vhnt, số 120
23 December 1995
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Qua nhà nguyện................................................Phan Lê Dũng
2 - Có gì để nói đâu em?........................................Nguyễn Phước Nguyên
3 - Tôi xin em..........................................................Bùi Thanh Liêm
4 - Một hình ảnh cũ.................................................Vũ Lê Phan
5 - Thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du : .........................Trần M Hùng g/t
- Tái sinh, Hương yêu, Trên chùa, Rừng mơ.......Nguyễn Hoàng Lãng Du
6 - Thơ Cung Trầm Tưởng: Chưa bao giờ buồn thế........Chinh g/t
T r u y ệ n N g ắ n / S á n g T á c :
7 - Ðoản khúc 3: Ðường dài hạnh phúc.................Cỏ Nhớ/Lộc Quy
8 - Phố dưới............................................................Hayashi Fumiko, Y-Yên chuyển ngữ
23 tháng 12, 1995
Có người hỏi Picasso sáng tạo là gì? Picasso trả lời rằng sáng tạo có nghĩa là biết cách ăn cắp. Thoạt nghe, người ta có thể không hiểu định nghĩa chữ "sáng tạo" của họa sĩ Pablo Picasso, người lập ra trường phái lập thể trừu tượng. Cái sáng tạo của ông là, sự phối hợp độc đáo những cái đẹp đã có sẵn trên đời, ông chỉ làm công việc "mượn lại" những vẻ đẹp của tự nhiên, của những kẻ sáng tạo trước, tạo ra cái "sáng tạo" mang nét đặc thù của riêng mình.
Người sáng tạo là người có một sự nhạy cảm đặc biệt về cái đẹp, có một cảm quan tinh tế sắc bén mới "nhìn" ra cái hay, cái lạ trong những sự việc "đã có sẵn trên đời". Lại cũng theo Picasso, ông bảo ông không hề khổ công đi tìm kiếm cái sáng tạo, ông tình cờ "lượm được", đơn giản thế thôi! Sự tình cờ của ông khi tạo ra trường phái hình khối lập thể (cubism), cũng nhân cơ hội ông được biết đến những bức mặt nạ Phi-Châu (African masks) mà có những kẻ đã cho là những hình thể đen đủi xấu xí dị hợm. Những hình thể xấu xí dị hợm đó là văn hóa ngàn đời của một dân tộc gần gũi với thiên nhiên nhất, mang nét đẹp của nghệ thuật mà Picasso đã cảm hứng khi ông đang miệt mài tạo ra một trường phái hội họa hi hữu.
Trong bút pháp kỹ thuật của người viết, sáng tạo là gì? có phải sáng tạo là không sao chép lại những điều người khác đã nói đến, hay đi lại trên cùng con đường người khác đã đi mòn?
Hay sáng tạo chỉ là tìm kiếm những điều bí ẩn của chính mình?
thân ái,
PCL/vhnt
Qua Nhà Nguyện
Sáng kia đi ngang nhà nguyện
Anh nhủ thầm, xin chúa chuyện vui
Nghe trong không gian mờ ảo
Vọng đâu tiếng gió lao xao.
Sáng qua đi ngang nhà nguyện
Anh khấn thầm, xin chúa ban ơn
Giọng anh loãng trong hư ảo
Áo não, trải dài.
Trên không đám mây hờ hững.
Sáng nay đi ngược đầu nhà nguyện
Anh gục đầu, lầm lũi thật nhanh,
Vì đã qúa xa?
Khoảng cách giữa anh cùng chúa.
Phan Lê Dũng
Có Gì Để Nói Đâu Em?
thơ bây giờ là có nghĩa sớt chia
quyền ngôn luận với những người không nói được
Có gì đâu để nói.
Khi
tôi và em
chúng ta
đứng trước mời gọi thiên đường cuộc sống
nơi đây
hôm nay
đã ngoảnh mặt đi
sau một lần nhận diện, để từ khước
màu da
và ngôn ngữ.
Thứ ngôn ngữ và màu da khi sinh ra tôi không có quyền lựa
chọn.
Như
chọn ăn,
chọn uống,
chọn đi,
chọn đứng,
chọn nằm,
chọn ngồi,
chọn ngủ,
chọn thức,
chọn khóc,
chọn cười,
chọn nơi ỉa,
chọn chỗ đái,
chọn đạo đức cởi truồng,
chọn nghĩa tình mặc áo,
chọn nhắm mắt làm ngơ,
chọn nhìn nhau cúi mặt,
chọn sống.
(Tôi không dám chọn cái chết.)
Có gì đâu mà nói khi tất cả ngôn từ của nhân loại có thể phản ảnh mọi điều, nhưng không thắp được nụ cười lên môi đứa bé, không làm trán mẹ già thôi nhăn, và không lấp được những hố sâu đã lở loét từ bao nhiêu thế hệ -Có bao giờ con đường được quyền lựa chọn những người dẫm chân đi trên mặt nó?
Có gì đâu đáng nói.
Khi
tôi và em
chúng ta
đã chọn sống cho riêng mình,
mặc kệ cuộc đời
và những mọn hèn ti tiện tự nhiên phải có.
Khi
ta đã dặn lòng
dặn lòng
dặn lòng
dặn lòng
dặn lòng
vói làm gì bên kia bờ biển
với hấp hối,
với nghẹn ngào,
với ánh nến cuộc đời có thể phụt tắt bất cứ lúc nào,
với bất cứ sự lựa chọn nào cũng là một hành động lên đường tìm cái chết,
với mặt trời chỉ sáng cho những người có quyền che khuất
ánh thái dương lên đời kẻ khác.
Có gì đâu phải nói.
Khi
tôi và em
chúng ta
đã mười năm trôi qua
và thêm mười năm nữa qua.
Hai mươi năm,
Bây giờ
Chỉ nhớ những điều đáng quên.
Và đã quên những điều phải nhớ.
Khi bên nay của ban ngày là bên kia của bóng đêm, của sống thân phận một con người đâu phải dễ như
sỏi đá,
dế giun,
bọt bèo,
trâu ngựa.
Có gì đâu cần nói.
Khi
tôi và em
chúng ta
đã bao năm
chọn ngồi bất động trong màn đêm,
tay bật một que diêm,
miệng nguyền rủa bóng tối.
Nghĩa lý gì những que diêm lập lòe tia lửa nhỏ
khi ta đã không đốt cho cháy rực được khu rừng dầy đặc
những cây thông đứng reo giữa trời.
Hôm nay,
rọc nát trái tim mình đã cằn khô giòng máu đỏ,
vắt ráo từng hơi thở quê nhà
thành những giọt mực tắt nghẽn lên bàn tay,
ném lên tấm gương linh hồn lòng giấy trắng
những tiếng hét thất thanh loài chim lao mình vực đá.
Tôi và em
Chúng ta
Hai mươi năm
Một thế hệ
Rộng mênh mông
Nhưng rất cạn nỗi buồn bọt biển
Ðâu đã làm được gì
Nên ta có gì để nói, đâu em?
Nguyễn Phước Nguyên
Tôi Xin Em
Tôi xin em
Một chút tình gian dối
Cho tôi ngỡ cuộc đời
Như ngày tháng êm trôi
Tôi xin em
Bao lời hứa u mê
Trên môi cười đẫm lệ
Qua ngày dài lê thê
Tôi xin em
Một ánh mắt ngây thơ
Mang hào quang rực rỡ
Cho tan vỡ thời gian
Tôi xin em
Trong đêm dài ngao ngán
Bên cạnh lũ thời gian
Một cuộc tình giới hạn
Tôi xin em
Dưới ánh sáng bình minh
Ở khoảng không vô định
Một thủ đoạn làm tình
Tôi xin em
Một tiếng cười man dại
Của loài thú mê say
Trong ân ái đọa đày
Tôi xin em
Một vết dao thật sắc
Ðể cắt đứt thế gian
Ðang nổi loạn từng giờ
Bùi Thanh Liêm
Huntsville, Tháng 5/90
Một Hình Ảnh Cũ
Xưa em bướm trắng qua đàng
Có loài hoa đỏ rộn ràng về theo
Tóc xanh ru sợi mây chiều
Nâu lên mắt biếc đôi điều ươm mơ
Nắng vàng cho áo hạ vừa
Ấp e trang vở tím tờ thư riêng
Má hồng chẳng dấu nỗi niềm
Giận ai hôm trước dám quên đón mình...
lephan
Tái Sinh
Ừ, ta gió núi mây ngàn,
Ðồi trăng suối chẩy, tơ đàn mưa bay.
Lối xưa vang tiếng hạc gầy,
Có con bướm lạ chờ ngày hóa thân.
Hương Yêu
cho Muôn
Khi ta tỉnh giấc xuân nồng,
Hoa thơm lời gió, mưa hồng non cao.
Chuông ngân còn đọng cánh đào,
Hay em cất tiếng ngọt-ngào gọi ta?
Trên Chùa
cho Vy
Áo em biếc cội mai gầy,
Ðồi xanh chim hót động ngày khói sương.
Mắt xa trong cõi trầm hương,
Pháp Hoa Kinh niệm thơm đường người đi.
Rừng Mơ
Khi về rũ bụi đường xa,
Bỗng thương giọt nắng trên tà áo bay.
Thơ ta có gã ăn mày,
Lên non gối mộng vai đầy gió trăng.
Nguyễn-Hoàng Lãng-Du
Thơ Nguyễn-Hoàng Lãng-Du, trích từ Giúp Ích Số 3. Ngoài thơ và truyện ngắn, Giúp Ích còn có nhiều bài biên-khảo giá-trị về văn-hóa và truyền-thống Việt.
Bài nhạc nổi tiếng "Tiễn Em" do Phạm Duy phổ từ bài thơ "Chưa Bao Giờ Buồn Thế" của Cung Trầm Tưởng (1956) đã một phần nào đưa lên tên tuổi Cung Trầm Tưởng lúc bấy giờ. Cung Trầm Tưởng chỉ xuất bản một tập thơ duy nhất vào cuối thập niên 50 lúc ông mới từ Paris trở về. Tập thơ đó đăng những bài thơ nổi tiếng nhất của Cung Trầm Tưởng, những bài nhạc do Phạm Duy phổ từ thơ ông, và những minh hoạ của Ngy Cao Uyên. Ðến nay, tập thơ đó chưa được tái bản lần nào, nên người đọc cũng ít có dịp đọc nhiều bài thơ hay của Cung Trầm Tưởng.
Đinh Trường Chinh
oOo
Chưa Bao Giờ Buồn Thế
Lên xe tiễn em đi
chưa bao giờ buồn thế
trời mùa đông Paris
suốt đời làm chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này rồi chia ly tức khắc
Khóc đi em, khóc đi em
để luồn qua tóc rối
Những vì sao rụng ướt vai mềm
Khóc đi em, khóc đi em
hỡi người em xóm học
để sương thấm bờ đêm
đường anh đi tràn ngập lệ buồn em...
Ôi đêm nay chưa bao giờ buốn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tàu em đi tuyết phủ
Toa em lạnh gió đầy
Làm sao em không rét
cho ấm mộng đêm này
Và mơ ngon trên khắp nẻo đường rầy.
Trời em mơ có sao
Mình anh đêm ở lại
Trời muà đông Paris
không bao giờ có sao
Trời mùa đông Paris
Chưa bao giờ buồn thế.
Cung Trầm Tưởng
1956
Đoản Khúc 3
Ðường dài hạnh phúc...
Sài Gòn nhiều bụi quá. Bụi mù mịt đến độ tôi tưởng tôi không nhìn thấy bên kia đường. Chỗ tôi đứng là 1 ngã tư ồn ào. Mà tôi cũng chẳng muốn thấy bên kia đường để làm gì. Tại vì ở bất cứ ngã tư đường nào của cuộc đời, tôi cũng không gặp được người. Lâu lắm, tôi từng nói qua "đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người", mà cũng hình như thường lắm, tôi tự hỏi "người đi qua đời tôi, nhớ gì không ngườỉ" để rồi lại phì cười, quen biết ít ỏi lấy gì mà nhớ, mà mòn mỏi trông về. Hồi xưa, tôi nhé, ngây ngô lắm. Còn bây giờ tôi nhé, người lớn nhé, ngất ngưỡng với ngày dài tháng rộng, buồn vui chập chùng. Ký ức tôi giống như một lỗ hổng lớn; ngày tháng len lỏi siêu thoát ra ngoài, mất dấu. Ðôi ba lần tôi dơ tay hứng lấy, rồi lại buông xuôi. Ðành thôi, tôi chẳng cưu mang nỗi. Không có hình ảnh nào của tôi ở đây cả, bụi Sài gòn tàn nhẫn lắm. Tôi biết nói gì bây giờ nếu người gặp tôi xa lạ ở con phố thân quen nầy, cùng lắm tôi lại ca cẩm "đường dài hạnh phúc, hạnh phúc không người"...
Cỏ Nhớ
Truyện ngắn Nhật Bản thời hậu chiến
Lời người dịch:
Tháng 3/1945, Mỹ mở cuộc đại không tập Ðông Kinh, hàng trăm ngàn cửa nhà và nhân mạng bị thiêu rụi. Mãi nhiều năm sau khi thất trận, do kinh tế kiệt quệ, vết tích của chiến tranh tại khu Phố Dưới bao gồm cả Asakusa, khu bị tàn phá nặng nề nhất vẫn còn nguyên tình trạng đổ nát và được nữ văn sĩ Hayashi Fumiko dùng làm bối cảnh cho truyện ngắn "hay mà thảm" Shita Machi.
Lâm Phù Mỹ Tử (1904-1951) khởi viết khá sớm từ năm 18 tuổị Vì phải kinh qua một thời trẻ tuổi vật lộn kiếm sống với nhiều nghề vất vả như bồi bàn, công nhân, thư ký, nữ trợ tẵ nên cuộc sống của giới nghèo khổ lao động được ghi lại rất rõ nét trong các tác phẩm của bấ Với lối viết được ngợi khen là có sức truyền cảm mạnh nên sau 1945, bà đã được xếp vào hàng ngũ các nhà văn nữ thời danh ở xứ Phù Tang lúc đó.
oOo
Phố Dưới
Hayashi Fumiko (Lâm Phù Mỹ Tử)
Hôm ấy, vào một buổi gần trưa gió lộng về rét buốt, Duyên co ro rảo bước trên đường phố. Vai đeo túi ba lô, nàng đi nép ở một bên lề, phía có chút nắng vàng nhợt nhạt chiếu trên nóc cao tòa dinh sở, cáo ốc. Thỉnh thoảng nàng lại ngó cách tò mò vào một tòa nhà, một chiếc xe hơi đang đậu hay vào một trong vô số kể những khu phố bị trúng bom nằm rải dọc suốt vùng Phố Dưới.
Liếc ngang qua một bức rào ván, Duyên nhìn thấy túp lều gỗ bé con có gắn cửa sổ kiếng, cạnh đó là đống sắt vụn to tướng. Bên trong lều lập lòe ánh lửa, nàng nghe được tiếng nổ lép bép đầy ấm áp của mớ củi khô đang cháy trong lò. Trước căn lều gỗ, một người đàn ông khoác áo tạp dề đang đứng, quấn quanh đầu chiếc khăn đỏ. Dường như có điều gì dễ chịu toát ra từ cái anh chàng to con này khiến Duyên đủ can đảm để cất tiếng mời chào:
- Trà bán đây! Mời anh mua dùm ít gói trà.
Người đàn ông quay lại:
- Trà hả?
- Dạ, trà ngon miền Trung, trà Shizuoka ạ.
Duyên đáp, miệng cười bối rối. Nàng bước qua khoảng trống nơi hàng rào ván, gỡ dây đeo ba lô, đặt nó cạnh cửa lều. Phía trong một ngọn lửa đang rực cháy nơi cái lò sưởi bằng sắt; trên thanh xà ngang buộc dây thòng xuống treo lủng lẳng cái ấm đồng phun hơi nước nóng ra từng chặp, Duyên ngỏ ý:
- Xin thứ lỗi, liệu có phiền anh lắm không nếu tôi xin vô trỏng sưởi nhờ cái lò của anh đôi phút? Trời lạnh muốn đông đá ngoài kia mà tôi đã phải lội bộ nhiều cây số rồi.
- Tất nhiên là cô có thể vô được chứ sao lại không? Nào, vô đi, đóng cửa lại và ngồi sưởi cho ấm đi.
Anh chàng chỉ cái ghế thấp, món đồ đạc duy nhất trong lều và ngồi lên một cái thùng gỗ đựng đồ lề. Duyên do dự một chút rồi nàng kéo ba lê vô lều, ngồi thu mình nhỏ lại gần lò sưởi, hơ hơ hai bàn tay cóng trên lửa ấm.
Người đàn ông liếc nhanh vào khuôn mặt khả ái của Duyên vừa ửng hồng lên bất thần nhờ sưởi ấm và vào y phục tồi tàn của nàng.
- Chắc đây không phải nghề chính của cô chớ, nghề đeo túi trà đi bán rong, đi rao từ nhà này sang nhà nọ.
- Dạ, chẳng qua cũng chỉ để kiếm sống thôi anh à! Người ta bảo tôi rằng khu vực cận phố này bán buôn được lắm, vậy mà tôi đã rảo quanh từ sáng sớm tới giờ chỉ bán được có mỗi một gói trà. Tôi cũng tính quay về rồi nhưng còn phải dùng cơm trưa ở đâu đó dọc đường trước đã.
- Dễ thôi, cô cứ ở lại đây dùng bữa trưa đi và đừng có lo là không bán được trà.
Anh ta cười cười thêm vào:
- Cô biết đấy, bôn ba chẳng qua thời vận! Không chừng ngày mai cô lại bán đắt hàng cũng nên.
Nước trong ấm sôi réo lên; lúc anh ta loay hoay tháo ấm từ móc sắt ra, Duyên có dịp quan sát quanh nàng. Ván lợp trần ám đen vì ám khói lâu ngày, tấm bảng đen treo gần cửa sổ, trên chiếc kệ thờ có trưng cây cảnh, loại cây linh thiêng theo Thần đạo. Người đàn ông cầm một gói nhỏ trên kệ lên, mở lấy ra một miếng cá hồi; chỉ vài phút sau mùi cá nướng xông ngập căn lều:
- Lại đây cô ơi, ngồi ăn chút gì với tôi cho vui.
Duyên moi hộp cơm trưa ra khỏi túi ba lô, nàng ngồi vào chiếc ghế thấp. Người đàn ông gợi chuyện, tay lật miếng cá trên vỉ nướng:
- Bán buôn kiểu này chắc chẳng hứng thú gì đâu nhỉ; cô bán cỡ nửa ký trà thì được độ bao tiền?
- Dạ, được khoảng trăm rưởi, trăm sáu yên. Nhưng nếu lấy nhằm thứ trà có nhiều cọng quá hoặc lấy giá cao quá thì cũng khó bán lắm anh à.
Thức ăn nơi hộp cơm trưa của Duyên vỏn vẹn có hai con cá nhỏ lăn với bột luộc và một chút xì dầu. Nàng cúi mặt, khởi sự dùng bữa.
- Cô sống ở khu nào vậy?
- Dạ, ở ShiTaYa. Thiệt tình tôi chưa rành rọt gì đất Ðông Kinh lắm đâu, tôi mới tới thủ đô vài tuần trước thôi. Có chị bạn cho tôi ở đỡ ít bữa cho tới lúc tìm được một chỗ ở tàm tạm khác.
Miếng cá vừa chín tới. Người đàn ông cắt làm hai, đưa cho Duyên một nửa, gắp thêm khoai tây từ đĩa cho nàng. Duyên mỉm cười cúi đầu cám ơn rồi lấy một gói trà, nàng đổ một ít trên tờ khăn giấy đưa cho anh ta:
- Bỏ cái này vào ấm nước đi.
Anh chàng lắc đầu cười nhe hai hàm răng trắng:
- Ôi, đừng. Ðừng có phí phạm thế cô ơi!
Duyên giở nắp ấm, trút trà vô trước khi anh ta kịp cản nàng. Người đàn ông vừa cười vừa cầm tách và ca lấy trên kệ thờ đem lại, anh ta sắp chúng trên cái nắp thùng đựng đồ lề dùng làm bàn:
- Cô lập gia đình rồi chớ hở? Ông xã làm nghề gì?
- Dạ, rồi. Chồng tôi vẫn còn kẹt ở bên Sibêria, nên tôi mới phải tạm buôn bán kiểu này.
Duyên bất giác nghĩ tới chồng nàng, người chồng đã bặt tăm hơi suốt sáu năm qua và giờ đây xa xăm mù mịt tới nỗi nàng cần phải gắng sức vận dụng trí nhớ mới hồi tưởng nổi giọng nói, ánh mắt của chồng đã một thời quen thuộc. Nàng thức giấc mỗi buổi sáng cùng cảm giác cô đơn và nỗi niềm sầu muộn cô phụ. Lắm lúc, Duyên có cảm nghĩ rằng chồng nàng đã bị đông lạnh như một xác ma gầy gò nơi cái vùng Sibêria xa xôi gần Bắc Cực - Một bóng ma đói rét,một làn khói sương mờ ảo hay chỉ là một luồng hơi lạnh lẽo âm u. Thiên hạ hết còn để ý chi đến chuyện chiến tranh xưa kia nữa rồi nên Duyên rất ngại ngùng mỗi khi phải cho họ biết rằng chồng nàng vẫn còn là một người tù cải tạo, đi mút chỉ chưa về.
- A, nghe cũng hơi ngồ ngộ đó. Thiệt tình tôi đã từng ở tù cải tạo Sibêria, tôi phải đi lao động đốn gỗ tới hơn ba năm gần bờ sông Amur, tôi cũng mới được thả về nước hồi năm ngoái. Ừ, kể ra thì do vận số cả, cái số rủi nó vận vào người chồng của chị, mà nó cũng đang vận vào cả chị nữa!
- Vậy ư! Có thiệt anh đã trở về từ Sibêria, sao trông anh có vẻ chẳng sứt mẻ tí nào hết?
Người đàn ông nhún vai:
- Tôi không rõ tại sao nữa, nhưng dù thế nào thì chị xem, tôi vẫn còn sống nhăn đây.
Duyên ngắm nghía anh ta lúc nàng xếp hộp cơm trưa. Vẻ thẳng thắn chất phác nơi người đàn ông này khiến nàng muốn nói chuyện cởi mở nhiều hơn; một điều Duyên cảm thấy rất khó khăn mỗi khi tiếp xúc với những kẻ có ăn có học nhiều.
- Ðược cháu nào chưa chị?
- Dạ, một đứa lên sáu. Thằng nhỏ đáng lẽ phải đến trường rồi, nhưng đăng ký cho nó vô học ở Ðông Kinh khó quá. Chính quyền địa phương chắc biết rõ cách thức gây khó dễ cho người dân!
Người đàn ông cởi chiếc khăn quấn đầu để lau sơ tách và ca rồi rót nước trà bốc khói vào, anh ta húp sì sụp:
- Trà khá ngon đấy.
- Anh thích trà này hở|? Không phải trà thượng hạng đâu, chỉ có 100 Yen một gói, nhưng đúng như anh nói, nó khá ngon.
Càng lúc gió càng thổi mạnh hơn giữa khi hai người chuyện trò, gió rít từng cơn trên mái tôn của căn lều gỗ. Duyên nhìn ra cửa sổ, lòng thầm quyết khởi cuộc lội bộ về nhà.
- Tôi sẽ mua dùm chị ít gói trà.
Người đàn ông bảo nàng, tay rút ba tờ giấy trăm bèo nhèo từ túi áo khoác ra.
- Chớ, chớ làm thế! Tôi xin biếu không cho anh.
Anh ta nhét vội tiền vào tay nàng:
- Ối, đừng đừng. Buôn bán là buôn bán! Nếu chị còn lưu lại ở cái phần đất bé tí teo trên thế giới này, mời chị cứ ghé chỗ tôi nói chuyện gẫu cho vui.
Duyên đưa mắt nhìn khắp căn lều nhỏ:
- Tôi cũng muốn lắm. Nhưng, anh đâu có sống ở đây?
- Ồ, có chớ chị, tôi trông coi mớ sắt vụn ngoài kia và phụ bốc lên xe vận tải, tôi ở đây hầu như suốt ngày.
Anh ta mở một cánh cửa nhỏ dưới kệ thờ, bày ra một hõm vách kín đáo với giường nệm ngăn nắp. Duyên chú ý tới tấm hình nữ nghệ sĩ Sơn Ðiền (Yamada) ghim sau cánh cửa, nàng cười:
- Trời, anh sắp đặt chúng khéo quá sức, rúc ở chỗ này chắc ấm chết được.
Và nàng tự hỏi chàng bao nhiêu tuổi.
oOo
Sau bữa đó, Duyên thường lui tới phố Yotsugi để bán trà, không quên ghé thăm khá đều căn lều gỗ ở vùng bị bom. Nàng tìm hiểu được người đàn ông gặp tình cờ hôm ấy tên là Thạch, hầu như bận nào anh ta cũng có món ăn ngon để sẵn đợi Duyên đến là tìm cách gắp vào hộp cơm trưa của nàng. Lúc thì trái mận muối, lúc miếng thịt bò khi hoặc con cá mòi... Công việc bán trà hơi khá hơn nhờ nàng đã có thêm vài thân chủ quen mua nơi vùng phụ cận thủ đô này.
Hơn tuần lễ sau cuộc gặp ban đầu, Duyên đến chơi dắt theo thằng con trai. Thạch đùa giỡn với thằng bé một đỗi rồi dẫn nó đi dạo quanh, khi trở lại, thằng Long cầm trên tay một cái bánh ngọt thiệt bự. Thạch vỗ nhẹ vào cái đầu húi cui của thằng bé:
- Thằng nhỏ con chị coi bộ chịu khó ăn lắm!
Duyên hơi thắc mắc không biết anh chàng bạn mới của nàng đã có vợ con gì chưa. Kỳ thật, nàng nhận ra rằng nàng đang thầm hỏi về vài khía cạnh trong đời anh ta. Ðã 28 tuổi, nhưng hình như đây là lần đầu tiên nàng để ý tới một người đàn ông khác ngoài chồng nàng. Tính tình vui vẻ dễ chịu của Thạch như lôi cuốn tình cảm nàng, dù nàng đã tự dặn lòng kỹ lưỡng rằng đừng bao giờ để cho anh chàng ta ngờ chuyện này tí nào hết. Rồi Thạch đề nghị mời Duyên cùng thằng Long đi chơi phố Asakusa vào ngày kế, ngày anh ta được nghỉ.
Họ gặp nhau trước phòng vé ở ga Ueno. Thạch vận bộ đồ vét xám, kiểu cổ điển đã khá chật rồi, Duyên mặc cái áo dài kimono, vải màu xanh lơ và khoác thêm tấm áo choàng màu nâu nhạt. Dù ăn mặc đơn sơ, vẫn có nét trẻ trung, xinh lịch nơi Duyên lúc nàng đứng giữa đám đông trước sân ga. Ði bên cạnh anh chàng Thạch to lớn, trông nàng giống một cô nữ sinh dạo phố với bồ vào ngày nghỉ học. Trong túi ba lô buôn bán của nàng đựng cơm trưa gồm các món cơm nắm rong biển, bánh mì nguội và ít trái quít. Thạch khoác hờ tay quanh eo Duyên khi anh dìu nàng đi giữa phố đông người:
- Mong sao trời đừng có mưa.
Họ đáp tàu điện đến ga Asakusa, bách bộ từ siêu thị Matsuya tới cửa sấm Raimon, rảo ngang hàng trăm quầy hàng bé xíu. Phố Asakusa hoàn toàn khác hẳn với sự tưởng tượng của Duyên, nàng hơi thất vọng khi Thạch chỉ ngôi chùa Sơn son nhỏ bé bảo rằng đó là giang sơn của Ðức Phật Bà Quan Âm nổi tiếng. Dẫu Thạch đã cố giải thích là trước khi bị trúng bom Mỹ, nó có mấy tầng cao ngất, Duyên vẫn khó hình dung nổi hình ảnh một ngôi chùa vĩ đại. Nàng chỉ còn xem thấy cảnh hàng ngàn khách thập phương kéo về ngôi chùa Sơn son và nghe tiếng kèn, sáo rền rỉ não nề trổi lên từ mấy cái loa phóng thanh đàng xa xa hòa lẫn tiếng gió xào xạc luồn qua những tàng cổ thụ.
Họ len lỏi qua chợ bán quần áo cũ, đến hàng bán đồ ăn san sát bên nhau cạnh bờ sông Sumida, chốn này không khí sặc mùi dầu chiên. Thạch ghé vào một quầy hàng mua cho thằng Long cây kẹo đường nhồi bông, thằng bé mút mát cây kẹo dọc con đường hẹp dán đầy những tấm quảng cáo kiểu Mỹ nào nhà hàng, hô-ten, nào phim, kịch... Chưa đầy hai tuần lễ kể từ hồi hạnh ngộ, vậy mà Duyên cảm thấy thật thoải mái như nàng đã từng quen biết Thạch suốt cuộc đời mình.
- Rốt cuộc, trời cũng bắt đầu mưa rồi kìa!
Thạch nói, xòe hai bàn tay ra. Duyên ngẩng lên nhìn những giọt mưa rải rác đan trong bầu trời xám đục, cuộc du ngoạn quí báu của họ kể như hỏng đến nơi rồi.
- Bọn mình nên chui vào kia đi.
Thạch chỉ vào một cửa tiệm, phía ngoài treo đèn lồng viết mấy chữ màu sặc sỡ: "Anh Ðào Trà Thất". Họ tìm được chỗ ngồi nơi cái bàn trong góc, dười trần nhà thấp trang trí những chùm hoa anh đào giả. Không khí của quán kém tự nhiên cách chi đâu, tuy nhiên họ cho rằng thế là được rồi và gọi một bình trà. Duyên mở túi, phân chia cơm nắm, bánh mì, quít. Chỉ một loáng, bữa ăn được thanh toán sạch sẽ, trời lúc ấy cũng đang mưa một trận ra trò, Thạch đề nghị:
- Mình nên đợi cho mưa dịu chút đi, rồi tôi sẽ đưa Duyên về nhà.
Duyên thầm băn khoăn không hiểu Thạch muốn ám chỉ về nhà nàng hay nhà anh. Nàng đang ở nhờ một căn phòng thuê bé như mắt muỗi của một chị bạn quen hồi dưới quê, chẳng còn khoảng trống nào chừa cho Duyên để gọi là "nhà riêng" của nàng được. Nếu đi về đó thì thà đi về căn lều gỗ của Thạch còn hơn, nhưng ví ra, Duyên đếm lại tiền dưới gầm bàn: bảy trăm bạc có lẽ sẽ đủ thuê một chỗ ở tạm ít giờ nơi lữ quán.
- Anh biết tôi ưng chuyện gì không? Tôi thích bọn mình đi xem xi-nê rồi tìm một lữ quán nào đó kiếm cái gì ăn trước khi mình chia tay, nhưng tôi ngại vậy thì tốn kém quá.
- Vâng, tôi cũng e ngại quá.
Thạch vừa đáp vừa cười lớn:
- Nào, đi thôi, chúng mình sẽ cùng thực hiện chương trình đó.
Với lấy chiếc áo vét trên giá, Thạch quàng qua đầu thằng Long, họ chạy vội dưới cơn mưa để chun vào rạp hát, lẽ dĩ nhiên là không còn ghế trống. Lúc họ "coi phim đứng", thằng Long buồn ngủ gà gật tựa vào người Thạch, không gian trong rạp lúc càng oi ả thêm, tiếng mưa rơi lộp bộp vang đều trên mái rạp...
Trời đã xẩm tối, rời rạp hát, họ bước vội dưới làn mưa rơi rào rạc hòa tiếng kêu phần phật của những tàu lá chuối vặn mình trong gió lớn. Rồi họ cũng tìm được một lữ quán nhỏ, người chủ quán dẫn họ vào cuối hành lang lộng gió đến một căn phòng bé xíu có trải thảm.
Duyên loay hoay tháo đôi vớ ướt nhẹp của nàng, thằng Long con nàng ngồi tựa vô góc phòng và thiếp vào giấc ngủ thật mau chóng.
- Ðây rồi, cái này làm gối cho nó được đấy. Thạch gỡ một miếng nệm cũ trên ghế để lót đầu cho thằng Long.
Cái máng xối gắn trên cửa sổ tuôn nước mưa như một giòng suối chảy đều vào vuông sân nhỏ của lữ quán. Âm thanh nghe hệt tiếng suối reo ở chốn sơn thôn xa xăm nào đó vọng về.
Thạch rút chiếc khăn tay từ áo vét ra, chàng nhẹ lau mái tóc ướt của Duyên. Một cảm giác hạnh phúc lan nhanh khắp tâm hồn Duyên lúc nàng ngước mắt lên nhìn Thạch. Cơn mưa đêm nay, dường như quét sạch nỗi cơ đơn trong "góc tối đỉnh băng sơn" đã phủ vây nàng suốt những năm kia tháng nọ.
Duyên trở ra kiếm mua ít đồ ăn, nàng gặp cô hầu bàn mặc y phục Tây Phương đang bưng mâm trà nơi hành lang. Sau khi đã gọi xong hai tô mì, nàng trở vào phòng cùng Thạch ngồi uống trà, hai người đối diện nhau qua khoảng lò than trống. Một chập sau, Thạch nhích lại sát kề bên nàng; tựa lưng vào vách, họ cùng nhìn ra bầu trời đen kịt đầy mưa bên ngoài, Thạch lên tiếng trước:
- Tuổi Duyên bao nhiêu rồi vậy? Tôi đoán Duyên chỉ độ 25 là cùng.
Duyên cười lớn:
- Chẳng trẻ đến thế đâu Thạch ơi. Tôi là một người đàn bà già rồi, tôi đã 28 tuổi rồi!
- Vậy Duyên chỉ lớn hơn tôi 1 tuổi.
- Trời, sao anh còn trẻ vậy? Tôi ngỡ anh ít nhất phải 30.
Nàng nhìn đăm đăm vào khuôn mặt Thạch, vào đôi mắt đen đậm, ngay thật của anh dưới cặp lông mày rậm. Thạch có vẻ hơi thẹn, anh vươn người tới trước để cởi đôi vớ ướt.
Mưa vẫn rơi đều không ngớt; cô hầu bàn bưng tới hai tô mì lạnh và nước súp. Duyên đánh thức thằng Long dậy và đưa cho nó chén súp nước tương đậu nành, thằng bé mắt nhắm mắt mở húp sùm sụp.
- Duyên à, chắc bọn mình phải ở qua đêm nơi đây mất. Mưa thế này làm sao Duyên về nhà nổi?
- Dạ, chắc về không nổi đâu anh.
Thạch ra ngoài một lát rồi trở lại, tay ôm một mớ chăn nệm trải khắp sàn, căn phòng bé nhỏ bỗng ngập tràn đống đồ ngủ. Duyên ủ con vào một tấm nệm dày, thằng bé ngủ ngáy khò khò lúc nàng lui cui đắp mền thêm cho nó. Duyên tắt đèn, cởi áo dài và nằm xuống, nàng nghe thấy tiếng Thạch ngả lưng nơi cuối phòng:
- Tôi đoán rằng mấy người làm ở lữ quán này nghĩ rằng mình là vợ chồng Duyên à.
- Ừ, tôi cũng đoán thế. Nếu mình cho họ biết rằng không phải, chắc họ phát khùng lên mất.
Tuy miệng đùa, nhưng giờ này, nằm không y phục dưới tấm mền, Duyên cảm thấy lần đầu tiên một cách mang máng sự phiền toái và trách nhiệm. Hình ảnh chồng, không hiểu sao lại trở về gần hơn bao giờ hết. Nhưng, nàng nằm đây chỉ vì bị mắc mưa thôi mà, dần dần ý nghĩ của nàng tản mạn lơ mơ dễ chịu, nàng thiu thiu ngủ.
Lúc Duyên trở giấc, trời vẫn còn tối. Nàng nghe có tiếng Thạch thì thào gọi nàng từ góc anh nằm; nàng lật đật nhổm dậy.
- Duyên ơi, Duyên à, cho tôi qua nói chuyện chút được không?
- Ðừng, Thạch ơi, Thạch đừng làm thế...
Trên mái căn phòng nhỏ, mưa vẫn còn rơi, nhưng hình như cơn bão rớt đã qua rồi, nàng nghe tiếng nước nhỏ giọt đều đặn từ máng xối vào sân, hoặc nghe giọng Thạch thì thào êm ái gọi mãi tên nàng, Duyên cất tiếng sau một lúc yên lặng:
- Thạch này, tôi chưa từng hỏi anh chuyện này: anh có vợ rồi phải không?
- Không, hiện giờ thì không.
- Vậy, là anh đã từng có?
- Ừ, tôi đã từng có vợ. Khi tôi rời quân ngũ, tôi gặp lại vợ tôi nhưng nàng đã sống với người khác rồi.
- Thế anh ức lắm hả?
- Tức à. Ừ, chắc tôi cũng đã hơi tức, nhưng tôi có làm gì được đâu. Cô ta đã bỏ tôi rồi và chỉ có vậy!
Họ lại yên lặng một đỗi rồi Duyên lên tiếng:
- Mình nên nói chuyện gì bây giờ hả?
Thạch bật cười:
- Còn có chuyện khỉ gỉ để nói đâu! Thứ mì sợi họ dọn cho mình ăn chẳng ngon lành tí nào nhỉ?
- Ngon thế nào được mà ngon. Vậy chớ họ lấy mình 100 yen một đĩa đấy.
- Giá mà Duyên với thằng Long có một căn nhà riêng để sống nhỉ?
- Vâng, sướng biết mấy. Anh có nghĩ rằng bọn này sẽ tìm thuê một phòng gần chỗ anh không? Tôi thật tình muốn được sống gần anh, anh Thạch à.
- Tìm một căn phòng cho thuê giá vừa phải ở Phố Dưới lúc này hơi khó, nhưng tôi sẽ để ý cố tìm và nói cho Duyên biết... Duyên ơi, Duyên à. Duyên là một người đàn bà tuyệt diệu lắm, có biết không?
Duyên cười thành tiếng:
- Ðừng có nói xàm.
- Không, thật mà, Duyên rất đẹp, Duyên ơi, Duyên đẹp lắm.
Duyên nằm ngả lưng xuống sàn. Bất chợt, nàng muốn quàng tay ôm lấy Thạch để cảm thấy thân xác to lớn của anh ở thật gần kề nàng. Nàng không dám cất tiếng nữa vì sợ giọng nói sẽ làm phát lộ xúc cảm. Hơi thở Duyên khó khăn, toàn thân nàng rạo rực. Bên ngoài cửa sổ, một chiếc xe tải đang ì ạch băng qua phố sớm.
- Ba má anh sống ở miền nào vậy Thạch?
- Ở miền Nam, vùng quê Fukuoka.
- Nghe nói anh còn một người chị sống ở Tokyo phải không?
- Ừ, nhưng chị ấy cũng cô đơn lắm, giống như Duyên vậỵ Chị ấy còn hai đứa con phải chăm sóc nên đành sống bằng nghề may quần áo thuê. Chồng chị ấy chết mấy năm trước rồi trong một trận chiến bên Trung Hoa.
Duyên nhận ra những tia sáng của buổi bình minh đã lóa lên ngoài cửa sổ. Vậy là đêm của hai người bên nhau đã sắp qua. Lòng nàng không vui mấy; một đàng thì nàng mong cho Thạch đừng bỏ cuộc cách dễ dàng, một đàng thì nàng muốn tốt hơn cứ để tình cảm lửng lơ. Nếu Thạch là một người đàn ông nàng không mấy hiểu rõ, hoặc một người nàng không có cảm tình nhiều, chắc nàng đã hiến thân không đắn đo rồi. Nhưng với Thạch, thật hoàn toàn khác hẳn làm nàng khó nghĩ. Giữa lúc ấy, giọng Thạch lại vọng tới gần nàng:
- Duyên ơi, tôi chẳng ngủ được. Tôi thức thao láo con mắt đây nè. Chắc tôi hổng có quen với cái cảnh này...
- Cái cảnh gì cơ à?
- Cái cảnh, cảnh... ngủ chung phòng với đờn bà, con gái!
- Vậy hở Thạch, có dám nói với tôi rằng anh chưa từng có bạn gái không?
- À, à... chỉ là mấy cô chuyên nghiệp thôi mà...
Duyên cười ngặt nghẽo:
- Ðàn ông các anh dễ thật, trò nào cũng làm được!
Nàng nghe tiếng Thạch chuyển mình, thình lình anh đã tiến sát ngay cạnh nàng, cúi người trên mình nàng. Duyên nằm im không nhúc nhích, cả khi nàng cảm thấy vòng tay Thạch quấn ngang lưng nàng, mặt anh kề mặt nàng. Trong bóng tối, đôi mắt nàng chợt mở lớn, trước khi chúng rực lên như ánh chớp, đôi môi Thạch đã ép chặt vào má nàng.
- Duyên ơi, Duyên ơi...
- Hư lắm, Thạch biết đó, vậy là quấy với chồng tôi...
Duyên rù rì, nhưng gần như nàng ngưng ngay lại, lòng ân hận vì lỡ miệng. Lúc Thạch uốn cong người trên mình nàng, Duyên nhìn được khuôn mặt nghiêng nghiêng của anh nhờ phản chiếu của những tia sáng rạng đông. Cúi đầu về phía trước, dáng vẻ Thạch trông giống như người đang cử hành một nghi lễ phụng thờ đấng thần linh nào đô Duyên ngại ngần một vài giây, rồi nàng vòng đôi tay ấm bá lấy cổ Thạch vít xuống...
oOo
Hai hôm sau, Duyên hớn hở dắt con tới thăm Thạch. Bước vào xóm bị bom, nàng ngạc nhiên không thấy anh đứng trước lều với cái khăn đỏ quấn đầu như thường lệ. Thằng Long chạy vội đến lều để kiếm coi chú Thạch có ở nhà không, nó vòng trở lại trong chớp nhoáng:
- Có người lạ ở trỏng má ơi!
Thất kinh, Duyên bước nhanh tới, trong lều hai người đàn ông mặc đồ công nhân đang bận rộn chồng chất những vật dụng của Thạch vào một góc. Nghe tiếng chân, nàng quay đầu lại:
- Có chuyện gì cần không hở chị?
- Dạ, tôi đến tìm anh Thạch.
- Ủa, chị chưa biết sao? Anh Thạch đã qua đời tối hôm rồi.
- Hả, anh ấy chết rồi.
Duyên muốn hỏi thêm cho rõ, nhưng cổ họng nàng như bị nghẹn lại... Nàng chợt để ý đến một ngọn nến nhỏ được thắp trên kệ thờ và nhận ra ý nghĩa tóc tang sầu thảm của hình ảnh ấy.
- Vâng, thưa chị, anh Thạch tử nạn hồi 8 giờ đêm qua. Anh cùng đi xe tải với một người thợ bạn để giao mớ cột sắt tới Omiya. Trên đường về, xe tải bị lật xuống một khúc cầu hẹp, cả người lái xe và anh ấy đều chết. Chị ảnh đã đi Omiya sáng hôm nay cùng với nhân viên của hãng sắt lo liệu việc hỏa táng.
Duyên ngây dại nhìn vào khoảng trống trước mặt nàng, như một kẻ mất hồn nàng nhìn hai người đàn ông thu lượm các đồ lề Thạch để lại. Cạnh ngọn nến trên kệ thờ là hai gói trà Thạch đã mua giúp nàng hôm nọ - đâu chỉ mới cách có khoảng tuần trước - 1 gói đã dùng hơn phân nửa được gấp sơ lại và 1 gói còn nguyên chưa bóc.
- Bộ chị là bạn của anh Thạch hả? Ảnh thật là một anh chàng tốt tính! Thạch à, đáng lẽ ra cậu đừng có mò đi Omiya làm gì cho thân tội! Chị biết không, bác lái xe bị cảm sơ sơ, anh Thạch bảo ảnh cần phải theo xe đi Omiya để phụ bốc sắt cho bác ta. Thiệt là khùng quá sức, sau khi đã lăn lộn nơi chiến trường, trải qua những năm tù cải tạo Sibêria cùng đủ mọi thứ mà chẳng hề hấn gì, ảnh lại bị chết lãng nhách như vầy!
Một người thợ gỡ tấm ảnh nghệ sĩ Sơn Ðiền xuống phủi bụi bặm trên mặt hình. Duyên đứng sững người, nhìn những đồ vật Thạch để lại trên sàn: cái ấm đồng, cái chảo, đôi ủng cao sụ Khi đôi mắt Duyên chạm tới tấm bảng đen, nàng đọc thấy một dòng chữ nguệch ngoạc bằng phấn đỏ: "Duyên, anh đợi mãi tới 2 giờ. Tối nay sẽ về lại".
Duyên cúi đầu chào hai người thợ một cách máy móc, quãy cái ba lô lên lưng, nàng lặng đi trong nỗi đau buồn, tay dắt con rời khỏi căn lều gỗ. Ra khỏi xóm bị bom, đôi giòng lệ nóng trào dâng nơi khóe mặt nàng.
- Bộ chú Thạch chết rồi hở má.
- Ừ, chú ấy chết rồi.
- Sao chú chết vậy má.
- Xe chú ấy bị lật xuống sông.
Nước mắt chảy xuôi xuống má nàng, chúng tuôn ra đầm đìa không cầm nổi lúc nàng bước vội qua khu Phố Dưới. Duyên dắt con băng qua cây cầu uốn nhịp trên dòng sông Sumida, nàng thẫn thờ đi dọc theo bờ sông.
"Ðừng lo nếu em có con". Thạch đã thủ thỉ bên tai nàng sáng hôm đó ở Asakusa, rồi trước khi chia tay, Thạch còn nói thêm: "Anh sẽ săn sóc cho em nếu bất cứ chuyện gì xảy đến. Anh không có nhiều tiền của gì cho lắm, nhưng nên để cho anh giúp em một ít. Anh sẽ phụ thêm cho em mỗi tháng 2000 Yen Duyên à".
Thạch đã dắt thằng Long tới một cửa tiệm chuyên bán đồ ngoại, mua cho nó một cái mũ lưỡi trai kiểu cầu thủ dã cầu có viết tên nó trên mũ. Cả ba người đã hân hoan tản bộ dọc theo đường rầy xe điện, đi vòng để tránh những vũng nước lớn do cơn mưa tối qua để lại. Tới một quầy bán nước giải khát, Thạch rủ họ vào và kêu cho mỗi người một ly sữa tươi thật bự.
Dường như có cơn gió giá buốt nào vừa từ lòng sông đen ngòm thổi tới; một bầy vịt nước tụ tập phía bên kia bờ, nom chúng có vẻ co ro rét mướt đầy buồn thảm, mấy chuyến xà lan di chuyển chậm chạp ngược, xuôi theo dòng sông.
- Má ơi, con muốn coi truyện hoạt họa quá hà, má nói má sẽ mua cho con mộr cuốn mà!
- Ðể sau đã, rồi má sẽ mua cho con.
- Nè má ơi, mình mới đi ngang tiệm bán truyệt hoạt họa, sao má không mua cho con đi... Má ơi, con đói rồi, mình có mang cái gì ăn không hở má.
- Gượm đã con, để chốc nữa đã.
Họ băng qua những dãy lầu xây theo kiểu chung cư; Duyên nghĩ thầm chắc đó là những căn nhà của tư nhân. Mọi người sống trong ấy hẳn đều có phòng ốc riêng biệt. Từ một cửa sổ căn chung cư phơi vắt vẻo mấy tấm nệm dưới ánh nắng, Duyên nhìn thấy một người đàn bà đang loay hoay dọn dẹp trong phòng, nàng cất tiếng rao mềm mỏng:
- Trà bán đây, trà Shizuoka thượng hạng đây. Không nghe thấy tiếng đáp lại nên Duyên phải tiếp tục rao lớn hơn.
- Tui hổng muốn mua cái quỉ gì hết! Người đàn bà thò miệng ra đáp xong, kéo mấy tấm nệm và đóng cửa sổ lại cái rột.
Duyên rảo nhà nọ tới nhà kia mời chào nhưng chẳng thấy có ai chịu mua trà cả, thằng Long cứ lẽo đẽo theo sau, kêu ca là nó đói và mệt rồi. Cái ba lô đeo lưng thúc đau nhói đôi vai nàng, đôi lần Duyên phải dừng lại để sửa quai đeo. Thế nhưng chẳng hiểu sao nàng có vẻ như mặc nhiên, sẵn lòng nhận lấy cơn đau thể xác này.
oOo
Bữa kế đó, Duyên đi xuống khu Phố Dưới một mình, bỏ thằng Long ở lại nhà. Ðến gần xóm bị bom, nàng trông thấy có ánh lửa bập bùng cháy trong căn lều gỗ. Duyên chạy vội tới, bước vào lều. Gần cái lò Thạch để lại, một người đàn ông khá tuổi khoác áo công nhân ngồi sưởi ấm, tay đẩy củi thêm vô lò khói cuồn cuộn khắp phòng rồi tuôn ra phía cửa sổ.
- Cần gì đó cô?
- Dạ, cháu đến bán trà Shizuoka ạ.
- Trà Shizuoka. Tôi đã mua cả đống để sẵn đầu kia.
Duyên im lặng quay ra, nàng có ý định đi tìm nhà chị của Thạch, thắp một nén nhang tưởng niệm cho anh, nhưng bất chợt dự tính này tiêu tan. Nàng đi bộ về hướng dòng sông Sumida, nước sông phản chiếu ánh chiều tà lấp loáng. Duyên ngồi xuống cạnh một phiến bê tông rạn nứt, cách vài thước, xác một con mèo con đang nằm phơi dưới nắng. Nghĩ đến Thạch, nàng mơ hồ tự hỏi giá nàng chưa từng bao giờ gặp anh thì có phải tốt hơn không? Không, không, nàng không bao giờ hối tiếc về chuyện đã trót gặp Thạch, hối tiếc về chuyện tình cảm đã xảy ra giữa hai người. Nàng cũng chẳng ân hận việc nàng đã tìm đến cái đất Tokyo này nữa. Lúc khởi sự tới Ðông Kinh hơn tháng trước, nàng trù tính sẽ về lại miền quê nếu công việc bán buôn bết bát. Nhưng, giờ thì Duyên biết rất rõ rằng: nàng sẽ còn lưu lại mãi nơi đây. Ừ, có thể là sẽ ở lại ngay tại khu này, khu Phố Dưới thuộc thủ đô, nơi Thạch đã từng sống qua.
Duyên đứng dậy, xốc ba lô lên vai, bước rời xa dòng sông. Rảo qua một lề phố nhỏ, nàng bỗng nhận ra một căn nhà lụp xụp được đóng ghép sơ sài bằng những tấm gỗ ván, tới trước cửa nhà, nàng rao lớn:
- Trà Shizuoka đây, có ai mua trà hôn?
Cánh cửa xịch mở, một người đàn bà xuất hiện nơi ngưỡng cửa, bà ta ăn mặc có chừng còn tồi tàn, tệ mạt hơn cả Duyên nữa.
- Trà bán nhiêu vậy cô? Rồi nhìn vào cái ba lô trên lưng Duyên, bà ta thêm:
- Hay là vào nhà tui ngồi nghỉ một lát đi cô, để tui đi coi lại xem thử tụi tui còn được bao nhiêu tiền. Chắc là đủ để mua ít trà dùm cô mà.
Duyên bước vào và đặt cái ba lô xuống sàn; trong căn phòng nhỏ hẹp, bốn người đàn bà thợ may ngồi xúm lại quanh một cái lò sưởi dầu, họ đang may một lố áo sơ mi, vớ... Chắc đây cũng là những người đàn bà có cảnh ngộ giống nàng,
Duyên thầm nghĩ như thế và quan sát những mũi kim bận rộn chạy tới lui tíu tít trên nền vải, một cảm giác ấm áp chợt ùa đến choàng phủ lấy nàng...
Y Yên dịch thuật