốt buổi cơm, la đứa này, nạt đứa kia ‘Con gái chi mà cái miệng xon xỏn’, hỏi tôi về chuyện học hành, ăn ở ‘Họ có cho con ăn uống đàng hoàng không? Tối mi ngủ có treo mùng không hay là cứ làm biếng ngủ trần để muỗi cắn mi chết.’ Tôi biết Mẹ đang vui bởi vì tôi và mấy em tôi cũng đang vui. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp trong mắt Mẹ long lanh một nụ cười lặng lẽ hiếm hoi kể từ khi bà phải một mình gồng gánh gia đình trong đơn chiếc, từ khi ‘Vai xuân thì bánh mật ngã màu đen’ (1) bởi cái gánh hàng nặng trĩu bà mang đi mang về hàng vài mươi cây số mỗi ngày để kiếm tiền nuôi nấng bầy con. Rồi hôm sau tôi lại quay về tỉnh lỵ nơi có căn nhà nhỏ mà tôi và những thằng bạn đồng cảnh ngộ đang ở trọ.
Trường có sáu lớp đệ thất thì hết năm lớp dành cho học sinh với ngoại ngữ chính là Pháp văn. Tôi được đưa vào đệ thất 3, ngồi ngay sau lưng đám học trò con gái. Học trò nhà quê lên tỉnh học dễ bị ăn hiếp. Chỉ cần nhìn cái mặt ngơ ngáo, quần áo lôi thôi, đôi dép râu thô kệch để lòi đôi bàn chân sứt sẹo vì lội ruộng bắp, đánh banh bòng banh bưởi là biết ngay. Trong lớp tôi có mấy đứa chuyên môn đi bắt nạt mà đứng đầu là thằng Bạo. Thằng này tên giống như người, mặt mày bặm trợn, lỗ mũi lúc nào cũng đỏ bóng như trái cà chua. Nó thích bắt nạt tôi, chẳng biết vì lý do nào. Nạn nhân kế tiếp phải kể đến Phạm Dó. Thằng này đáng lẽ tên Phải Gió hay Trúng Gió thì mới phù hợp với câu tên sao người vậy. Phạm Dó người nhỏ xíu, ốm tong ốm teo, nhà ở bên kia sông, nơi gọi là Cẩm Giàng Cẩm Phả gì đó. Tôi đã nghèo mà thằng này còn nghèo hơn, đi học mang đôi dép làm bằng mo cau kéo lệt xệt dọc hành lang nghe muốn điếc con ráy. Mỗi lần thấy đám thằng Bạo là mặt mày nó tái mét, tay chân giật đùng đùng như mắc phong, mắt lác xệch đi, ngay cả thằng Bạo trông thấy cũng phát ớn, bỏ đi tìm tôi hay Vĩnh Hoành để trêu ghẹo. Vĩnh Hoành dòng dõi hoàng tộc, vai vế ngang hàng với công dân Vĩnh Thụy, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn. Đám thằng Bạo tước đoạt của thằng này khá nhiều tư trang vật dụng, ngay cả cây viết ‘pilot’ mới toanh cũng đổi chủ ngay từ lúc Vĩnh Hoành mang tới trường lần đầu. Tôi vốn nhát gan, thấy đám cô hồn là lo kiếm đường dông trước, vậy mà cũng không thoát tay tụi nó. Có lần thằng Bạo làm quá, đẩy tôi té dập đầu vào vách tường thiếu điều long óc. Tôi giận quá quên cả sợ, vác chiếc ghế dựa của ông thầy rượt nó chạy lòng vòng cái hành lang dài ngoằng của sáu lớp đệ thất. Sau lần đó, tôi có biệt danh là ‘Trừ… Bạo’, và không còn bị ăn hiếp nữa.
Giáo sư Việt văn kiêm hướng dẫn lớp đệ thất 3 là thầy Kham, Tôn Thất Kham. Theo chỗ tôi biết, thầy là người nhạy cảm và rất thương học trò. Vài tháng sau khi trường khai giảng, vùng tôi ở bị mấy cơn lụt lội, hoa màu bị tàn phá, chợ búa đóng cửa cả tháng. Mẹ tôi không đi buôn bán được, thiếu tiền trả tiền trọ học cho tôi. Tôi nhờ người quen giới thiệu đến một lò bánh mì dưới phố để xin lãnh bánh mì đi bán buổi tối phụ với Mẹ trả tiền cho chủ trọ. Mỗi đêm tôi hăng hái vác cái bao tải chứa những ổ bánh mì thơm tho nóng hổi đi vào các khu xóm rao bán. Có lần tôi đang ngoác miệng rao inh ỏi ‘Bánh mì nóng dòn đây’ bỗng có tiếng ai nghe quen quen gọi lại hỏi mua. Đến gần, tôi nhận ra thầy Kham. Thầy trò nhìn nhau ngỡ ngàng. Hình như mắt thầy hơi ươn ướt. Cuối cùng thầy dành mua hết những ổ bánh mì còn lại của buổi tối. Tôi còn nhỏ, đầu óc khờ khạo nhưng cũng biết là thầy muốn giúp mình, chứ thầy cũng ở trọ đi dạy học làm gì mà một mình có thể ăn hết chừng ấy bánh mì trong một vài hôm. Từ đó thầy có vẻ quan tâm đến tôi một cách đặc biệt, và đáp lại, tôi cũng chịu khó học hành đàng hoàng trong giờ Việt văn.
Chiếc bàn học dành cho học trò con gái phía trước tôi có đến hai chị lớn ngồi. Chị lớn là danh từ chung lũ học trò con trai dùng để gọi những nữ học sinh lớn tuổi mà không biết vì lý do nào lại được sắp vào cái lớp con nít này. Chị Bích Ngọc và chị Thuận là hai nhân vật ưa thích của tôi. Hai chị đều lớn hơn tụi tôi năm, sáu tuổi, vào khoảng mười sáu hay mười bảy gì đó trong khi đám còn lại cả trai lẫn gái mới có mười một, mười hai tuổi. Chị Bích Ngọc tóc dài, chị Thuận tóc quăn, hai người đều… dễ thương. Tôi biết được điều đó qua miệng mấy anh lớn học trên đệ nhị cấp hay lảng vảng ngoài hành lang nhìn vào. Riêng tôi và mấy thằng quỷ sứ ngồi cùng bàn đồng ý là mấy chị rất tốt bụng. Trong giờ học, thay vì… thả hồn ra cửa sổ, chúng tôi để hết tinh thần vào việc chọc phá mấy chị lớn, từ việc cột mấy vạt áo dài lại với nhau cho đến việc dán những tờ giấy vẽ hình nhăng nhít vào tóc vào áo của mấy chị, chúng tôi đều thực hiện với một lương tâm chức nghiệp rất cao. Kết quả vô cùng vẻ vang. Hai chị dắt chúng tôi ra cái quán nước nhỏ xíu của vợ chồng bác gác trường, mua cho chúng tôi kẹo mè xửng và kẹo ‘nougat’ sau khi bắt chúng tôi long trọng thề thốt sẽ không bao giờ tái diễn những hoạt động có tính cách phản nghệ thuật như vậy nữa.
Niên học đầu tiên rồi cũng qua đi, đánh dấu bởi những chuyến đi cắm trại ở Cửa Đại, ở đó chúng tôi đốt lửa trại thi đua văn nghệ. Cũng trong niên học này, tôi quen biết Thước, người bạn cùng lớp mới mười hai tuổi đã biết làm thơ, biết đọc Ngàn Khơi và Tiểu Thuyết Thứ Bảy, nhũng tạp chí văn chương dành cho người lớn. Rồi những lần theo Phạm Dó qua bên kia sông thăm gia đình hắn, cái gia đình nghèo rách mùng tơi mà vô cùng hiếu khách. Rồi những trò đùa nghịch ngợm, độc ác một cách vô tội của tuổi thơ, những con sâu đo gớm ghiếc làm lũ học trò con gái khóc thét, cuống cuồng sợ hãi. Rồi những buổi tối lang thang dọc bờ sông Phố, nơi có cái rạp chiếu bóng duy nhất của thị xã, để xem nguời lớn câu cá hanh bằng những cây cần trúc dài ngoằng. Và khi những chùm hoa phuợng rực rỡ nở ra trên những tàn cây xanh ngắt trong sân trường, chúng tôi tặng nhau lưu bút, hẹn sẽ gặp lại vào mùa Thu tới.
Thầy Kham không còn là thầy huớng dẫn của chúng tôi. Thầy ở lại với đám học trò mới của lớp đệ thất 3. Giáo sư Việt văn kiêm hướng dẫn của đệ lục 3 là đàn bà, đàn bà đẹp. Cô giáo tên Tố Quyên, nguời Bắc. Lúc thầy giám thị đưa cô vào để giới thiệu cho cả lớp, đám học trò con trai đứa nào đứa nấy im thin thít, trống ngực đập còn hơn trống làng. Bởi vì cô trẻ quá, đẹp quá, giọng Bắc Kỳ êm quá, và trông cô… dễ thương quá. Sau buổi học đầu tiên, thằng Thước, thi sĩ nhi đồng, về nhà làm ngay mười mấy bài thơ tình ướt át gọi gió than mây.
Vào giữa niên học, cô Tố Quyên cho chúng tôi bình giảng truyện ngắn Vàng Tháp Hời của Vũ Hạnh. Đã hơn ba mươi năm, những chi tiết của câu chuyện tôi không còn nhớ nữa, chỉ nhớ đại khái là có hai anh em nhà kia rủ nhau đi tìm vàng trong một ngôi tháp cổ của dân tộc Chiêm Thành, cuối cùng vì một trong hai người nghe lời xúi dục của ngoại nhân mà gây nên cảnh huynh đệ tuơng tàn. Vào thời điểm đó, đối với tôi câu chuyện chỉ có tính cách ngụ ngôn kiểu tục ngữ ‘Một giọt máu đào hơn ao nước lã’ hoặc Quốc Văn Giáo Khoa Thư ‘Bó Đũa’. Sau này biết ra Vũ Hạnh đã hoạt động cho phía bên kia, tôi thấy tội nghiệp cho ông ta vì chính truyện ngắn này đã có thể dùng để chỉ trích, phê phán cái chế độ mà ông ta đã chọn lựa để phục vụ. Riêng cô Tố Quyên, tôi có thể đoan chắc mục đích của cô là thuần túy văn học, và một trong những mục tiêu của cô là giúp chúng tôi định nghĩa và phân tích hai chữ hy vọng.
‘Hy vọng luôn luôn hướng về tương lai’, cô Tố Quyên giải thích, ‘hai anh em trong bài viết này hy vọng rằng họ sẽ tìm được kho vàng chôn giấu trong cái tháp Chàm cổ kính’. Tôi đưa tay lên phản đối. ‘Hy vọng không nhất thiết phải hướng về tương lai! Trước khi đi tìm vàng, hai người hy vọng đã có một kho tàng trong cái tháp Hời. Có vàng hay không có vàng trong cái tháp Hời là chuyện quá khứ. Do đó, trong trường hợp này, hy vọng đã hướng về quá khứ’. Đám học trò con trai, ngoại trừ thằng Thước, vỗ tay tán thành ầm ĩ. Hơi ngạc nhiên về cái lý luận… bá láp của tôi, cô Tố Quyên bắt cả lớp im lặng rồi giải thích rằng có vàng trong tháp Hời, đối với hai anh em trong câu chuyện là một niềm tin, không phải hy vọng. Với lối lý luận cù nhầy, lũ chúng tôi vẫn khăng khăng cho rằng hy vọng có tính cách… hai chiều, không phải một chiều như cô khẳng định. Không còn ‘hy vọng’ thuyết phục chúng tôi, cô Tố Quyên trong lúc ‘tuyệt vọng’ bèn… khóc. Sau này, trong cuộc đời ba chìm bảy nổi của mình, tôi cũng đã có dịp chứng kiến đàn bà khóc, có khi vì tôi, có khi vì tình địch của tôi, có khi vì một lý do nào khác, cũng có khi không vì một lý do nào hết. Nói chung đàn bà trông đẹp và dễ thương hơn khi họ khóc, nhưng tôi chưa thấy ai khóc… đẹp bằng cô Tố Quyên. Lúc đó bao nhiêu hùng tâm tráng chí của lũ chúng tôi xẹp xuống như bánh xe đạp cán đinh, nếu cô có bảo hy vọng nằm ở… hướng Tây chúng tôi cũng chịu nữa. Nhưng đã trễ. Cô khóc, rồi bỏ đi. Bỗng dưng tôi trở thành tên tội phạm hàng đầu. Đám học trò con gái nhìn tôi với những cặp mắt giận dữ. Thằng Thước từ mãi dưới cuối lớp chạy lên đòi ăn thua đủ với tôi, ngay những đứa mới cách đây mấy phút đã mạnh mẽ ủng hộ lập luận ‘hy vọng hai chiều’ cũng quay ra đả kích tôi dữ dội. Phần thì băn khoăn không biết rồi cô Tố Quyên có còn trở lại dạy chúng tôi nữa hay không, phần thì lo lắng vì bỗng dưng trở thành chính danh hung thủ, tôi buồn bã ngồi tẩn mẩn cột tóc của hai chị lớn ngồi bàn trên lại với nhau.
Cuối cùng rồi cô Tố Quyên cũng trở về, với một đạo binh. Cho đến giây phút đó, và ngay cả sau này trong cuộc đời đi học của mình, chưa bao giờ chúng tôi được chứng kiến một cuộc phô trương lực lượng quy mô như vậy. Ngoại trừ thầy Hiệu Trưởng, từ thầy Hiệu Phó, thầy Tổng Giám Thị, cho đến các thầy đang dạy lớp chúng tôi, và ngay cả các thầy dạy các lớp đệ nhị cấp, đều hiện diện. Lũ học trò nhìn nhau, mặt cắt không còn hạt máu. Trước mặt chúng tôi là cái tập hợp chọn lọc của ngành giáo dục quốc gia, lò đào tạo nhân tài và niềm kiêu hãnh của tỉnh Quảng Nam, người nào người nấy trông đằng đằng sát khí. Các thầy lần lượt lên phát biểu, nói cho đúng hơn, sỉ vả chúng tôi. Cô Tố Quyên là người phát biểu sau cùng. Cô không sỉ vả chúng tôi, cô chỉ nói nhẹ nhàng, ‘Cô hy vọng rằng từ nay về sau các em sẽ thảo luận các nghi vấn với cô một cách nghiêm chỉnh hơn’. Chúng tôi đều ghi nhận cái tín hiệu cô gởi, từ nay về sau, future tense, thì tương lai, hy vọng chỉ hướng về tương lai!
Cái biến cố đáng ghi nhớ đó rồi cũng qua đi, năm học thứ hai ở ngôi trường tỉnh lỵ rồi cũng qua đi. Trong những năm tháng còn lại ở phố Hội, tôi có thêm nhiều bạn bè, nhiều kỷ niệm. Vào mùa lũ lụt, tôi thường ra bờ sông để xem người ta kéo vó. Đôi khi tôi theo chủ nhà trọ xuống biển Cửa Đại, cái bãi biển hoang vắng với rừng phi lao xanh ngắt, để câu cá hồng cá hanh. Thỉnh thoảng tôi lại đạp xe qua chùa Cầu, chiếc xe nhảy lộc cộc trên những thanh gỗ lót đường. Hoặc ra xóm Mới -bây giờ chắc đã cũ lắm rồi- với những con đường lầm cát, nơi có nhà thằng Thước. Hắn vẫn chưa chịu cho tôi xem mấy bài thơ hắn làm cho cô Tố Quyên.
Năm thứ ba ở truờng Trần Quý Cáp đánh dấu những biến động lịch sử mà cái tuổi non nớt của tôi không đủ kiến thức để nhận định. Cuộc đảo chánh tháng mười một năm sáu mươi ba đối với tôi là cơ hội để được nghỉ học đi biểu tình, đón nguời hùng cách mạng Tôn Thất Đính, và những điều tuơng tự. Cũng trong thời gian đó, làng tôi càng ngày càng trở nên mất an ninh. Đã có những cuộc ám sát, khủng bố thực hiện bởi phía bên kia, những cuộc hành quân lùng sục của phía bên này. Đã có những lần về thăm nhà. giữa đêm khuya tôi giật mình thức giấc bởi tiếng đạn tầm xa gầm rú bay ngang qua nóc nhà hoặc tiếng súng vang rền từ phía bên kia sông.
Cơn lụt khủng khiếp năm sáu mươi bốn đẩy tôi lìa xa vĩnh viễn ngôi trường tỉnh lỵ. Nhà chúng tôi đã sập bởi cơn bão mấy tháng trước đó, những cây cột tre tạm bợ không chịu nổi giòng nước lũ, lại một lần nữa tan tành trong cơn Hồng Thủy. Cơn lụt vô tiền khoáng hậu kéo đến từ những dãy núi xa bên kia sông Cái, cày xới những sườn đồi, bật tung cây cối, ào ạt tràn xuống khu đồng bằng nghèo nàn của miền Trung, cuốn đi những bãi dâu xanh, những nong tầm vàng óng, những mái nhà tranh, những căn nhà ngói, những vườn cây trái, những mạng người. Cũng may là gia đình tôi đều được an toàn. Trong những ngày tháng kế tiếp, gia đình tôi sống qua ngày bằng lu bắp khô còn sót lại, những hạt bắp khô cứng, nhạt nhẽo cày xới cuống họng của bầy con đói khát và trái tim người mẹ đơn chiếc. Mẹ tôi quyết định đưa chúng tôi vào miền Nam tìm kế sinh nhai.
Chia tay với cái thành phố càng ngày càng trở nên quen thuộc không phải là chuyện dễ dàng. Tôi luyến tiếc nhìn hàng phượng vĩ với những chùm hoa đỏ nở muộn, những con sâu đo gớm ghiếc, cái quán nuớc nghèo nàn của bác gác trường. Tôi còn nhớ cái mùi khăm khẳm đặc biệt của những con ruốc làm mắm phơi trên những vỉ tre dọc lề đuờng, tô bún bò Huế có miếng thịt đùi thơm tho, những cây ‘sê-ri’ với chùm trái chín mọng trồng dọc con đuờng khu tôi ở trọ. Tôi còn nhớ mối tình con nít vụng dại với đứa em gái của thằng bạn cùng lớp, lá thư viết hai tháng chưa dám gởi đi, nụ hôn đầu tiên trên môi đứa con gái mười ba tuổi bởi thằng con trai mười bốn tuổi suớng tê người.
Rất lâu sau này tôi có một lần về thăm chốn cũ. Cái thành phố ngày xưa bỗng như nhỏ lại. Cỡi chiếc xe gắn máy mượn của đứa cháu, tôi dừng lại trước cổng trường. Những cây phượng ngày xưa vẫn còn đó, cằn cỗi hơn, thiếu vắng những chùm hoa rực rỡ. Có lẽ vì trái mùa, mà cũng có lẽ vì ‘nhân khứ tận’. Đám bạn học ngày xưa cũng đã tản lạc phương nào, những cái tên của dĩ vãng, thầy Hoàng Trung, thầy Kham, cô Tố Quyên, thằng Bạo, Phạm Dó, Vĩnh Hoành, Huỳnh Bá Thước, Tường Vi,… bỗng dưng nghe buồn như thơ Vũ Đình Liên. Cuộc viếng thăm Hội An của tôi rất ngắn ngủi. Trên đường về thăm làng cũ, tôi có dịp thấy lại ngôi tháp Chàm Bàng An. Vẫn sừng sững, vẫn rêu phong, nhưng cái âm u, bí ẩn đã không còn. Chỉ còn là một nhân chứng u sầu với tiếng thở dài phiền muộn mỗi khi ngọn gió đồng thổi qua đỉnh tháp dột nát.
Bây giờ là sáu giờ sáng. Tôi có thói quen dậy sớm, ngồi một mình ở chiếc bàn ăn nhỏ. Truớc mặt tôi là ly cà phê nóng với cái hương vị lai căng -cà phê bột của Mỹ và sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ- và điếu thuốc lá đầu ngày. Có lần tôi đọc một truyện ngắn, hình như của Võ Phiến, về ngọn đèn vàng ở một góc cầu thang nào đó đã nhắc nhở tác giả về ánh đèn vàng ở một nơi chốn khác trong quá khứ. Ngọn đèn đã như chiếc chìa khóa thần diệu mở ra một ngăn kéo của ký ức, ở đó tác giả tìm thấy lại hình ảnh của nguời tình chìm khuất. Còn tôi? Chìa khóa nào đã mở ra cho tôi tuổi hoa niên, ngôi tháp Chàm đổ nát, mái trường thân yêu, những cái tên đã tưởng không bao giờ còn nhớ nỗi, nụ hôn đầu sướng tê người, chùm hoa phượng đỏ rực, và những con sâu đo gớm ghiếc? Tôi không biết. Tôi chỉ biết cám ơn cái quyền lực huyền nhiệm nào đó đã cho tôi khả năng sống lại những kỷ niệm xa xưa.
Tôi mong một ngày nào đó được gặp lại Thước để xin hắn tập thơ hắn làm cho cô Tố Quyên vào năm mười hai tuổi, nếu hắn còn sống và còn giữ tập thơ. Tôi cũng rất mong gặp lại cô Tố Quyên để hỏi cô một lần nữa ‘Phải chăng hy vọng chỉ hướng về tương lai?’ Nếu phải thì buồn quá, bởi vì chẳng lẽ những ngăn kéo ký ức tôi mở ra cùng với ly cà phê lai căng và điếu thuốc lá đầu ngày chỉ chứa có mỗi một niềm tuyệt vọng thôi sao?
Phùng Nguyễn
mùa thu chín mươi bốn