vhnt, số 184
10 May 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Mẹ là thơ nên đất nước sẽ hồi sinh ........Trần Trung Ðạo
2 - Ý nghĩ một ngày mưa .....................Trương Nguyễn Thi-Thanh
3 - Lục bát cho bốn mùa ........................Nguyễn Phước Nguyên
4 - Tháng tám riêng .............................................Nguyên Sa
5 - Say .........................................................Tô Hoài Nam
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Ðọc Chí Phèo .......................................Phạm Thế Ðịnh
7 - Tác giả và tác phẩm: nhà thơ Nguyễn Duy .................NTD g/t
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Ðôi chim của mẹ .........................................Phạm Chi Lan
9 - Như khói lam buồn (phần 1/2)..............................Hồng Lan
Chủ nhật 12 tháng năm là Ngày Của Mẹ, xin dành số này đặc biệt tặng các người Mẹ. Gửi Mẹ một đóa hoa tinh thần trong ngày này, và mong hoa tình thương của Mẹ sẽ nở mãi trong lòng những người con.
thân ái,
PCL/vhnt
Mẹ Là Thơ Nên Đất Nước Sẽ Hồi Sinh
Mẹ ngồi suốt hai giờ trên xe buýt
Chỉ mong đến tận nơi để nghe đọc thơ con
Những vần thơ chan chứa vạn nỗi buồn
Những vần thơ chảy ra từ tim Mẹ
Bảy mươi lăm năm
Bên cuộc đời dâu bể
Mẹ vẫn còn nguyên vẹn một tình thương
Bụi thời gian không lấp kín được tủi hờn
Ðời đất khách chẳng làm phai quá khứ
Lòng Mẹ vẫn nương về cố xứ
Nhìn trời xanh hoài vọng phút thanh bình
Mẹ chờ lâu không?
Như chờ ngày đất nước được hồi sinh
Vườn trầu cũ, hàng cau xưa ai bón
Mẹ để lại bên kia
Láng giềng hàng xóm
Mồ mả tổ tiên
Thân thuộc xa gần
Mẹ buồn lắm không?
Cho đời Mẹ long đong
Bảy mươi lăm như tuổi ngọn đèn dầu
sắp cạn
Lỗi là ở chúng con
Những con chim trúng đạn
Mang vết thương quằn quại bốn phương trời
Thơ con buồn hay máu chúng con rơi
Mẹ ngồi trên xe buýt suốt hai giờ
chỉ mong đến tận nơi
Ðể nghe đọc thơ con
Những bài thơ vốn buồn hơn nước mắt
Con biết lòng Mẹ đau mà không khóc
Như chúng con vẫn gượng cười đi giữa điêu linh
Ôi có giống dân nào như một giống chim
Bay suốt bốn ngàn năm chưa dừng lại
Như đời Mẹ mang nỗi buồn đi mãi
Bảy mươi lăm năm chưa một chỗ quay về
Mẹ ghé từng quán sách ở San Jose
Ðể rao bán những bài thơ con viết
Như bán tình thương chảy hoài không hết
Bán cả niềm đau cho thiên hạ vô tình
Có ai cần đọc thơ con?
Một thi sĩ vô danh
Viết những chuyện chẳng còn ai muốn nhắc
Câu chuyện Việt Nam mịt mờ xa lắc
Hai mươi năm bao nước chảy qua cầu
Mẹ đừng buồn khi chẳng có ai mua
Hồn thơ đó nghìn năm sau vẫn đọng
Nhờ có mẹ thơ con còn hy vọng
Mẹ là thơ nên đất nước sẽ hồi sinh.
Trần Trung Đạo
Ý Nghĩ Một Ngày Mưa
Hôm qua nắng trong,
và trời cũng trong,
trong như màu mắt em tuổi mười lăm con gáị
Trưa nay mưa nhiều
tròn bong bóng vỗ vào thuỷ tinh.
Mảnh vỡ!
mảnh vỡ vô hình
mà nghe đau như cuộc tình mười năm sau nhớ lạị
Em không còn mười lăm thơ dại
Tay búp măng không đủ hứng mưa trời
nên mưa cứ rơi
nhỏ xuống hợt hời.
Rùng mình. Ôi chao lạnh.
Ai về trong ảo ảnh?
Có phải bóng mình
lặng thinh đi tìm buổi nắng trong hôm qua vừa đánh mất?
Trương Nguyễn Thi Thanh
lục bát bốn mùa
có phải bây giờ mùa hè
nên em nghe thoáng tiếng ve rầu rầu
trao nhau một tiếng thương đầu
ngờ đâu, em hỡi... qua cầu gió bay
có phải thu đã về đây
nên em nhớ những hàng cây khô cằn
con tằm trong kén băn khoăn
dưới cành khô, ẩn. Trở trăn. Giấc buồn.
có phải ngày đã vào đông
nên em nhen ánh lửa hồng ngoài sân
giữa trời - gió, tuyết ái ân
hằn trên mặt tuyết, dấu chân ta. về.
có phải mùa xuân đã về
nên em nghiêng suối tóc thề đầu sông
nắng hôn cỏ nội, hoa đồng
vườn em có cánh bướm hồng tìm sang
nguyễn phước nguyên
Tháng Tám Riêng
Khi em cởi áo nhọc nhằn
Cất son phấn chỗ rất gần xót xa
Anh xin ân huệ kiếp xưa
Xếp phong sương cũ với ngờ vực quen
Anh ru em ngủ cách riêng
Trời Tô Châu xuống, giấc hoàng điệp bay
Ðắp lên mười ngón hao gầy
Cây trong giấc mộng mang đầy trái thơ
Trái Giang Nam những ngày mưa
Anh ru em ngủ giấc mơ phù kiều
Hải âm trả lại tiếng đều
Tiếng son sắc ở, tiếng vào thiết tha
Nguyên Sa
Say
Bao đêm nhung nhớ, em nào biết
Rượu đắng mềm môi, vẫn cứ say
Một lần tỉnh giấc, một lần hay
Hay đã xa rồi... em đã bay
Ác quá trời cao đứng lặng thinh
Ðể mưa để gío đến thăm "mình"
Mưa rơi gío buốt ngày cô quạnh
Cắt mãi vào tim vết thương tình
Ngoài vườn nắng ấm gọi mùa xuân
Hồng đào vẫn nở cạnh trầm luân
Nát tan từng bước qua đường cũ
Tìm chút bụi mờ những bước chân
"Tôi" ở em tôi cũng rất nhiều
Nhưng nào "tôi" hiểu được tình yêu
thứ tha gởi chút tình êm đẹp
Ðể mãi muôn đời được nhớ yêu
Bây giờ... những lúc trời vừa sáng
là lúc lòng tôi lệ chứa chan
Uống cho say uống để quên ngày
Rồi đêm tối lòng vừa tan nát
Tôi quỵ xuống giữa đường tình ái
Phía bên cầu ân ái tàn phai
Cố đứng lên với lấy yêu người
Rồi gục xuống như người điên dại
Tô Hoài Nam
(Ngày 3 tháng 4 năm 1996)
Ðọc Chí Phèo
Mấy ông Cao trong làng văn học nghệ thuật Việt Nam đều chiếm những chỗ độc đáo cả: Ông Cao Bá Quát có những bài thơ, tôi cho rằng hay không kém (hay ít nhất là hợp cho VN hơn) thơ Ðỗ Phủ, mà lại còn ẩn tấm lòng thương yêu đồng bào, đậm không thua văn Lỗ Tấn của Trung Hoa sau nàỵ Cái án sử của nhà thơ cách mạng, được coi như thi thánh và văn hay đó (Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy bất thịnh Ðường ), tạo cho thi ca nước ta hai nhà thơ lớn khác là Cao Bá Nhạ và Cao Bá Ðạt.
Gần chúng ta có 2 ông Cao khác, không phải là họ thật, mà là bút hiệu đó là Nam Cao, và Văn Cao.
Nam Cao viết không nhiều vì chết trẻ. Nhưng nói đếnnhững nhà văn viết chuyện ngắn hiện thực chúng takhông thể bỏ sót ông. Hơn thế nữa nhân vật Thị Nở trong truyện "Chí Phèo" của Nam Cao đã nổi tiếng về cái xấu có thể là vô địch trong văn chương VN.
Tô Hoài với đoạn tả chị Doãn "có nhan sắc của 1 người đàn ông không đẹp trai" đã bị coi là quá tàn nhẫn với phái đẹp; nhưng so chị Doãn với Thị Nở của Nam Cao thì Thị Doãn hình như còn đẹp hơn:
"... và xấu ma chê qủy hờn. Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra ..."
Những nét tả chân độc địa và độc đáo! Thử nghĩ là vào những dịp tặng thiệp trong mỗi kỳ sinh nhật người quen, mà kẻ nào dám đùa nghịch vẽ một cái hình Thị Nở , để gửi tặng bạn bè thì sẽ hiểu cái hình ảnh này tai hại thế nào.
Nhiều khi vì vậy, rất nhiều người Việt đã có dịch Kiều, Chinh Phụ Ngâm ... ra ngoại ngữ, nhưng ít ai dịch Chí Phèo thì phải. Có phải vì "Ðẹp tốt khoe ra, xấu xa che lại" hay không?
Nam Cao viết Chí Phèo vào năm 1941, lúc ông mới 24 tuổi, trong thời Nhật nhảy vào chiếm đóng Việt-Miên-Lào. Hơn nửa thế kỷ sau, tôi đọc đi, đọc lại Chí Phèo, vẫn thấy hay.
Nhà văn hay là ở chỗ đó, vượt không gian, vượt thời gian. Khi tác phẩm đã đẹp, càng để lâu, càng lên nước. Ðẹp cho mọi giới thưởng lãm.
Ðưa được cái xấu như khuôn mặt của Thị Nở, cái khốn cùng như cái thân phận của Chí Phèo, cái kiệt cùng của xã hội Việt Nam lúc đó vào văn chương để trở thành cái đẹp muôn thưở, đấy là thiên tài của Nam Cao.
Nam Cao thuở đó mới 24 tuổi mà tả cái đoạn Chí Phèo hiếp Thị Nở rất có nét:
"... Thị Nở bỗng nhiên bật cườị Thị Nở vừa rủa vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy lại giúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau..."
Cái tay đập của kẻ bị hiếp tuy để biểu lộ một hành động đánh, chống lại nhưng thật sự chỉ để tạo cơ hội để giúi lưng đối phương xuống, tìm những khoái cảm sau những dồn nén tình dục quá lâu. Và cả hai kẻ hiếp và bị hiếp sau đó cười với nhaụ Trơ trẽn, thô tục, bình dân, phũ phàng, cường điệu ư? Có lẽ, nhưng theo tôi rất hay.
24 tuổi, cái tuổi mà nhiều người còn mơ mộng ngồi đếm lá vàng rơi, chép lưu bút, ôm đàn thả hồn theo tiếng hát để xây những "lâu đài tình ái", mà Nam Cao đã chua cay và thực tế quá rồi.
Lấy khung cảnh là 1 cái làng hẻo lánh, ngoài Bắc, xa phủ, cách tỉnh, dân số chỉ vừa quá 2 nghìn mà lại mang 1 cái tên nghe rất kêu là làng Vũ Ðại, Nam Cao đưa những nhân vật của ông vào câu truyện. Một truyện ngắn dài khoảng 13 trang giấy, mỗi trang độ 1000 chữ.
Hai nhân vật chánh trong "Chí Phèo" là:
- Chí Phèo: thưở nhỏ bị bố, mẹ bỏ rơi, lớn làm canh điền cho Lý Kiến (giờ là Bá Kiến), vì bị vu mà vào tù, sau khi ở tù ra, hắn về lại làng Vũ Ðại, và chuyện bắt đầu vào ngày thứ hai sau khi Chí Phèo về làng.
- Bá Kiến: nhà bốn đời làm tổng lý, đang là bá hộ, tiên chỉ làng, chánh hội đồng, kỳ hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu.
Những nhân vật phụ là:
- Thị Nở: người đàn bà có cái nhan sắc đã tả ở trên, lại thêm tính dở hơi, dòng giống của 1 gia đình có mả hủi, ở với 1 bà cô gái già, cũng không chồng như thị.
- Lý Cường: con của Bá Kiến, đang giữ chức lý trưởng, vũ dũng và ngu.
- Tự Lãng: vừa làm thầy cúng, vừa làm nghề hoạn lợn, vợ chết đã 7, 8 năm, tuyệt vọng nên say sưa cả ngày.
Những nhân vật "làm phông" trong truyện là những người dân làng lam lũ, cơ cùng như anh chàng thả ống lươn, người đàn bà góa mù, bác phó cối, những kẻ không ít thì nhiều đã có lòng cưu mang Chí Phèo lúc bé, nhưng không đủ phương tiện hoặc chết sớm đi mất; hay là những người nạn nhân của phong kiến, thực dân như binh Chức, bản tính hiền như cục đất, vì nghèo phải đi lính, có chị vợ xinh xắn ở nhà xa chồng, nghiễm nhiên biến thành của ngon không phải trả tiền cho bọn lý lịch chuyên đổi. Ðó là đám dân lành. Phe xấu thì có Năm Thọ, 1 tên đầu bò, đầu bướu, đám bè phái cường hào như cánh ông đội Tảo, cánh ông Tư Ðạm, cánh ông Bát Tùng, đám người nhà Bá Kiến...
Thỉnh thoảng cũng có những người tượng trưng cho cảnh yên bình, hiền hòa ở thôn quê như anh thuyền chài, người đàn bà bán vải.
Nhưng tuyệt đối Nam Cao không đưa ra 1 vai anh hùng nào cả. Một xã hội tuyệt vọng, không còn lối thoát, bi cực, lẻ loi như hình ảnh của cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, nơi mà thưở bé, Chí Phèo đã bị bỏ rơi, trần truồng, xám ngắt trong 1 cái váy đụp.
Câu truyện mở đầu với màn Chí Phèo chửi, vì hắn cứ rượu xong là chửi. Cái cảnh say, và chửi ấy đã tạo cơ hội cho Chí Phèo sống thật, nói thật. Trong một xã hội quá già, quá cũ, quá phong kiến, và quá xấu dưới con mắt của Nam Cao, đấy cũng là lúc ông uất ức nói lên tất cả những hằn học, phẫn nộ vào đời sống.
Chửi không chừa ai, cái khổ đã làm bể tất cả những thần tượng, cái tuyệt vọng đã làm nát tất cả những giá trị luân lý, cái lẻ loi, bất lực đã tạo thành những cơn say, câu chửi, những việc làm táo tợn, bất chấp.
Cái hồi gần dứt chuyện là đoạn Chí Phèo tự nhiên tìm được tình yêu nơi Thị Nở, người xấu vô cùng và đã bị hắn hiếp, nhưng cô của thị Nở lại không đồng ý cho cuộc tình duyên này, và hậu quả là Thị Nở cũng "ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về" bỏ hắn. Cái phút hạnh trên trời rơi xuống, rồi bị lấy đi mất là giọt nước cuối làm đầy sông, tràn qua bờ đê, xoáy ngược lại để tàn phá cuộc sống. Chí Phèo lại say, lại chửi, và cuối cùng ra đi với con dao với ý định đâm chết Thị Nở, tuy vậy hắn lại xăm xăm đến nhà Bá Kiến và sau khi từ chối bị mua chuộc, hắn giết Bá Kiến và tự sát. Với Chí Phèo, Bá Kiến là kẻ đã là nguyên nhân sự khổ đau của đời hắn. Từ 1 tên canh điền hiền như cục đất, vì mỗi một tội nghèo, hắn phải đi làm công cho ông này, rồi bị 1 bà vợ lẽ động cỡn của ông ta sai bóp chân, định rủ rê làm tình; không viết ra nhưng ai cũn g đoán là vì ghen nên lý Kiến đã vu tội đẩy Chí Phèo vào tù. Từ đó, Chí Phèo không còn là người lương thiện, tử tế được nữa. Cái nhân bản đã bị cướp đoạt, và giải pháp cuối cùng là huỷ hoại kẻ biểu tượng của phong kiến và chính hắn, là nạn nhân của xã hội đó.
Trên phương diện bố cục, Nam Cao đã áp dụng phương pháp của những tác giả lớn là dùng một hình ảnh hay âm thanh rõ nét để tạo đường dây chính nối mọi diễn biến. Ðiều này Nguyễn Hiến Lê đã nêu ra khi dịch truyện ngắn "Mưa" của S. Maugham: tiếng mưa làm nền chính, hay quen thuộc với chúng ta hơn là Nguyễn Du đã sử dụng tiếng đàn của Kiều trong Ðoạn Trường Tân Thanh. Trong Chí Phèo, âm thanh chính là những câu chửi: Chí Phèo chửi từ trời đến người không chừa một ai, lý Cường chửi Chí Phèo, cô của Thị Nở chửi Thị Nở, Thị Nở chửi Chí Phèo, một xã hội ồn ào tiếng chửi.
Bút pháp phẫn động, mỉa mai, và lối văn tả chân đã được Nam Cao dùng trong tác phẩm hiện thực này, ông tả người khéo, và rành tâm lý dân quê, không dài dòng mà đưa đủ được điều muốn đưa.
Những nhà phê bình có khuynh hướng xã hội và căm thù giai cấp rất thích viết về Chí Phèo. Họ lấy đó làm biểu tượng để chê trách phong kiến, thực dân, đề cao tính nhân đạo của Nam Cao, và từ đó biện minh cho cách mạng vô sản.
Nhưng cũng có những nhà phê bình nhìn Chí Phèo của Nam Cao dưới những khía cạnh khác như nhân bản, tâm lý, ký hiệu học (qua những cơn say của Chí Phèo)...
Dù gì "Chí Phèo" cũng vượt qua sự lãng quên để đưa Nam Cao vào văn học sử Việt Nam, và dù có cơ hội đọc tác phẩm này hay không, một ai khi đã được nghe về Thị Nở đều có nhiều xác suất giữ hình ảnh này mãi trong lòng. Ðó là một hình tượng như Sherlock Homes của Conan Doyle, hay Quasimodo của Victor Hugo.
Và làm được như vậy, phải có một tài năng đặc biệt!
Phạm Thế Ðịnh
Thời hậu chiến ta vẫn người trong cuộc
Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày?
Ðôi dòng tiểu sử: Tên thật Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948; quê quán Thanh Hóa, làm thơ khá sớm, từ đầu thập niên 70, thơ ông đăng rải rác trên báo chí miền Bắc, giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ tổ chức tại Hà Nội 1972-1973 với những tác phẩm trong tập thơ Cát Trắng.
Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Cát Trắng(1973), Phóng Sự 30-4-75 (1981), Ánh Trăng (1984), Ðãi Cát Tìm Vàng (1987), Mẹ và Em (1987); kịch thơ Em Sóng (1983); tiểu thuyết Khoảng Cách (1986); bút ký Nhìn Ra Bể Rộng Trời Cao (1986) ... một Nguyễn Huy Thiệp trong lãnh vực thơ ca (theo Nguyễn Hưng Quốc) nhiều bài thơ ông bị cấm phổ biến vì bày tỏ thái độ bất mãn và phản kháng . Nhận xét của Trịnh Công Sơn về Nguyễn Duy: " Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó ...''
Sách báo tham khảo:
*Mẹ và Em, Nguyễn Duy. Courtesy anh Nguyễn Lê Quốc Anh.
*Thơ Việt Nam 1945-1985, nhiều tác giả.
*Văn Học Việt Nam dưới Chế Độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc.
*Các tập san Hợp Lưu...
*Thi tuyển: Mưa trong nắng, nắng trong mưa, Ðám mây dừng lại trên trời... Ðược yêu như thể ca dao, Xẩm ngọng, Kim Mộc Thủy Hoả Thổ, Ðò Lèn, Dòng sông mẹ, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa... Sông Thao, Ca dao vọng về, Bất chợt, Một Góc Chiều Hà Nội, Chùm thơ viết ở Hoa Kỳ.
oOo
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa...
Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
Cái cò... sung chát đào chua...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ... mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng
Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.
tp Hồ Chí Minh, Mùa thu 1986
Ðược yêu như thể ca dao
Bao giờ cho tới ngày xưa
yêu như các cụ cho vừa lòng ta
cái thời chưa nhiễm SIDA
yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa
Ðược yêu như các cụ xưa
cũng trăng gió cũng mây mưa ào ào
được yêu như thể ca dao
đủ phờ phạc đất đử lao đao trời
Tây Tàu cũng thế thì thôi
y chang cay đắng ngọt bùi khổ đau
không trầu mà cũng chẳng cau
làm sao cho thắm môi nhau thì làm
22/12/1993
Mưa trong nắng, nắng trong mưa
Bộn bề công việc bấy lâu
hẹn nhau dành dụm cho nhau một chiều
đường nào cũng lắm thương yêu
lối nào cũng đẹp rất nhiều lứa đôi
trong veo là nắng với trời
ngổn ngang thân mến là người với nhau.
Chiều đang sâu đắm một màu
tự dưng lộp độp ngang đầu - ồ mưa!
mưa rào giữa nắng hay chưa
hạt mưa ném thẳng có chừa ai đâu
vội vàng ta nấp vào nhau
mái đầu che lấp mái đầu thoảng hương
Em đừng trách nhé, em thương
nào ai biết được giữa đường gặp mưa!
tiếng em như tiếng gió lùa
Thôi đừng nói giọng người xưa, buồn cười ...
Từ môi mưa giọt xuống môi
nhấm chung một hạt mưa rơi mặn mà
áo em ướt lẫn vào da
tóc lẫn vào gió - gió là sợi tơ
mắt em trong đến ngây thơ
trong như nắng giữa mịt mờ mưa giăng...
Nguyễn Duy
Đôi Chim Của Mẹ
Viết tặng Mẹ, cho ngày lễ của Mẹ
Trong nhà không ai biết mẹ yêu thích thú vật cho đến ngày mẹ từ nhà thương về sau mấy tuần lễ nằm bệnh viện. Mùa thu đến sớm, trời mát mẻ dễ chịu và sức khoẻ mẹ cũng đã bình phục, mẹ ngỏ ý muốn đi chơi một vòng quanh thành phố ngắm cảnh ngoài trời. Tôi đề nghị đưa mẹ đi chợ trời, khu buôn bán ồn ào của người Mễ ở ngoại ô để mẹ khuây khỏa sau những ngày đau bệnh. Mẹ bằng lòng. Vả lại mẹ có vẻ thích cảnh ồn ào ở một xóm chợ hơn là thắng cảnh tịch lặng, đầu óc bà đơn sơ, những nơi hoang vắng quá là mẹ buồn và cô độc. Không khí ở xóm chợ nhắc nhở bà những năm tháng buôn bán tảo tần ở quê lúc xưa, những ngày cực nhọc nuôi gia đình những năm còn ở bên nhấ Chắc mẹ sẽ thích và thấy gần gũi với cảnh chợ.
Ði ngang qua một gian hàng thú vật trong nhà, mẹ bị thu hút bởi những con thú buồn bã nằm trong xó chuồng. Mẹ chép miệng, "Tội nghiệp, có ai chăm sóc cho chúng nó ăn uống, có ai rước lũ này về nhà không nhỉ?". Rồi mẹ đến bên một lồng chim lớn có cả hàng trăm con đủ mầu giống như chim két bay tán loạn vì có người đến gần. Mẹ chỉ một con xanh lam đứng ủ rũ trong góc, khen con này đẹp. Bầy chim trong lồng con nào trông cũng giống nhau, chỉ khác có mầu bộ cánh, đậm hay lợt hơn chút đỉnh. Tôi chỉ một con đang bay tíu tít, có bộ lông giống mầu con của me. Hai con này chắc là họ hàng, tôi nói với mễ Mẹ bảo con nhảy nhót kia mảnh khảnh hơn, có lẽ là con mái. Mẹ tôi nhất định mua cặp chim cùng mầu ấy, thêm một cái lồng nhỏ gọn xinh xắn cho cặp "vợ chồng" mẹ vừa xe duyên để làm tổ ấm. Vì tính chu đáo, mẹ không quên mua dự trữ một tá những bao hạt thóc thức ăn cho cặp chim may mắn được chiếu cố này. Mẹ vẫn chu đáo thế, mẹ lo xa cho bất cứ sinh vật nào trong tay bà chăm sóc, mẹ chỉ sợ chúng thiếu thốn bị đói hay đau ốm bệnh tật. Lúc nào mẹ cũng lo sợ không có lương thực để ăn, những năm đói kém xưa có lẽ vẫn còn ám ảnh đầu óc thực tế mộc mạc của mẹ.
Cặp chim làm mẹ vui và bận rộn hơn. Cả ngày bà loay hoay dọn dẹp trong nhà, không lúc nào ngơi tay. Người đàn bà Việt Nam tiêu biểu chẳng bao giờ chịu ngồi yên uổng phí một phút nào. Mẹ thuộc mẫu người thích hoạt động, lúc nào mẹ cũng tìm một công việc gì để làm. Lồng chim được treo sau hè, dưới giàn mướp hương có nhiều bóng rợp. Mẹ bảo để cho chúng nó trông nhà, ngắm trời đất cảnh vật chút, chim đã bị tù túng trong lồng lại còn bị nhốt trong xó nhà, tội chết. Biết đâu chim không nghĩ như mẹ tôi, có thể chúng buồn hơn khi nhìn ngắm bầu trời trong xanh ở ngoài trời, mà tủi thân vì bị tù hãm trong lồng sắt nhỏ hẹp.
Mẹ chăm sóc đôi chim cẩn thận chu đáo. Mẹ treo hai cái máng nhỏ tự tay làm lấy bằng hộp thiếc đựng hạt ngũ cốc và nước uống cho chim. Một tuần sau, cặp chim đã quen với lồng mới, với khung trời nhỏ hẹp sau hè và bóng dáng ra vào của mẹ mỗi ngày. Chúng bắt đầu nhảy nhót tíu tít trong lồng, trỗi giọng hót lảnh lót từng hồi. Một buổi chiều dịu nắng, tôi đứng thẩn thơ ngoài vườn hóng mát. Có tiếng chim hót êm tai đâu đây, tôi nhìn quanh tìm kiếm. Mẹ đang tưới cây ở một góc vườn, chỉ cặp chim trong lồng như bảo đích thị là chúng. Tôi reo lên mừng rỡ:
"Chim của mình biết hót hở mẹ? Sao bây giờ mới nghe nó hót?"
"Chuyện, chim nào chả biết hót, trừ khi nó câm hay mắc bệnh. Hôm mới về còn lạ nhà đấy. Nó hát hỏng suốt ngày làm thày mày nhức đầu không ngủ trưa được."
Buổi chiều êm dịu mà nghe tiếng chim hót líu lo, đời cũng dễ thương. Tôi đến bên lồng chim chọc ghẹo làm chúng sợ hãi nhảy lên tán loạn, mắt tròn xoe ngơ ngác nhìn, kêu một cách hoảng hốt. Mẹ dặn đừng ghẹo chim, nó sẽ sinh bệnh vì sợ. Muốn đến gần phải huýt gió nhè nhẹ, dần rồi nó mới quen với tiếng gọi, vậy chứ lũ chim này nhút nhát lắm, tại chúng bị nhốt ở trong lồng từ bé. Chim không hề biết đến bầu trời. Tôi ngạc nhiên về sự hiểu biết tinh tế của mẹ. Mẹ có vẻ kinh nghiệm, hiểu rành "tâm lý" của đám chim chóc. Tôi thắc mắc hỏi mẹ:
"Hồi nhỏ mẹ có nuôi chim bao giờ không?"
"Không. Ông bà bắt làm cả ngày, thì giờ đâu mà nuôi chim. Ờ mẹ có hay lẻn đi bắn ná chim với cậu Ất thì có."
"Mẹ biết bắn ná chim? Sao mẹ chơi trò chơi của con trai?"
Mẹ cười.
"Ừ, hồi xưa cậu Ất còn bẫy cả chim sẻ, bẫy được nhiều lắm, đem về nhổ lông nướng trui. Cậu cho mẹ đi chung, rồi nướng chim cho mẹ ăn. Ông bà biết được hai chị em ăn đò nhừ tử."
Tôi bật cười vì hình ảnh mẹ vừa tả:
"Cậu thì bỏ học đi chơi, còn mẹ thì trốn việc. Hai chị em bị ăn đòn vui quá nhỉ."
Mẹ cười hiền lành. Cậu Ất là con út trong gia đình bên ngoại. Là con trai độc nhất, lại thông minh nên cậu được ông bà cưng chiều cho ăn học. Có điều, giòng họ ngoại tôi hiếm muộn con trai, cậu tôi yểu mệnh chết năm mới mười lăm tuổi. Ông bà tôi buồn lắm, nhưng nghĩ trời không cho giữ mà đòi lại, biết làm sao hơn. Giòng họ bên ngoại tôi tuyệt tự, lại thêm dì tôi ốm yếu không thể lấy chồng. Nỗi buồn bên họ ngoại tôi lại càng sâu đậm thêm.
Mẹ kế út, đáng lẽ không còn cậu Ất phải được cưng chiều như con út, nhưng những năm ấy gia đình ngoại nghèo quá nên mẹ càng phải làm việc vất vả nhiều hơn. Dường như đàn ông bên họ ngoại tôi không có số thọ. Ông tôi mất khi tuổi còn trẻ, để lại bà tôi với những người con gái đương thì đến tuổi lấy chồng, và một người con gái ốm yếu không thể lấy chồng. Có nhiều đám đến xem mắt đám con gái của bà tôi. Trong nhà xôn xao nô nức hẳn lên. Dì lặng lẽ lánh vào một căn buồng nhiều bóng tối. Mẹ thương chị, trốn vào buồng chia sẻ. Dì tôi thường ngồi lần những tràng hạt bằng gỗ hoa hồng, tay ôm bức ảnh Ðức-Mẹ-Hằng-Cứu-Giúp một cách thành kính. Dì hiền lành, tính tình nhu mì như một vị ẩn thánh, không bao giờ làm mất lòng ai hay tranh giành gây gỗ với chị em. Dì an phận ở lại với bà tôi, cô đơn nhìn từng người con gái trong nhà ra đi với cuộc sống riêng rẻ. Mẹ lấy cha tôi người cùng làng nên có dịp ở gần về thăm mẹ và chị thường. Mỗi lần đi ngang qua căn nhà của thời con gái, mẹ nhìn thấy bà tôi ngồi khâu áo ở hiên nhà. Dì tôi cắm cúi quét đám lá úa trước hè, dáng ốm yếu mỏng manh in trên trời chiều hiu hắt những cơn gió lạnh. Dì vẫn ngoan đạo, vẫn trung thành với đức tin. Dì yên phận sống lẻ loi bên cạnh bà tôi, như một chiếc bóng nấp vào một chiếc bóng. Hai chiếc bóng cô đơn quyện vào nhau mà sống. Chiếc bóng già rồi một hôm cũng ra đi, ít lâu sau ngày cha mẹ tôi di cư vào miền nam. Chiếc bóng nhỏ gầy yếu của dì tôi còn lại thui thủi sống nơi miền bắc xa xôi một mình.
Biến cố thi nhau đổ xuống gia đình tôi sau ngày vào nam. Những cái tang trong gia đình, và những cuộc chia ly đứt đoạn. Tôi ra đời ở miền nam trong những năm chiến tranh sôi nổi giữa hai miền. Quê hương đất bắc của cha mẹ tôi được vẽ lại bằng những hình ảnh u buồn, trong nỗi nhớ thương của cha mẹ, và trong sự tưởng tượng non nớt của tôi. Ngày còn nhỏ, mỗi tối nằm ngủ cạnh mẹ, tôi vẫn thường nghe bà thì thầm đọc kinh và gọi tên dì tôi một cách tha thiết. "Mai ơi, Mai ơi, bây giờ chị có khỏe mạnh bình yên? Xin Chúa thương lấy chị tôi..." Rồi mẹ ôm lấy tôi xiết chặt vào lòng. Lòng tôi dâng đầy, nước mắt tự dưng trực trào ra mặc dầu tôi chưa từng biết mặt dì tôi như thế nào. Dường như định mệnh xếp đặt phải có một người con trong mỗi gia đình phải chịu lấy một số phận kém may mắn hơn. Tôi được là con út may mắn, và là kẻ được chọn làm người gánh lấy sự bất hạnh cho gia đình. Làm sao tôi quên được nét đau đớn của mẹ, vẻ mặt Mẹ, khi mẹ bật khóc lúc bác sĩ nhìn tôi lắc đầu, trễ mất rồi, thật đáng tiếc, cháu bé phải chịu tật nguyền mất thôi. Mẹ ôm tôi khóc, con tội tình gì hở con?
Những buổi tối, tôi vẫn nằm trong lòng mẹ nghe bà thì thầm đọc kinh cầu nguyện. Vẫn những lời cầu xin cho dì tôi, giờ có thêm tôi trong danh sách dài những lời khẩn cầu của mễ Bàn tay mẹ chai cứng vì làm việc nhiều, mẹ lần xoa nắn chân tôi mềm oặt và lạnh ngắt. Tôi cảm thấy có nước mắt của bà nhỏ ướt trên tóc. Mẹ khóc nhiều sau ngày bác sĩ bó tay đành chịu không thể làm cho đôi chân tôi cứng cáp như cũ. Tôi thì chỉ buồn cạn trong lòng, bởi vì tôi không biết lấy đâu ra nước mắt. Ðã có nước mắt của mẹ chan hòa mỗi đêm. Ngày ấy tôi vẫn còn ngây thơ vô tư quá, tôi chưa thể hiểu được nỗi bất hạnh của cuộc đời mình về sau, mẹ hiểu rõ hơn, vì đôi mắt của mẹ có thể nhìn thấu đến tương lai.
oOo
Ðôi chim đã khá quen với góc vườn và khung lồng quen thuộc. Chúng nhảy nhót líu lo hót nhiều hơn trước. Cha tôi nhức đầu vì những tiếng nỉ non tình tự của cặp chim hạnh phúc này. Mẹ vui và hãnh diện lắm. Tiếng hót vang động ấm hẳn một góc vườn. Cặp chim vui vẻ no ấm là nhờ bàn tay chăm sóc của me. Mỗi chiều, mẹ đổ thêm nước và hạt mè cho chim. Nhìn cảnh đôi chim rù rì âu yếm cạnh nhau, chim mái rúc mỏ vào gáy chim trống, mắt long lanh của kẻ hạnh phúc làm vui lây những người chung quanh. Mẹ treo một cái gương nhỏ trong lồng để cho con mái soi gương làm dáng. Mẹ lại treo thêm một cái vòng nhỏ để chim đánh đu, chiếc vòng bằng gỗ mẹ lấy từ một ngăn hộp cũ. Cặp chim có đủ tiện nghi và tình thương của mẹ, chúng càng ca hát khoẻ. Mẹ bảo nếu để ý thật kỹ, chim có giọng hót hơi khác nhau. Chim mái giọng cao lảnh lót, con trống giọng trầm nghe như có vương chút gì thê lương buồn bã. Nhìn những sinh vật yêu đời đó, ai mà không thèm khát được sống, mẹ bảo vậy.
Cho đến một hôm, tôi bắt gặp mẹ la hoảng hốt khi khám phá tự dưng một con chim chết. Ít khi nào thấy mẹ hoảng hốt cuống quít như thế. Tính mẹ trầm, ôn hòa và bình tĩnh. Cái chết của con chim trống làm mẹ buồn như một người thân vừa ra khỏi cuộc đời. Cha bảo có lẽ con chim trống bị cảm lạnh vì cơn gió mùa đông vừa đổ về, mấy hôm nay nó đứng ủ rũ, biếng ăn và lười nhảy nhót. Mẹ thương tiếc con trống, tội nghiệp cho con mái lẻ loi trong lồng. Vòng đu đứng yên một chỗ. Hai máng đồ ăn và nước uống vẫn còn đầy nguyên. Chiếc gương nhỏ lặng lẽ soi bóng một mình. Không còn những tiếng ríu rít của đôi chim hạnh phúc. Góc hè sau nhà im lặng. Những chiếc lá mướp héo quắt, khô khốc cuộn mình trên giàn cây xơ xác. Mảnh trời sau nhà cũng đứng yên im lặng. Trời thì xanh thẳm, không một gợn mây chuyển động. Không khí im ắng và nặng nề. Mẹ vẫn lặng lẽ ngồi may vá ở ngoài hiên, nhưng không khí không còn như xưa, dường như có sự gì mất mát thiếu vắng quanh đây.
Một lần mẹ thổ lộ: dường như phái nam không được thịnh trong giòng họ ngoại, con chim trống mẹ nuôi bỗng dưng lăn ra chết. Bên ngoại tôi đàn ông bao giờ cũng yểu số, con chim trống cũng được nhập vào phái nam bên ngoại. Có thể mẹ buồn không kém con chim mái lẻ loi trong lồng. Nỗi buồn sâu lắng bên họ ngoại lại được dịp tái phát. Nỗi buồn của người ở lại hiu hắt hơn nỗi buồn của kẻ ra đi (kẻ đi rồi, không hiểu có buồn hay không?).
Bây giờ thì tôi đã lớn, tôi không còn nằm trong lòng mẹ để nghe những tiếng thì thầm đọc kinh mỗi tối, để nghe tiếng thì thào gọi dì mỗi đêm. Nhưng nếu có còn được nằm ngủ cạnh mẹ, những tiếng gọi "Mai ơi, Mai ơi chị có được khoẻ không...?" chắc cũng không còn được nhắc đến nữa. Tin một người từ miền Bắc nhắn, bà Mai chết một mình trong căn nhà hương khói. Lúc chết, bà cầm trong tay bức hình chụp cả gia đình và mẫu ảnh thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng, vị thánh bổn mạng của bấ Tôi nghĩ mưa hoa hồng thiêng liêng có lẽ rơi trên mộ phần lạnh lẽo của dì tôi, những đoá hoa cầu nguyện lần bằng tràng hạt gỗ hoa hồng từ ngày dì còn nhỏ, và có rất nhiều những cơn mưa nước mắt của mẹ tôi đổ xuống trên mộ phần của dì nữa.
oOo
Hôm ấy tình cờ đi mua sắm trong thương xá ngang qua một tiệm bán thú vật nuôi trong nhà, tôi chợt để ý một cặp chim giống như cặp chim của mẹ đang nhảy tíu tít trong lồng. Hỏi người bán hàng về đặc tính của giống chim, tôi mới biết giống chim này nhiều cảm tính và rất khó nuôi. Tôi hỏi mua con trống, có bộ lông phớt một chút mầu hồng trên cánh. Người bán hàng ngạc nhiên hỏi sao lại mua có một con trống, chim thường đi có cặp mà. Tôi nói mua bạn cho con chim mái ở nhà, con chim góa bụa đã mấy tháng nay, nó buồn thiếu bạn nên không thèm hót nữa. Người đàn bà bán hàng cười giả lả, phải rồi, giống chim này nhiều tình cảm lắm, chúng không chịu được sự cô độc. Nên mua bạn cho nó là đúng. Cũng nên mua thêm thuốc "stress relief" này nữa. Nhỏ vài giọt thuốc vào nước uống cho nó, nếu không nó sẽ bị bệnh buồn sầu mà chết. Vậy ra chim cũng đa cảm như người, tôi nghĩ thầm. Nghe lời mua thêm thuốc trị buồn rầu cho chim, tôi nghĩ không biết thuốc có trị được bệnh buồn rầu của người. Lúc người đàn bà thò tay vào lồng bắt chim, tôi ái ngại hỏi con chim mái còn lại thì sao. Người đàn bà nói ồ không sao, tôi lấy con trống khác bỏ vào lồng bây gi Mua xong, lúc ra xe tôi mới nhớ quên không hỏi giống chim này tên gọi là gì.
Mua được "chồng" cho chim ở nhà, tôi thấy lòng nhẹ nhõm. Mẹ có lẽ là người vui hơn hết. Ðã mấy tháng nay, mẹ buồn vì vắng tiếng chim hót sau hế Lạ lùng, con chim mái nhất định không chịu "chồng" mới của nô Cặp chim cắn nhau loạn xẫ Những tiếng kêu chí choé cãi nhau, không phải là tiếng hót trầm bổng nhịp nhàng như cặp chim hạnh phúc xưa kia. Con mái bắt nạt con trống mới vào lồng. Nó tấn công mổ liên hồi vào cổ con chim trống, kêu những tiếng thất thanh như chống cự báo động kẻ vũ phu làm điều xằng bậy. Con trống cũng chẳng vừa, nhảy tíu tít mổ trả, lông cánh bay tán loạn. Ðầu con trống bị mổ rướm máu tơi bời. Nguy hiểm tới nơi. Tôi năn nỉ mẹ cho chúng uống thứ thuốc trị khủng hoảng tinh thần mà tôi đã mua. Mẹ gạt đi, nói không cần thuốc thang gì cả. Ít lâu rồi chúng cũng phải "hạp" nhau. Ðúng như lời mẹ nói, tuần sau cặp chim đã bớt không còn gây gỗ. Nhưng trông chúng không được nồng nàn thân mật như cặp chim trước. Mẹ tôi huýt gió nhè nhẹ, tập cho chúng hót trở lại. Con chim cái giương mắt nhìn mẹ tôi ngơ ngác, như chưa từng nghe những âm thanh xa lạ ấy bao gi Nó vẫn đứng một mình nơi góc, mặc con trống vô tư đang đánh đu tít trên vòng.
Một buổi sáng, có tiếng chim hót ngập ngừng đứt quãng sau hiên nhấ Tôi chạy ra xem, báo động. "Mẹ ơi, chim biết hót lại rồi." Mẹ nói ừ, con mái đã bắt đầu hót trở lại. Con trống cũng bắt chước hót theo. Ðôi chim hót từng chập, như dò chừng sự hưởng ứng chung quanh. Giọng hót có vẻ không được hòa nhịp lắm. Tôi cảm thấy như có gì ngượng ngập miễn cưỡng. Như một sự cố gắng làm vui lòng mễ Tuy vậy, tiếng chim hót làm mẹ vui trở lại, như thể hạnh phúc của chim chính là hạnh phúc của bà. Không hiểu mẹ tôi có phải cầm cung "bà nguyệt" chuyên xe duyên cho chim chóc, hay vì nỗi buồn tiền kiếp của bên ngoại khiến mẹ không đành lòng nhìn những cảnh cô độc đơn chiếc.
oOo
Khi chim bắt đầu hót trở lại, tôi cũng bắt đầu những trang nhật ký dài lẩm cẩm ngây ngô như một đứa trẻ. Tôi viết cho tôi, viết cho dì Mai, vì tôi hiểu ở một nơi nào đó gọi là thiên đường dì có thể nhìn thấy đời sống của chúng tôi. Trong những trang nhật ký, có tiếng chim hót líu lo và nỗi buồn chung mẫu số của những người đàn bà bên họ ngoại. Có khoảng trời xanh yên lặng chứa đựng những ước mơ ngây ngô của tôi. Và còn gì nữa trong những trang lẩn thẩn ấy, chỉ là những tâm sự chôn kín của người có nhiều điều để bày tỏ mà chẳng bày tỏ được gì. Tôi bỗng chợt ao ước được như ngày còn nhỏ rúc người vào lòng mẹ mà nghe bà thì thầm đọc kinh trong bóng tối, nghe bà cầu nguyện cả tràng dài cho những người thân yêu được bình yên. "Mai ơi, Mai ơi, dì có được khỏe mạnh bình an trên thiên đàng xin phù hộ cho gia đình ..."
Hạnh phúc gượng gạo của đôi chim cũng không được bền lâu. Con trống bỗng dưng lăn chết, dường như nó lại bị lạnh sưng phổi, cha bảo vậy. Mẹ chôn nó ngay dưới gốc cây mướp, bọc xác trong một túi nylon gói ghém cẩn thận. Con mái đứng lặng lẽ ủ rũ trong một góc lồng đôi mắt xa vắng nhìn vào khoảng không tìm kiếm. Cha bảo con chim mái này có tướng sát phu, thôi cho nó ở vậy từ nay, đừng mua bạn cho nó nữa. Mẹ lặng thinh không nói cắm cúi quét đám lá khô ngoài sân thành một cụm nhồ Trời sắp sửa đổ một cơn mưa lớn, đám mây đen nặng nề sà xuống, như chực phủ chụp lên đầu.
oOo
Tôi cắm cúi viết những giòng chữ bức thư gửi dì Mai.
"Dì Mai, ở ngoài trời đang trở lạnh, lạnh thấm vào cả trang vở con đang viết. Hôm qua lúc mẹ vừa chôn con chim trống xong thì trời đổ cơn mưa dữ dội. Ðám lá khô mẹ quét gọn bay tan tác ướt sũng trong vũng nước mưa, uổng công mẹ thu dọn. Nước nhiều quá không thấm kịp xuống lòng đất, nước nhiều như thể nước mắt ứa ra từ những khe thác nỗi buồn. Mưa nức nở cho đến chiều tối thì ngớt. Mẹ im lìm ít nói từ chiều, lặng lẽ đem lồng chim vào trong nhà lấy tấm khăn phủ trùm lên cho chim bớt sợ. Con chim mất chồng im lặng đứng chịu tang. Không khí trong nhà như chìm đọng hẳn lại. Tối qua ngủ con mơ một giấc mơ thật lạ. Con thấy mình ngồi trên một chỏm đá cheo leo, nơi một mỏm đất trông ra mặt biển. Dưới chân là đá lởm chởm và sóng đánh vào những ghềnh đá dữ dội, nước biển mặn như nước mắt văng tung toé lên cả người con. Cơn mưa lúc đi ngủ có lẽ theo vào vô thức, rồi đi vào cơn mơ, hình ảnh những con sóng ì ầm đập vào ghềnh đá cũng tàn bạo như cơn mưa có chớp nổ lúc chiều. Trong cơn mơ, con thấy mình vẫn ngồi tự tại ở giữa khung cảnh hoang vắng đó, mặc những sóng gió ngoài khơi và những đầu sóng dữ dội dưới chân, như những cánh tay chực với lên kéo con xuống biển. Tại sao con lại có thể bình thản giữa một khung cảnh trơ trọi hãi hùng như thế được. Con không hiểu dì ơi, bản chất con thường vẫn sợ nước. Hình ảnh trong giấc mơ có lẽ là cuộc đời. Biển là biểu tượng của đời sống, những con sóng tượng trưng cho nỗi đau khổ và sự thăng hoa của hạnh phúc. Tất cả vỡ tan như những bọt sóng bị đánh dạt vào b Chỉ là những bọt nước xoắy mòn từng chân đâ Không hiểu con có phải là những chân đá, và liệu có vững mạnh như chân đá, hay rồi cũng bị sóng cuốn đi...
Sáng nay, mẹ quyết định thả con chim mái. Lúc mẹ mở chuồng thò tay vào trong lồng, nó kêu lên tiếng kêu hoảng hốt, nhìn mẹ với cặp mắt van xin. Mẹ cầm nó trên tay mang ra khỏi lồng. Nó vẫn đứng yên trong lòng bàn tay mẹ, như không muốn bay đi. Mẹ đặt nó dưới đất, nó nhảy được một khúc ngắn, đứng lại nhìn dáo dác và kêu những tiếng chiêm chíp yếu ớt. Chim bay được một khoảng ngắn, rồi ngừng lại ngơ ngác. Dường như đây là lần đâù tiên nó bay ngoài trời. Ðôi cánh chưa quen với không gian, bơ vơ giữa trời đất. Con thấy lo sợ cho nó, rồi chim sẽ đi về đâu. Thả chim về rừng xong, mẹ tiếp tục lui cui quét dọn. Chim mang đi niềm vui của mẹ, chim mang đi một phần hồn của con. Con phụ mẹ rửa dọn lồng chim rồi đem cất vào gác xép. Tự dưng con cảm thấy rõ ràng sự mất mát trống rỗng của đời sống. Có điều gì vô cùng thiếu sót quanh đây. Và dì ơi, con chợt cảm thấy một điều, mỗi sinh vật trên cuộc đời là một hiện thân của sự cô đơn, là kẻ chung thân với nỗi đau buồn trong chính thân xác của mình. Con quyết định sẽ không bao giờ nuôi chim, sẽ không bao giờ làm kẻ xe duyên cho những đôi chim như mẹ. Bởi lẽ con không phải là người có khả năng đem hạnh phúc đến cho người khác, hay cho một sinh vật nào. Là một thứ cây ẩn mình trong khu rừng già quạnh hiu, không đơm hoa kết trái. Con cũng thôi không mơ được làm mây, bởi vì mây bay lên trời cao rồi cũng sẽ tan đi mất. Chỉ xin được làm nguồn yêu thương của mễ Tâm hồn mẹ luôn khao khát tình yêu, mẹ chỉ mong đem hạnh phúc đến cho những kẻ thân yêu, mẹ không đành lòng nhìn kẻ khác đau khổ. Tội nghiệp mẹ, hẳn mẹ vẫn còn buồn vì chim con của mẹ chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc. Mẹ vẫn trông chờ được nghe tiếng chim hát trong rừng già u tịch, dù là một lần từ đêm vắng vọng về."
Phạm Chi Lan
(10.1990, viết sau ngày mẹ bệnh)
Như Khói Lam Buồn
Khi hai cô và ba tôi phân chia đi tứ tán, lúc bấy giờ chỉ còn có chú năm tôi ở lại nhà, chú Năm Nhẫn, ông nội bù đấp cho chú mọi mặt. Tuy nhiên, khi học xong bậc tiểu học, chú lại không muốn học lên, sống xa nhà như ba tôi. Thời gian trôi qua, đến khi chú được hai mươi tuổi, chú có ý định muốn lập gia đình. Ông bà cố, ông nội đã đi coi mắt và lo vợ cho chú nên bề gia thất. Bên vợ chú có tất cả sáu chị em gái, mà vợ chú là đứa con gái út, nên chú phải ở rể. Nội phải mua thêm ruộng, chia phần cho chú để làm của hồi môn. Như vậy, kể ra chú cũng được yên thân, yên phận và ông bà cố và nội đã hết lòng san sẻ cho chú thật đầy đủ, đậm đà.
Ban đầu, hai cô tôi đều được gả về miệt vườn. Cô Hai Khanh may mắn gặp gia đình cũng khá giả ở Giao Long vì chồng cô là con của ông Cả Ðệ. Sau đó không lâu, thì cô Ba Mụi lấy chồng ở làng Phú Vang, gần Bình Ðại. Nhưng dượng Ba tôi gốc lính kín trong thời Pháp thuộc, nên hai vợ chồng cô chỉ về đó ít lâu, rồi vọt lên Sài gòn sinh sống khi dưới quê bắt đầu động. Có lần tôi hỏi hai cô:
- Không biết tại sao hồi xưa ông nội lại đặt tên cho hai cô với ba con là Khanh, Mụi, Lòng hâ Con nghe có cái gì não nùng, ai oán quá và chắc vì vậy mà hai cô và ba con phải sống mồ côi, mồ cút, phải không cô?
Hai bà cô tôi cười ngất! Nhưng, bất chợt, cô Hai tôi dịu giọng xuống:
- Con chẳng hiểu vì sao à? Chỉ tại vì ngày xưa nội cũng như dân quê sống trong thôn xóm xa xôi hẻo lánh thường hay mê coi hát bội. Họ hay đặt tên cho con cái tùy theo những cảm xúc qua các tuồng tích. Có lẽ ông nội con đã mũi lòng khi thấy khanh lìa xa trẫm hay sao không biết!
Ðôi lúc tôi nghĩ rằng tên tuổi con người ta thiệt ra cũng quan trọng và ảnh hưởng trong cuộc đời không ít, vậy mà sao dân quê sống nơi ruộng đồng thôn dã lại chẳng ai chịu ngó ngàng tới mới kỳ!
Lúc Việt Minh nổi dậy, dượng Hai tôi đã nghe theo tiếng gọi của sông núi, đã gia nhập kháng chiến để chống lại thực dân. Ngôi nhà lớn của gia đình dượng, ngôi nhà phông-tô nền đúc, cột cam xe bị đốt cháy tan hoang. Ông Cả Ðệ, ba của dượng, vì mê đào hát đã không ngần ngại bỏ hết tài sản lẫn vợ con để chạy theo cô đào chánh một thời gian. Nghe đâu về sau ổng và cô đào chánh đó đã bỏ tiền ra lập gánh riêng. Bởi vậy ở thời kỳ này cô Hai tôi phải một lòng phụng dưỡng bà mẹ chồng trong cảnh "mẹ góa con côi" vì sự ra đi không hẹn ngày trở lại của hai đức ông chồng. Vì không muốn mình là gánh nặng cho con dâu và đám cháu nội, đồng thời cũng muốn tránh tiếng đời dị nghị, độ ít lâu sau bà Cả Ðệ bỏ sang Vĩnh Long sống tạm với người con trai thứ tư. Ðược tin đó nội vội vã thu dọn việc nhà đến rước cô Hai cùng các anh chị tôi trở về quê ngoại.
Bên ngoài, nền nhà nội cẩn đá ong xung quanh, màu đá đỏ đậm, mái lợp ngói âm dương, sàn nhà lót gạch tàu. Bên trong, nhà có ba gian hai chái rất rộng rãi. Ở phía trước gian nhà trên nội để hai khuôn thọ dưỡng già cho ông bà cố. Ở phía sau nội ngăn một căn phòng thiệt rộng có cửa buồng dùng để chứa những bồ lúa, nếp thật đầy cao gần đụng tới nóc nhà. Tiếp theo gian nhà giữa rất khang trang, nội có chưng nhiều tấm liễn dài treo theo chiều cột nhà và mấy tấm ngắn treo theo chiều ngang của cây xiên nhà. Tất cả đều đưọc sơn son thếp vàng sáng chói lọi. Ngay chính giữa nhà nội cho kê một bộ ghế trường kỹ có cẩn ốc xa cừ lấp lánh. Hai bên có hai bộ ván gõ thiệt chiến, đen mun. Ở phía sau bộ ghế trường kỹ có bức màn xanh lợt, sâu vào trong, nội thờ Thiên Nhãn của đạo Cao Ðài, bên cạnh còn có bàn thờ Quan Công. Ðối diện hai bên trái và phải là bàn thờ của ông bà sơ. Gian thứ ba có hai bộ ván gõ trước vách ngăn buồng gói, một bàn tròn với ghế nước cẩn xa cừ có kiếng thủy và móc máng khăn.
Tiếp theo là căn nhà cầu nối sang nhà bếp. Nhà bếp cũng có ba gian chứa những vật dụng xay lúa giả gạo bằng tay; cối chày quết bánh phồng nếp, bánh phồng mì; gióng, giỏ tre, đòn gánh để gánh dừa; cùng những thứ cày, bừa, trục để làm ruộng. Rồi mới tới nhà vựa củi, lá dừa, miểng gáo.
Trong căn nhà vỏ này, nội thường chừa một khoảng trống để nuôi gà nòi. Nội chỉ thích nuôi gà nòi để bán chớ không phải để đá độ. Thỉnh thoảng năm khi mười họa nội mới đi đá độ một lần. Còn chuyên môn của nội là gây giống gà tốt, loại lông màu ngũ sắc, đen đỏ (gà điều), hoặc vàng vàng hay pha lẫn (gà chuối). Hằng ngày nội chăm sóc, phun nước, thoa nghệ cho gà rất thận trọng, kỹ lưỡng. Tới mùa gần Tết, mấy ông nhà nghề đá độ đều đến nhà nội để coi mắt và đặt mua gà rất rộn rịp.
Dạo đó các anh chị con của cô Hai và cô Ba tôi đều nhờ được cả. Bên cô Hai thì có anh Hai Biên lớn nhứt, kế đến chị Hồng Oanh, rồi anh Tư Hoàng và chị Phượng Vân. Còn bên cô Ba thì có anh Hai On, chị Thu Ba, anh Tư Phúc và chị Năm Nương cùng tuổi với tôi. Ðặc biệt anh Tư Phúc thích sống ở quê ngoại hơn là quê nội. Còn ba má tôi có anh Tấn mất hồi còn nhỏ, kế đến chị Hồng Hoa và tôi. Với phong tục tập quán miền quê đương thời, tất cả ông bà, cha mẹ, cháu chắt, chít... cùng nhau sống chung một nhà, tình gia đình kể ra lắm lúc sao mà hạnh phúc, ấm cúng.
Mấy anh chị chúng tôi, cô cậu cũng như bạn dì, đều đi học ở trường làng An Hóa, lúc đó tôi mới vào lớp đồng ấu, tương đương với mẫu giáo bây giờ. Mỗi sáng ai nấy cùng nhau tốc dậy một lượt, ăn lót lòng với cháu gạo nhum màu tím thẫm nấu với nước cốt dừa, đệm thêm tép trứng chấy và củ cải trắng ngâm nước tương. Cũng có khi ăn cơm thay đổi tùy theo má và cô Hai tôi chế biến. Cô Ba tôi dạo ấy đã theo chồng lên Sài Gòn, nhưng anh Tư Phúc không chịu đi theo.
Tuy còn nhỏ nhưng mấy anh trai đều có trách nhiệm, bổn phận nặng nhọc hơn trong công việc đồng áng kể cả đấp bờ, tát nước. Tới mùa giựt dừa các anh cũng phải đóng góp một tay vào việc đập dừa, phơi hoặc sấy dừa, và chở dừa đem đi cân ở tiệm chú Cáo trên chợ làng. Việc cạy cơm dừa thì thường thường phải mướn thêm những cô gái khác quanh vùng.
Về phần mấy chị em gái thì tội nghiệp chị Hồng Oanh, vì lớn hơn nên chị phải giúp đỡ nhiều công việc trong nhà, bếp núc, dọn dẹp sau khi đi học về. Chiều chiều chị hay đi lên giồng hốt cát về đổ vào nồi gan để nướng bánh thững cho ông cố ăn, uống trà ban đêm. Chị Phượng Vân, chị Hồng Hoa và tôi thì chỉ giúp những việc lặt vặt khác như lau chùi bàn ghế, xách nước, cho gà vịt ăn. Mỗi sáng dậy sớm chia nhau quét lá trước sân vì có nhiều lá rụng qua đêm. Cuối tuần thì đi róc củi, quơ lá dừa đem về để bó lại chứa vào vựa. Thỉnh thoảng cũng có đi đốn chuối, bẻ cau để sau này tôi trở thành một tay thiện nghệ leo trèo hái trái cây.
Chuyện miền quê thì lúc nào cũng bận bịu, không phút rỗi rảnh. Mùa mưa hay những lúc nước rong các anh thích đi soi cá, bắt ếch, đặt bung, đặt thời. Trong nhà thường khi tôm cá đầy khạp khỏi phải đi chợ. Rau cải thì vườn của nội lúc nào cũng có rau tươi. Bù ngót, cải trời, rau choại, rau ráng, rau dền, mồng tơi, bạc hà, rau đắng đất, hành, sả, gừng đều có quanh năm. Mấy líp gừng, bạc hà đều được nội rải trấu dưới gốc cho củ nó tốt. Nhưng trồng rau thơm thì nội làm một cái giàn hình chữ nhựt có bốn chân cao khỏi mặt đất độ nửa thước. Trên giàn nội chia ra làm từng khu, mỗi khu trồng một loại, gồm có: húng cây, húng lủi, rau om, tần dầy lá, ngò gai, quế, giấp cá, cần tàu, cải rổ và xà lách. Lúc nào cũng non mướt, vì nội trồng bằng phân trâu trộn với rơm mục. Còn hư muốn ăn nấm rơm thì nội nuôi từ hai cây rơm lớn, được gom lại chất cao khỏi nóc chuồng trâu bên bờ kinh An Hóa. Cứ vài ba hôm nội đi ruộng sớm về là mang theo một xách tay đầy nắm rơm còn búp. Tôi thích nhất là nấu canh với bù ngót, mướp hương thì thật ngọt nước và ăn nó lại mát trong người.
Ngoài ra nội trồng thêm thuốc lá và bắp, có hai thứ trắng và tím. Bắp nếp trắng dẻo thơm, còn bắp tím gọi là bắp Ban-mê-Thuộc, trông đẹp mắt nhưng ăn không ngon bằng bắp trắng. Rồi nội còn trồng khoai mỡ, khoai môn, khoai từ, khoai mì, và... khoai tây. Ðặc biệt loại khoai tây giây chớ không phải bụi, lá lớn như lá trầu, bò lểnh nghểnh trên giàn. Ngoài vỏ có một màu trắng toát, cũng có những chỗ lổm chổm, có chấm đen như củ khoai tây trồng ở Cao Nguyên. Nhưng khi gỡ lớp da bên ngoài sẽ thấy có một lớp màu xanh mỏng bao bọc trên mặt, sau lớp đó mới hoàn toàn trắng đục ở bên trong như khoai tây. Ở miền quê thường trồng loại khoai nầy để thay thế cho củ khoai tây thứ thiệt. Má tôi vẫn hay nấu ra-gu, cà-ri với loại khoai này. Thêm nữa là mấy líp mía, gồm mía tây, mía thanh diệu, mía cà-nho (còn gọi là mía ván, có màu nâu nhưng mắt mía nhặt hơn mía thanh diệu), mía lau, mía đường... ăn không hết.
Xen kẽ với đám bắp hay mấy líp cải, thường có một loại cây có tên là màng màng, thân khẳng khiu, cành lá nhỏ nhắn, nội hay nhổ về phơi một nắng rồi đem rửa sạch sẽ cắt ngắn lại từng đoạn. Xong, để vô vịm làm dưa chung với cải bẹ xanh để ăn với thịt kho, cá kho hay nấu canh chua thì hết sẩy. Mỗi lần giở giồng nội thường kêu các cháu đem chia cho dòng họ và những người làm công trong nhà.
Nói về cây trái thì bà nội Trung Lương (chị của bà nội ruột của tôi) mỗi lần xuống thăm đều đem cho cả chục gốc mận hồng đào mới chiết nhánh và ông nội thường đem trồng ở phía sau vườn, cùng mấy bờ mới đấp ngoài vạt đất mà nội đặt tên là "nền bông." Khu vực này trước đó toàn là dừa nước, nội thấy để nhiều quá sẽ trở nên sầm uất, u ám chung quanh nhà. Vì vậy nội mướn người khai phá, vét mương lên bờ với chủ đích là trồng bông, nhưng bông đâu không thấy chỉ thấy toàn cây trái, và chừa lại một lõm lá nhỏ đủ chi dụng khi cần lợp lại chuồng trâu, chuồng gà, và nhà vựa vỏ.
(còn tiếp 1 kỳ...)
Hồng Lan