vhnt, số 210
31 July 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Quê ....................................................Tôn Thất Hưng
2 - Nửa khuya, nghe tình ca Phạm Duy và Chinh phụ khúc Văn Cao.........Nguyễn Mạnh Trinh
3 - Em, vết chân trên cát ......................Nguyễn Phước Nguyên
4 - Chiều Bi-Ðông .......................................Hoàng Mạnh Giao
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
5 - Nước cờ Hư Trúc ...............................Nguyễn Quốc Trụ
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Người bị thua cuộc ................................Trần Hoài Thư
7 - Sóng nước ........................................................BCCB
Nghiêng vào buổi chiều ...
... như tôi đã ngả vào mầu đỏ rực của vùng trời chan hòa và nồng nàn nhuộm đỏ một vầng Tâỵ Vòng quay điểm hẹn của ngày hôm qua trở lại, đúng chỗ cũ, 24 giờ tuần hoàn về lại vị trí thời gian, cũng vẫn không gian là chỗ ngồi này - tôi của 24 giờ sau không còn là tôi của 24 giờ trước. Thời gian ra đi và không bao giờ trở lại. Tôi của ngày hôm qua ra đi không bao giờ trở lại. Cảm xúc của tôi trở lại và dừng lạị Cảm xúc của tôi không giống như cảm xúc hôm qua!
Không ai tắm hai lần trên một dòng sông, mặc dù người ta có thể trở lại tắm ở một khúc sông cũ lần thứ hai, nhưng sự hiện hữu không bao giờ lập lại, và ngay chính những giọt nước ở khúc sông này ngày xưa giờ đã trôi mất dấu tích, những giọt nước xuôi dòng đã hóa thân thành mây, đã trở thành bản thể của một đời sống khác. Chính ta cũng đã thuộc về cuộc đời khác ở một thời điểm và hoàn cảnh khác.
Thời gian là món quà giá trị của đời sống. Nếu có thể giữ được cho mình một phút dài hơn 60 giây, dài hơn một giờ, dài hơn một ngày, dài hơn một đời, thì chỉ còn cách làm cho thời gian giá trị và ý nghĩa hơn là chiều dài của nó bằng sự sáng tạo làm ra những kỷ niệm, những ấn tượng đẹp, những cảm xúc êm dịu để ghi nh Trí nhớ thì vĩnh cửu, kỷ niệm thì mãi mãi. Tự tìm lấy cho mình cảm giác êm dịu cũng là làm cho từng giây phút ý nghĩa và trở thành "immortal"!
Nghiêng vào buổi chiều, tôi nghe tiếng phong linh thở dài trong gió và buổi chiều dần lịm tắt.
thân ái,
PCL/vhnt
Quê
Quê
là giấc mơ khi nằm ngủ
nghe tiếng trâu ậm ịch đi về
dáng tre gầy như dáng mẹ
đêm lập loè đom đóm ở quanh sân
mái nhà tranh dột mấy lần
sao ta chẳng về thăm mẹ
che lại một mùa mưa
... khi ấy giấc mơ vừa đẫm ướt
nước mắt mình hay của mẹ ta xưa
Quê
giấc mơ ngủ ngày nắng nỏ ban trưa
câu hát ru ta chưa bao giờ hiểu hết
dáng con cò lặn lội bên sông
câu ca dao để nhớ phút chạnh lòng
mà câu hát cũng chòng chành nước mắt
... khi ấy giấc mơ choàng tỉnh dậy
ta hay mình giấc ngủ ở đâu đây?
Tôn Thất Hưng
Nửa Khuya, Nghe Nghe Tình Ca Phạm Duy Và Chinh Phụ Khúc Văn Cao
1. Với Phạm Duy
Sợi nào dây võ dây văn
Chợt thiên địa bỗng quẩn quanh mơ hồ
Tấm lòng trải tận hư vô
Xao da thịt sóng vỗ bờ cuồng điên
Sợi nào dây nhớ dây quên
Rêu hoang sơ vẫn mọc riêng mái đời
Ngực ran. Chuông đổ mấy hồi
Giọt thanh âm rụng. Rơi rơi ngõ về
Sợi nào dây tỉnh dây mê
Cơn đồng thiếp. Ánh trăng thề phân thân
Biếc xanh. Lả cánh chim gần
Bờ lau lách. Cũng tần ngần cố tri
Sợi nào dây đến dây đi
Gió bâng khuâng. Lụa xuân thì mấy vai
Ngữ ngôn vọng với heo may
Trống hoang não tuỷ vợi ngày xưa sau
Sợi nào dây lệ dây đau
Quàng tay. Ôm bộ ngực sầu vô minh
Ngũ cung thả nhịp tang tình
Cô Không. Lời hát lặng thinh muôn trùng
Sợi nào dây lẻ dây chùng
Vọng nàọ Thoảng giữa mịt mùng biệt xa ...
2. Và Văn Cao
Nửa khuya, lạnh buốt thịt da
Nhạc căm căm giữa thoáng qua tơ nguyền
Rưng rưng hạt máu dành riêng
Trong sâu thẳm chợt vô biên cõi người
Bàng hoàng. Ðộng tiếng thơ rơi
Trăng xanh biếc nụ. Một thời. Có Không?
Về Kinh Bắc, mấy cửa sông
Sỏi âm giếng cạn mấy vòng nước lan
Nửa khuya. Lòng chợt trống hoang
Ngọn gió bấc vụt thổi ngang quê nhà
Ngựa ai tiếng hí ải xa
Ðêm u uẩn tiếng chẳng thà mênh mông
Dòng nước chảy cánh rêu rung
Ðỏ đen tâm thất mấy vòng máu đi
Ðỉnh lưu lạc ý hồ nghi
Trăng cổ sử bóng lạ kỳ dặm sương
Nửa khuya. Lạ chiếu lạ giường
Bỗng hiu hắt tiếng mê cuồng xa khơi
Biển. Trăng. Thợ Nhạc. Quyện lời
Cầm ca thu. Ðã rụng rời bến xưa
"Bên Cầu Biên Giới". Mưa. Mưa
"Chinh phụ khúc". "Cung Ðàn Xưa". Lạnh lùng
"Bến Xuân". Nốt nhạc muôn trùng
Chao ngọn nến. Rụng ngũ cung ơ hờ...
Nguyễn Mạnh Trinh
em, vết chân trên cát...
em đã nhìn thấy chưa? những đồi cát trùng điệp hiện ra trước mắt. tâm linh tôi đó. một vùng sa mạc cằn khô nóng bước em qua. vết chân đã in dấu trên tiềm thức tôi. một nhắc nhở hằn sâu trong tận cùng tư thức, cho tháng ngày sắp đến. đừng đứng lại. và cũng đừng nhìn lại sau lưng khi chợt nghe rát bỏng lên từng da thịt. bởi niềm đau sẽ kéo đến. để muộn phiền sẽ vỡ òa. trong em. trong tôi. những niềm đau. rất thật. rất gần.
em đã tìm thấy chưa? bóng mát trong vùng cát nóng vây quanh. bóng mát duy nhất. sau cùng. là chiếc bóng em lẻ loi trên nền cát. khi trước mặt. lúc sau lưng. bóng mát em đã che ngát một khoảng đời tôi miệt mài dĩ vãng. nơi em đã bước vào từ những huyền thoại ngọc ngà ánh sáng. xoa dịu từng cơn buốt tim tôi.
em đã đuổi kịp chưa? những vùng cát ảo ảnh ẩn hiện cát chạy dài vô tận. thật gần. nhưng đừng đưa tay với bắt. sẽ tan biến đi rất mau như nó đã hiện hình. trên linh hồn tôi. em đã chạy theo những ảo ảnh diệu kỳ đó như trò đùa lạ lùng tội nghiệp. đôi khi là tuyệt vọng. nhưng em vẫn bước tới. những vết chân. những vòng tròn trong tôi. bên trong những ảo ảnh đó chỉ có cát, cát và cát. trước mặt. sau lưng. là tôi đó.
đêm. những cơn lạnh buốt người. em ôm hai vai mình. co ro. lấp lánh tinh tú không đủ sáng cho em nhìn bàn tay mình trước mặt. một nắm cát bốc lên. cát tuôn thành giòng qua khe hở bàn tay. em có thấy tôi không trên đáy ký ức tận cùng. trong một lần nhớ lại? từ bàn tay đó, tôi buông hồn về lại với chính mình. với em. quanh quá khứ tôi những vòng gai xiết chặt. tôi gục xuống. một giấc ngủ vùi. tôi thấy mình chết đi.
đêm. có những cơn bão nghiệt ngã. em thu mình chịu đựng những hạt cát đay nghiến lên từng phiến phần thân thể. gió ném cát lên da thịt em. những rát đau xót xa vô tình. em có thấy tôi không? những cơn phẫn nộ hồn nhiên. từng cơn lốc nhớ. tôi ôm hình hài. như một khắc ghi. cho một lần có thật trong nhau. nghiền nát tâm linh. dập vùi thân phận.
cát thành bụi mỏng tan đi.
bão thành cơn gió thoảng.
và giấc ngủ.
trong giấc ngủ em,
tôi thấy mình sống lại.
trong em.
em đã nhìn thấy chưa? mặt trời đang chớm sáng. sau giấc ngủ dài, em thức dậy. những dấu chân xưa đã khuất. cát hôn rèm mi em. sương đọng trong hồn mắt.
giọt lệ rơi xuống -
hạnh phúc cho hạt cát?
cuộc đời?
sa mạc?
con tim?
nụ cười với bóng mình dưới chân.
không cần định hướng, em lại cất bước đi.
và qua từng bước chân em
tôi đã sống.
npn
Chiều Bi-Ðông
Nhấp nhô nước biếc một con thuyền
Vượt sóng trùng dương gặp cảnh duyên
Tránh bọn bạo tàn tìm đất sống
Rời xa quê mẹ chốn thân thương
Bi-Ðông đảo khách dừng chân lại
Một mái chùa xinh, một giáo đường
Thức cảnh buồn tình người viễn xứ
Nhớ về quê mẹ chạnh lòng vương.
11/1981
Hoàng Mạnh Giao
Nước Cờ Của Hư Trúc
Ðộc giả say mê Kim Dung và say mê cờ chắc khó quên nổi ván cờ của chưởng môn nhân phái Tiêu Dao. Ván cờ ma quái, chính không ra chính, tà chẳng phải tà. Dùng chính đạo phá không xong mà theo nẻo tà cũng chẳng đặng. Có người ví nó với thế Quốc Cộng ở một số quốc gia trên thế giới. Sau Hư Trúc, không biết đánh cờ nên cũng chẳng màng đến chuyện được thua, cũng chẳng sao luận ra đâu là tà chính, đi đại một nước chỉ nhằn mục đích nhất thời là cứu người, vậy mà giải được. Nước cờ Hư Trúc, cao thủ đều lắc đầu vì là một nước cờ tự diệt, nhờ vậy mà tìm ra sinh lộ. Tác giả thấm nhuần lịch sử, triết học Ðông Phương, và cái thế "dựa lưng nỗi chết" đã từng được nhiều danh tướng sử dụng. Thú vị hơn, ông một lần nữa lại sử dụng thế này để giúp Thiên Sơn Ðồng Mỗ tìm ra nơi trú ẩn là hầm băng nơi nhà kẻ thù.
Là một nhà văn theo ý nghĩa đầu tiên của từ này, tức là một người kể chuyện, ông hiểu rất rõ, trên đời mọi chuyện đều đã được nói, và sáng tạo chỉ có nghĩa là lặp lại. Những tác phẩm không được người đời biết tới, những tác phẩm đó chưa hề hiện hữu (Les chefs-d'oeuvre inconnus n'existent pas). Nói rõ hơn, những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng những nguyên mẫu có trước đó, trong văn chương hoặc trong cuộc đời. Có những nhà văn suốt đời chỉ viết đi viết lại một cuốn sách. Tất cả những tác phẩm lớn của Kafka đều là những cái bóng được phóng lớn từ những truyện ngắn, những "ngụ ngôn, ẩn dụ" của ông. Bộ tứ khúc Justine, Balthazar, Clea, Mountolive của Lawrence Durrell chỉ là một câu chuyện về thành phố Alexandria được kể bốn lần, mỗi lần một khác. Ở cuốn này, nhân vật X chết, sang cuốn tới nhân vật này chỉ mất tích rồi tái xuất hiện. Khổng Minh chết trong Tam Quốc Chí lại sống lại trong Bí mật về mả Tào Tháọ Với nhà văn mọi chuyện đều có thể xảy ra. Bởi vậy, Bắc Mỹ chia sách ra làm hai loại, giả tưởng, fiction, và không-giả tưởng, non-fiction.
Có người còn định nghĩa nhà văn là người đốt lên một cây diêm đã được dùng rồi. Cây diêm dùng rồi có thể là một hình ảnh, một ý tưởng, một sự kiện lịch sử, một chân lý, một giả tưởng...Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, khi đưa ra một hình ảnh khác về vua Quang Trung, theo thiển ý, chỉ để mọi người, nhất là nhân dân Miền Bắc có một cái nhìn "thực tế" hơn về vị "cha già dân tộc". Hình như thời điểm này UNESCO đang dự định vinh danh Hồ Chí Minh. Hơn nữa, hình tượng cha già dân tộc, hình tượng hoàng tử Hamlet vốn đầy rẫy trong văn học cổ điển Ngạ Trong Cô con gái viên đại úy của Pushkin, anh chàng thiếu úy trẻ bị ông bố đầy ra một tiền đồn heo hút. Anh nằm mơ thấy ông già bị bệnh. Tới bên giường, hóa ra không phải ông già "ruột" mà là Pugachev, một nông dân nổi loạn sau bị Nga hoàng xử trảm. Không hiểu trong lịch sử Ðảng CSVN có bao nhiêu Hamlet mong muốn kẻ thù giết cha biến thành cha ruột của hỗ Bởi vậy lặp lại không có nghĩa là đạo văn. Không thầy đố mày làm nên. Trong bách nghệ, học được hết bí quyết của thầy, vậy đã mừng húm. Riêng nghề văn, một nghề cần thầy hơn tất cả mọi nghề, học trò bắt buộc phải vượt thầy, theo nghĩa phải bắt đầu từ chỗ ông thầy đang bỏ dở, hoặc tưởng rằng đã hoàn tất. Phải sục sạo những gì ông thầy mình đã bỏ quạ Nói tóm lại, phải mở ra những thử thách mới, những hy vọng mới cho văn chương vàcho chính mình. Có thể hiểu theo nghĩa đó, câu của Mallarme’: Thế giới hiện hữu để tiến tới một cuốn sách đẹp.(Le monde existe pour aboutir à un beau livre).
Gabriel Garcia Marquez, lần đầu viết gần 300 trang bản thảo, đọc lại, ông vứt bỏ vì thấy giống tác phẩm của một nhà văn khác. Viết lại từ đầu, ông lấy luôn bộ khung cuốn Absalom! Absalom! của Faulkner làm bệ phóng. Lần này thành công, là một tác phẩm lớn xuất hiện. Ðọc Trăm năm cô đơn, độc giả thấy ngay tác phẩm thoát thai từ Faulkner. Cũng một thành phố giả tưởng. Cũng một kỹ thuật viết quy chiếu về một siêu hình học của thời gian. Faulkner đập nát thời gian rồi xây dựng lại theo ký ức của một tên khùng, đần độn (trong Âm thanh và Cuồng nộ), G. Garcia Marquez dùng những vòng tròn thời gian đồng tâm, những nhân vật cùng tên, tạo dựng thế giới Macondo từ những huyền thoại và thực tế Nam Mỹ (giòng văn chương hiện thực huyền ảo). Nhưng tác phẩm Trăm năm cô đơn hoàn toàn là của G.Garcia Marquez. Faulkner không thể viết như vậy được, vì ông bị chết cứng như những nhân vật của ông trong hai lần địa ngục, hay là hai thảm kịch của nước Mỹ, đặc biệt là Miền Nam nước Mỹ: Da đen, và Loạn luân. Trong Absalom! Absalom!, địa ngục thứ nhất mở ra khi người anh tố cáo với người yêu thầm kín-cô em ruột, người yêu của cô-bạn học đại học của anh, là một tên da đen. Ðịa ngục thứ nhì: Người đó cùng ruột thịt, máu mủ với cô (con người vợ đầu-da đen của ông bố). Ðịa ngục khe’p lại khi anh em giết nhau, vì ghen tuông, vì mầu dạ Faulkner sau khi được Nobel là xuống luôn, còn Marquez sau Nobel càng đầy mới lạ, khám phá. Nhà văn như vậy còn là người dám đương đầu với những thử thách văn chương, dám đưa ra những cách viết, cách sống mớị Những thử thách này lại phải được chứng nghiệm bằng đời sống. Tuần báo Time, số Sept,25.95 kể chuyện tuần trước đó, một viên cảnh sát lưu thông người Do thái đã giúp một sản phụ "mẹ tròn con vuông" nhờ coi cảnh đỡ đẻ trong phim ER (Emergency Room). Bởi vậy nghệ thuật bắt chước cuộc đời, và cuộc đời tìm thấy trong nghệ thuật cái lý do hiện hữu của nó.
Lịch sử Việt Nam gần đây thôi lại cho ta một thí dụ về chuyện cuộc đời bắt chước huyền thoại văn học. Ðó là chuyện Trương Chi, Mỵ Nương. Theo truyền thuyết, anh chàng lái đò Trương Chi, người thì thực xấu, hát thì thực hay. Nhưng những anh chàng Trương Chi của cuộc đời thì lại suốt đời không biết hát, hoặc chỉ nghe một câu hát "Ðường ra trận mùa này đẹp lắm".
Hiểu theo cách đó, nước cờ Hư Trúc có thể cắt nghĩa như vầy: Sau khi tiếng hát của những nàng "thương nữ bất tri vong quốc hận" Mỵ Nương đã làm siêu đổ những miếu thiêng, những đền đài, danh tướng, cũng lại tiếng hát đó đã kết nối mọi hy vọng, đổ nát, vì lần này nó cất lên từ quần đảo ngục tù, từ mồ sâu biển cả, cuối cùng đã giải oan được lời thề " Phanh thây uống máu quân thù". Có thể cắt nghĩa nước cờ Hư Trúc, khi được áp dụng vào cuộc chiến Việt Nam, qua một hình ảnh mượn từ huyền thoại Hy Lạp: Con ngựa thành Troiẹ Huyền thoại trở thành hiện thực cùng với cuộc tập kết năm 54 của những người Cộng sản Miền Nam, khi họ được lệnh Ðảng, mỗi người phải để lại, ít nhất là một cái bầu cho một cô gái Miền Nam. Huyền thoại tái xuất hiện khi Miền Nam tan hàng, bỏ chạy để lại tình người Việt trong từng câu nói, từng cách sống, từng lời hát, nói tóm lại cái được gọi là tình tự dân tộc. Niềm bí ẩn, điều tối kỵ này lần đầu tiên được bộc lộ đối với những người Miền Bắc, ngay trong ngày 30/4/75 khi họ đụng chạm thực tế Miền Nam. Nhiều người nói, cuộc chiến Việt Nam không có kẻ thắng người bại, thực sự, người dân Miền Bắc, những người chịu tai họa do đảng Cộng sản Việt Nam gây ra, cay đắng, dai dẳng, nghiệt ngã hơn người dân Miền Nam, chính họ là những người thắng trận. Chiến thắng của họ chấm dứt chiến thắng Miền Nam của những người Cộng sản Việt Nam. Cuộc giao lưu văn hóa giữa người dân hai miền thực sự bắt đầu kể từ ngày đó, không ồn ào, náo nhiệt, không chủ nghĩa, đảng phái, trào lưu, hải ngoại-trong nước. Người viết xin được kể lại một kỷ niệm, những ngày cuối tháng Tư, trong dịp nói chuyện lần cuối cùng với một nhà văn-nhà thơ đàn anh, trước khi ông khăn gói quả mướp lên đường đi học tập "10 ngày". Nhà thơ-nhà tiên tri tuyên bố: "Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này".
Nhưng khoảng cách giữa lặp lại và đạo văn nhiều khi thật khó phân biệt và thường chỉ được đo bằng tài năng, lương tâm và liêm sỉ của người viết. Thanh Tâm tài nhân chỉ là cái cớ cho thiên tài Nguyễn Du xuất hiện dù ông khiêm tốn gọi đây là "Tiếng hát đoạn trường mới". Ðọc Kim Dung, chúng ta thấy ông vay mượn rất nhiều nguồn, nhiều ngườị Ngay cách mở truyện, từ một chi tiết, một sự kiện lịch sử, vốn do A. Dumas và nhận định của nhà văn Pháp này: Lịch sử chỉ là cái đinh để tôi treo tác phẩm của tôi. Nhân vật Du Thản Chi là từ Masque de fer. Tính chất nghẹt thở là của Tây phương. Những nhân vật như Vô Kỵ, Kiều Phong, bà con với những đứa trẻ bất hạnh của Dickens. Lập luận của nhà sư già tại Tàng Kinh Các, khi giải thích tại sao Phật pháp lại giong ruổi với Võ học, xem ra có vẻ như vay mượn từ Lý thuyết (Theorie) và Thực hành (Praxis) của triết học biện chứng : Trên đường giong ruổi, Theorie và Praxis đều triệt tiêu để có được con người hoàn toàn (l'homme total), tức giấc đại mộng của Marx. Cái chết của Thần Ðao Hồ Ðại Ðởm mà mỗi người chỉ biết được một phần sự thực, là mượn từ Rashomon của nhà văn Nhật, Ryunosuke Akutagawạ Những nhân vật nữ "độc, tối độc" như A Tỷ, Chu Chỉ Nhược xem ra vay mượn từ những nhân vật "Se’rie Noire" của J.H. Chase, tuy chất chung tình của họ là hoàn toàn Á Ðông. Cách xây dựng nhân vật, cặp Hân Tố Tố- Trương Thúy Sơn vừa nằm xuống, cặp Vô Kỵ-Triệu Minh xuất hiện là thuộc truyền thống Trung Hoa, sóng sau đè sóng trước.
Nhiều trường hợp, chính học trò khám phá ra những ông thầy. James Joyce đâu dễ đọc, nhưng giòng văn chương độc thoại nội tâm, hay giòng ý thức do ông mở ra ngày càng có nhiều thiên tài văn chương gia nhập: W. Faulkner, Hemingway, Claude Simon... Alain suốt đời chỉ là một ông thầy giáo trung học, ngoài bộ Système des beaux-arts, gần như không hề viết một tác phẩm lớn trừ những bài Nghĩ về... (Propos sur...) nhưng ngoài Andre’ Maurois là học trò chính thức, những người học hàm thụ, tôi muốn nói những nhà văn ảnh hưởng lối viết cô đọng, mỗi câu văn gói trọn vẹn sự bí mật của chính nó, và mọi cây cầu nối kết câu nọ với câu kia bị cắt đứt, trong số này phải kể cả Camus, như nhận định của Sartre về cuốn Kẻ xa lạ (L'e’tranger): Mỗi câu văn là một hòn đảo cô đơn. Mỗi câu văn là một khởi đầu viết.
Nhưng liệu có một tác phẩm "mồ côi", nghĩa là không họ hàng gì với giòng văn chương thế giới không? Câu hỏi này do một nhà văn nổi tiếng đương thời người Mexico, Carlos Fuentes, 66 tuổi, đưa ra trong một cuộc phỏng vấn cách đây đã lâụ Và ông tự trả lời, chắc là không cô Cắc cớ một nỗi là, bản thân nhà văn lão thành này hiện đang bị một nhà văn trẻ Mexico, thuộc loại chưa được người đời biết tới tuy đã có vài tác phẩm được xuất bản, Victor Manuel Celorio, tố cáo là đạo văn, bởi vì những tương tự giữa Kỳ lân xanh (The Blue Unicorn) của nhà văn trẻ này và Diana của Fuentes không phải là tình c Kỳ lân Xanh lần đầu do tác giả tự xuất bản năm 1989, không kiếm được người mua ngoài 200 thân hữu và bà con, lẽ dĩ nhiên với đề tặng và chữ ký của tác giả, theo kiểu văn chương "sinh nhật" hiện đang thịnh hành trong giới businessman-nhà văn. Con số tái bản vào năm 1994 khá hơn một chút, 1000 ấn bản. Ðề tài cuốn truyện: Cuộc tình sóng gió giữa một nhà văn Mexico và một người đàn bà Mỹ, được coi như là một ẩn dụ về mối giao tình chẳng đậm đà gì nếu không muốn nói là gay gắt giữa hai ông bạn láng giềng Hoa kỳ-Mexico. Sau khi đọc Diana, tác phẩm mới nhất của Fuentes, xuất bản năm 1994, Celorio giận dữ tuyên bố, anh tìm thấy chừng 110 trường hợp Fuentes "mô phỏng" tình tiết, cách kể chuyện trong The Blue Unicorn. Thí dụ, trong hai cuốn, cuộc tình bắt dầu bằng cuộc chiến Việt Nam (lại Việt Nam), như là một cái "phông" cho những lần gặp gỡ (tội nghiệp thật), và trong mỗi lần "gặp" nhau, anh đàn ông Mexico lại nói về dự dịnh sáng tác của mình: Cuộc tình giữa kẻ xâm lược Tây ban nha, Hernan Cortes và cô vợ be’ người da đỏ, Malinche. "Không ai tin tôi", Celorio giận dữ kể lại lần anh tới Bộ Văn hóa, Phòng lo về bản quyền tác giầ "Họ còn kết tội tôi là một tên nói dốị Riêng tôi, tôi đã mất đi niềm kính trọng Fuentes rồi".
Ít người tin anh sẽ chiến thắng con sư tử già đầy đức vọng Fuentes trong trận so tài tại tòa án vào năm tới (1996). Nhưng, ít nhiều con muỗi đã gây một nốt ghẻ trên thanh danh con sư t Tuần báo Time, Oct,2.95 cho biết Fuentes đang ở Luân đôn, trong message gửi về cho bà vợ, tuyên bố: "Chuyện bố láo, ngu xuẩn, phi lý."
Tuy tội đạo văn thật khó chứng tỏ, nhưng trong trường này, nó làm sống lại những lời chỉ trích trong quá khứ, theo đó, Fuentes đã "vay mượn nặng nề" những nguồn khác. "Tôi không ngạc nhiên", nhà văn gốc Cuba, G. Cabrera Infante tuyên bố với phóng viên tờ Time ở Luân đôn. "Theo tôi đây không phải là một trường hợp cá biệt, riêng lẻ". Và ông tố thêm, Fuentes đã mượn một truyện phim của ông để xây dựng thành cuốn Birthday, và "quên" không chi cho ông một đồng nào. Còn nhà văn nữ, vợ cũ của Octavio Paz (Nobel văn chương), Elena Garro, tuyên bố một cách nhẹ nhàng hơn: "Tôi không tin ông ta ăn cắp tư tưởng với ẩn ý xấu. Sẵn có đó thì ông sử dụng. Vậy thôi".
Cây diêm đã sử dụng rồi nhiều khi gây thành đám cháy lớn. Hậu quả của nó tuy vậy vẫn còn nhỏ, cùng lắm là tới tòa án như trong trường hợp trên đây. Nhưng "Sửa văn", hoặc "Sửa ngay chính bài văn dịch của mình" nhằm mục đích chính trị, nhằm ảnh hưởng tới bao thế hệ người đọc, chuyện này khủng khiếp hơn nhiều. Trong Tam Quốc Chí, Khổng Minh đã cố tình sửa hai câu thơ trong bài Ðồng Tước để chọc tức Chu Du, và trận Xích Bích kể như đã quyết định. Giai thoại "Minh nguyệt sơn đầu khiếu, Hoàng khuyển ngọa hoa tâm" cho thấy chớ liều lĩnh sửa văn thơ người khác. Hiện nay có nhiều dịch giả đang bỏ công sưu tầm nguyên bản rồi dịch lại tất cả những tác phẩm của Dostoievsky, Nietszchễ.bởi vì những bản dịch cũ, qua tiếng Pháp, tiếng Anh, (và ngay cả nguyên bản bằng tiếng Ðức những tác phẩm của Nietszche) đều có dụng ý nhằm sao cho hợp với "thị trường văn học, chính trị, tôn giáo, sắc tộc" thời đô Có thể vì vậy Nietszche và chủ thuyết siêu nhân của ông đã bị Nazi lợi dụng. Cụ thể nhất, một trong những đấng giáo chủ của chủ thuyết hiện sinh, Heidegger, bị tố cáo về sự tham gia của ông vào phong trào quốc xả. Ðây không phải chỉ là tình cờ mà là một hành động quyết định, phát sinh từ tư tưởng triết học của Heidegger. Những hoạt động Xã hội Quốc gia của ông, được coi như là thí dụ cụ thể, chắc nịch, điển hình của "eigentliches", hiện hữu thực, qua những bài diễn văn của ông vào những năm 1930 cho thấỵ Trong bài diễn văn khai mạc khi nhậm chức Viện trưởng Viện Ðại học Freiburg, ngày 27,May 1933, để kết thúc, Heidegger đã cố tình "vặn vẹo" (distort) ý nghĩa của từ "episphala" một từ ngữ Hy lạp trong một câu trích dẫn Replublic của Plato, được dịch ra Ðức ngữ là "Alles Grosse steht im Sturm","episphala" được cố tình dịch qua tiếng Ðức là Sturm,(Storm, Bão tố). Câu trên có nghĩa "Heideggerian" là: "Everything great stands in the Storm", trong khi thực sự ý nghĩa câu của Plato là: Everything great is at risk, hoặc That which is great is most exposed to risk. Bạn đọc để ý đến hai mẫu tự S.A trong câu văn dịch,là Sturmabteilung, (Storm Groups), và một trong những tờ báo Nazi bài Do thái hồi đó có tên là Der Sturmer.
Nguyễn Quốc Trụ
(trích tập san Văn Học, tháng 7, 1996)
(Tài liệu về Heidegger lấy từ bài viết The French Heidegger Debate, tác giả Richard Wolin, đăng trong tạp chí New German Critique, N.45, Fall,1988). Bài viết của tác giả, phần lớn dữ kiện được lấy ra từ cuốn sách của Victor Farias: Heidegger et le Nazisme, xuất bản năm 1987, editions Verdier.)
Người Bị Thua Cuộc
Tôi giận dữ đập tay lên keyboard. Màn ảnh vẫn trơ trơ một màu xanh biển. Máy vẫn ngỗ nghịch, vẫn "hung", như một con chó cứng đầu. Mười ngón tay của tôi lại khua loạn xạ, bất kể key. Cầu may hiện ra giòng chữ, một chữ cũng được, để tôi có thể bắt lại liên lạc cái công trình suốt cả ngày hôm nay. Hình như tôi quên lưu nô Hơn mười năm làm việc cùng máy, tôi vẫn quên cái điều mà những programmer đều phải hãi hùng. Những gì tôi làm bị mất. File bị biến tăm. File chạy đi dâu trong cái vô vọng trống trơn ngay cả dấu chấm dấu phết. Và tôi lại mò mẫm, hối hận, giận dữ.
Bây giờ tôi mới hiểu thế nào là cái độc hại của con quái vật của thế kỷ. Con quái vật mà người ta gọi là computer, là máy điện toán. Người ta đã từng ca ngợi nó như một công trình tuyệt diệu của nền văn minh nhân loạị Một cái chip có thể chất chứa cả một thư viện. Nó đã bao trùm trong mọi lãnh vực, giúp con người tận dụng những tiện nghi của kỹ thuật. Chỉ một cái nhích tay là cả một công trình kỳ diệu hiện ra trên màn ảnh, tiết kiệm bao thì giờ, công sức của con người.
Nhưng đằng sau nó, ai biết có những người phải đau khổ vô cùng. Hắn đã đổ vào đấy bao nhiêu sức lực. Hắn đã miệt mài tâm trí để mang về người đời cái tiện nghi. Hắn phải đánh từng chữ, xét từng con số, biến ngôn ngữ thành những kết quả hữu ích. Hắn là programmer. Hắn có thể bắt máy tuân phục. Nhưng đôi khi máy bắt hắn trở thành nạn nhân. Bởi hắn không phải là máy, mà là người, vì vậy, hắn có thể quên, vô ý, bất cẩn, hay cả u mê tăm tốị Hắn biết file hắn sẽ bị bỏ đi, mất tiệt, khi hắn quên lưu trữ. Hắn biết vậy. Nhưng hắn vẫn quên.
Như tôi bây giờ. Có nên bắt đầu lại chăng. Có nên can đảm ngồi yên, đánh lại từng giòng, mắt lão căng trừng trên dấu chấm dấu phết, lên hàng xuống hàng, cột một cột bảy, cột chín cột mười, if else then endif do while for until perform trăm ngàn bit 1 bit 0 trùng trùng điệp điệp. Tôi đã ở trong cái cõi âm dương lũy thừa hai không bao giờ ngừng nghỉ. Bốn chiếc máy NCR system loại 3540 chạy đêm chạy ngày cất chứa triệu ức một và zero từ 50 tiểu bang, Nicaragua, Mexico, Brasil, Thailand, Hongkong, Nhật, Phi luật Tân và Việt nam. Tôi mê mệt kêu máy này máy khác. Tôi xin lỗi về một danh từ không thể dịch, khi mỗi buổi sáng tôi phải đánh nó lên màn ảnh, để kiểm chứng lại cái kết quả mà tôi đã sáng tạo và đưa vào máy hôm nào. Chỉ có tôi làm chủ. Tôi biết rõ những gì tôi đã làm. Tôi đã có đường hầm bí mật. Còn những người khách của tôi, họ chỉ biết nhắm mắt tuân theo cái menu tôi đã vể Không hơn không kém. Nhưng rõ ràng lúc này tôi đã trở thành bất lực. Tôi đã bỏ hết tất cả. Ðành đoạn. Tàn nhẫn.
Bây giờ bà Roselle vào phòng. Vẫn là bà. Dáng thấp, mập như một con vịt mái. Tội nghiệp cho bà. Trong cái nhóm này, bả chỉ còn mỗi một mình tôi để nhờ cậy. Bả theo tôi như thể bóng ma. Ngực vú bà tròn trịa, hơi chảy xuống vì tuổi quá bốn mươi, và đôi mắt xanh ướt ẩn chứa dục tình, khác với một thân hình mập và phì không được cân đối. Tôi sợ không cầm cự nổi cái cơn cám dỗ khi tôi bắt gặp đôi mắt long lanh cùng cái va chạm mà bà ta đã cố tình. Tôi muốn xa lánh bà. Nhưng tôi làm sao chạy trốn trong cái toà lầu mấy mươi người nàỷy.
Bà Roselle, con mụ vịt mái, như thằng Ken đã từng chế nhạo, được mướn là do sự giới thiệu của Karen, một cô nàng cùng nhóm với tôi. Karen là giáo sư bán phần tại một đại học ở Nữu ưóc, nơi bà Roselle là sinh viên. Bà đã có bằng Ph.D về giáo dục, bị layoff và trở lại trường học Master về Khoa học Ðiện Toán. Karen đã ân cần tiến cử bà Roselle nhưng sau này cô nàng lại hối hận. "Bả nói quá hay đi. Nói đến độ ai cũng bùi tai dành nhau chụp bả." Thật vậy, bà vịt mái của tôi có lẽ là một người được sinh ra để nói. Cái gì bả cũng nói được. Khi bả bắt đầu nhận việc, trưởng phòng giao bả cho tôi đỡ đầu, có nghĩa là làm mentor. Tôi đã khám phá bả đã dùng cái chiến thuật vòng vo tam quốc để che đậy cái ngu dốt của mình. Chẳng hạn tôi hỏi bả khi nào người ta dùng backout, bả trả lời lung tung trên trời dưới đất, khi này, khi nọ, khi kia, IBM rồi Unix, khiến tôi phải la lớn: Bà ơi, stop cho con nh Chỉ trả lời dùm con hai chữ yes hay no. Biết hay không biết để con giải thích cho bả. Chính cái lối che đậy sự không biết của bà, đã khiến mọi người xa lánh. Có lẽ bà vẫn còn kiêu hãnh ở cái bằng Ph.D và hai năm học tại Oxford bên Anh về văn chương. Bà đã quên rằng cái bằng không thể giải quyết được tất cả. Cái quan trọng là kinh nghiệm và sự sáng tạo. Hình như trí não của bà đã quá đầy từ chương kinh điển. Nói như danh từ chuyên môn thì memory của bà đã đầy, không còn chỗ trống nữa.
Bà Roselle là một người Mỹ gốc Ý. Không chồng con. Hiện sống với bà mẹ già ở một khu ngoại ô bên Nữu ước. Mỗi ngày bà lái xe qua hầm Lincolt giữa hàng hàng chiếc xe nối đuôi dường như bất tận. Bà đã kể cho tôi nghe về những lần kẹt xe, hay những lúc xe bumper-to-bumper hằng mấy tiếng đồng hồ, để đủ cho tôi biết về cái quan trọng nhất nhì trong đời sống của người bản xứ: Job. Việc làm. Người dân Mỹ hình như sống để đuổi theo job. Job làm người ta ngất ngư, mệt lầ Job ban mưa móc cho mọi ngườị Quyền lợi. Tiền cấp dưỡng. Trương mục. Nhà xe. Bà Roselle đã mệt lả vì nó, nhưng đang cố bám. Bà cũng hiểu mỗi năm có hàng trăm ngàn sinh viên tốt nghiệp. Họ đang chạy Ðông Tây Nam Bắc.
Ngày đầu tiên của bà, tất cả mọi người thật dễ thương, friendly. Bà nhớ lại. Cô nàng Karen dẫn bà đến từng chổ làm việc của mỗi người giới thiệu. Very nice to see you. Very glad to work together. Họ bảo. Họ nói. We are all in a family. Sau đó bà được giao cho một project, rất dễ. Bà được cho một người đỡ đầu. Nhưng bà đã hé lộ sự thật về kiến thức của bả. Chữ nghĩa đã không thể giải quyết được cái yêu cầu của business. Không ai ngu dại để mướn một kẻ mà họ nghĩ là không có lợi, khi mỗi năm họ phải đổ ra ba, bốn chục ngàn. Bà mang những tờ giấy đi hỏi từng ngườị Tại sao? Tại sao? Một lần, họ sẵn sàng chỉ dẫn tận tình. Hai lần hơi lơ là. Ba lần, chấm dứt. Bà tuyệt vọng trước cái project chưa tìm ra lời giải mà thời hạn đã cận kề. Mỗi đêm bà ở lại hãng tới một hai giờ sáng. Và bà chỉ còn một cách là bám víu vào tôi. Nhưng tôi thì cũng không làm gì hơn. Tôi không thể viết lại, thay lại hay sửa chửa toàn bộ những gì bà đã làm. Tôi chỉ giúp đỡ bà ở phương vị một mentor trong một thời gian ba bốn tháng. Tôi cũng phải nghĩ đến nồi gạo của tôi. Tôi cũng đã từng chiến đấu, và lẻ loi, tội nghiệp hơn bà nữa. Bởi tôi là người đến từ một nơi khác. Ðâu có ai giúp tôi như tôi đã giúp bà hôm nay. Bây giờ phòng Lab chỉ còn tôi với bà Roselle. Người quét dọn phòng ốc đã đẩy chiếc xe rời phòng. Tiếng máy điều hòa rì rầm không ngưng nghỉ. Nhũng giàn máy chớp đèn xanh đồ Những rừng dây cable chằng chịt trên vách tường. Chúng là huyết mạch của kỹ thuật mà chúng tôi gọi là distributed systems. Bởi chúng sẽ nối những modem đến mười phương địa cầu để nhận và truyền bao nhiêu bytes vô tri vô giác. Còn nữa. Còn những printer, những PC, nhửng console đêm cũng như ngày không bao giờ tắt, ghi lại những đường đi nước bước khắp quả địa cầụ Tôi cứ im lặng, tàn nhẫn. Có lẽ vì cái giá mà tôi phải trầ Bà Roselle nói:
- Tánh chưa về sao?
Tôi nghe giọng nhỏ nhẹ của bà như khởi đầu một mời gọi:
- Tôi còn vật lộn với máy. Nó quá cứng đầu.
- Nhưng ông là chủ của nó rồi mà.
- Nó không bao giờ chịu nghe tôi.
- Thì trừng trị nó đi Tánh.
Bà Roselle tinh nghịch nóị Tôi cảm thấy mình hơi tàn nhẫn. Cái tàn nhẫn đối với kẻ bị thua cuộc. Dù muốn dù không tôi cũng là kẻ ăn nhờ ở đậu. Tôi đến đây là do lòng thương hại của người bản xứ, trong đó người dàn bà này là một phần tử.
- Bà còn đến trường không?
- Vâng, tôi vẫn còn đến trường. Tôi cũng học cái course mà Tánh đề nghị. Có diều ông thầy dạy chỉ biết lý thuyết suông.
- Như vậy bà có thâu gặt được gì không?
- Cũng hơi hơi.
Bây giờ bà Roselle nhìn tôi, đôi mắt bà van lơn:
- Tôi có một điều muốn nói với Tánh. Tánh có muốn nghe tôi nói không?
- Vâng, bà cứ nói đi. Tôi đang nghe đây.
- Tôi xin Tánh dạy kèm tôị Tôi sẽ trả lương hậu.
Tự nhiên tôi đâm giận dữ. Tôi đâu có phải hạng người để bà trao đổi mua bán. Tôi nói lớn:
- Bà nghĩ sao mà nói như vậỵ Dù sao tôi với bà là những người cùng nhóm.
- Tôi xin lỗi Tánh. Bởi tôi không có ai để giúp đỡ tôi trong lúc này.
- Giúp đỡ? Tôi giúp đỡ bà thì ai giúp đỡ tôi? Bà không biết tôi đã chiến đấu trong đơn độc từ ngôn ngữ đến kinh nghiệm. Bao nhiêu trở ngại tôi đã gặp còn to lớn gấp trăm ngàn lần bà gặp hôm nay nữa.
Bà Roselle nhìn tôi với đôi mắt mờ lệ:
- Xin Tánh đừng hiểu lầm tôi. Người Mỹ thường sống sòng phẳng. Ngay cả cha con, vợ chồng. Có lẽ văn hóa Ðông Phương khác với văn hóa Tây phương.
Tôi hơi chùng lòng. Sự thật là vậy. Ðông Phương và Tây Phương vẫn không bao giờ gặp nhaụ Người Tây phương họ sống bằng lý trí nhiều hơn tình cảm. Bởi vậy hôm nay người nghị sĩ Mỹ một thời là tù binh, đã là người tiền phong cổ xúy cho việc bang giaọ Với ông bây giờ là vai trò của đất nước ông, lá cờ của xứ sở ông, sức mạnh về kinh tế của Mỹ trong tương laị Ðến đây, dôi vai của bà Roselle bật run.
- Tánh hẳn biết là trong nhóm này, Tánh là người tôi biết ơn nhiều nhất. Và cũng là người hiểu tôi nhiều nhất. Nhưng có một điều Tánh không hiểu dù sao tôi cũng vẫn là đàn bà. Tôi cũng muốn có một mái nhà, bên chồng bên con.
Lời thổ lộ của bà là lời thổ lộ của kẻ bị thua cuộc. Có phải xấu xí dưới mức trung bình là một cái tội hay không. Lúc này tôi chỉ cần một cái nắm tay, một lời ngọt ngào, là tôi có thể trở thành một gã đàn ông của bấ Nhưng tôi đã chống cùng cơn cám dỗ. Lý trí cho tôi biết vềcái job tôi hiện đang giữ gìn. Cho mái nhà, chiếc xe, cho cả gia đình tôi. Bởi vậy tôi đã đứng dậy, giả vờ quên một cái gì đó, để tránh đôi mắt màu xanh mời mọc:
- Xin lỗi bà tôi cần phải trở về phòng tôi. Có một vài thứ tôi cần tìm.
Trần Hoài Thư
NJ 14-7-95
Sóng Nước
Tôi sinh ra ở Nha trang. Xứ sở thùy dương cát trắng thật là thơ mộng. Mỗi sáng, đám trẻ con vùng biển chúng tôi thường theo gia đình ra biển. Vì còn nhỏ, chúng tôi không được đi biển mà chỉ được phép rong chơi dọc theo bờ biển trước giờ đi học. Chúng tôi thích thú lắng nghe theo những điệu nhạc rì rào của sóng và gió biển. Chúng tôi thường xây những lâu đài trên cát theo những ước mơ lãng mạn của con gái. Bao giờ cũng vậy, lâu đài của Vi Kha, đứa con trai duy nhất trong bọn chúng tôi, cũng là lâu đài đẹp nhất.
Vi Kha là đứa bạn trai thân nhất của tôi. Y vốn èo uột nên hay bị đám con trai ăn hiếp. Tuy vậy, y rất dũng cảm. Có một lần, tôi bị một đám con trai ở khu chợ cá chọc ghẹo làm tôi sém bật khóc, y bỏ cả tô bún riêu ăn dở, lượm hai cục đá thật to và lăm le làm hiệp sĩ bảo vệ tôi. Thấy thái độ hùng hổ của y, cả bọn mới thụt lùi lui ra sau vài câu ghép đôi diễu cợt. Y gia nhập bọn con gái tụi tôi từ dạo đô
Vi Kha là kẻ rất sáng tạo trong tất cả các cuộc chơi. Khi xây lâu đài, y còn cắm các lá cờ trên nóc của thành quách khiến cho toà lâu đài hiển hiện thật rực rỡ. Y lại có tài vẽ rất đẹp. Y vẽ biển, vẽ người, vẽ đồ vật. Tất cả tranh vẽ của y đều sống động, hoàn chỉnh như tranh của Rafael. Tranh về biển của y khiến cho bọn tôi ngây ngất như nghe được muôn ngàn lời ru của biển: biển sớm, biển về chiều, biển thanh bình tỉnh lặng, biển động... Y và tôi hợp nhau nhất ở chỗ yêu biển một cách cuồng nhiệt. Chúng tôi có thể ngâm mình dưới biển hàng giờ, đùa giỡn với sóng nước mà không hề chán.
oOo
Tình cảm giữa tôi và Vi Kha cứ lớn dần. Y chia sẻ với tôi những gì mà y cô Từ quyển tập, cây viết cho đến bánh trái quà cáp y đều chia tôi phân nửa. Chúng tôi còn chia sẻ cả những kỷ niệm ngọt ngào trên biển lẫn những đắng cay trong cuộc đời: từ những cái vỏ sò, vỏ óc nhỏ muôn màu sắc cho đến những lần bị mắng vì mải ham chơi. Có lần theo chân tôi về tới nhà, thấy tôi bị mẹ mắng tới tấp vì về trễ, y phải năn nỉ xin dùm. Mẹ tôi vì nể y học giỏi, tài cao nên mới tha cho tôi.
Tôi không hiểu lý do gì ma Vi Kha lại thích tôi nhất. Tôi không đẹp bằng con Thắm, con Nhung, lại không thùy mị dịu dàng như con Hằng, con Lan. Tính tôi lại cục mịch, dễ nổi cáu và tôi lại vốn phá phách nghịch ngợm. Có lẽ y thích tôi vì tôi hay kiếm cách chọc ghẹo y.
oOo
Chúng tôi dần lớn. Tình bạn xinh đẹp thuở thiếu thời nảy nở thành tình yêu nồng nàn của một đôi nam nữ mới lớn. Vi Kha trở nên một chàng trai tuấn tú thanh lịch. Còn tôi đã nảy nở thành một cô gái xinh đẹp nhất trong vùng. Chúng tôi vẫn giữ thói quen đùa vui trên mặt biển và mỗi buổi chiều về chúng tôi tay nắm tay đi dạo một cách thơ mộng giữa núi trời bao la. Vi Kha yêu tôi lắm. Có lần Vi Kha lượm được một cái vỏ sò ngũ sắc. Y múc một tí nước biển và trao cho tôi rồi cười nói:
- Thanh có biết không, tình cảm mà Kha dành cho Thanh như đại dương vậy. Những món quà nhỏ, những giờ phút bên nhau ngắn ngủi chỉ là chút ít nước biển trong vỏ số Mai mốt lớn hơn, Thanh sẽ hiểu được nhiều hơn về tình yêu của hai chúng ta.
Tôi cười nhìn y bẽn lẽn. Song tôi lấy hết can đảm mà bảo với Vi Kha rằng:
- Vi Kha này, Thanh hiểu những gì Kha nói. Tình đôi ta như sóng và nước mà thôi. Tình cảm Thanh dành cho Kha cũng to lớn như tình cảm Kha dành cho Thanh vậy. Ðó là thứ tình cảm bền vững, vượt thời gian, vượt không gian.
Và chúng tôi đã hôn nhau đắm đuối. Tôi mười sáu, y mười bảy tuổi. Nụ hôn đầu đời ngọt lịm bên bãi biển nên thơ. Ở xứ biển thơ mộng, tình yêu đến sớm vậy đó.
oOo
Ðêm hôm đó, một năm kể từ ngày Vi Kha chánh thức tỏ tình với tôi, tôi không tài nào ngủ được. Buổi chiều, đi dạo trên biển với Vi Kha, Vi Kha mới báo cho tôi biết là gia đình y quyết định cho y đi vượt biển để tìm vùng trời tự do mới. Y nói rằng tàu sẽ khởi hành vào lúc nửa đêm và y mong rằng tôi sẽ tiếp con đường của y để cả hai có thể gặp nhau nơi đất khách. Vi Kha nói rằng sự ngăn cách này là không lâu. Tôi nói với y về những vụ cướp biển rùng rợn mà tôi nghe được, những tai nạn nguy khốn xảy ra đối với những kẻ vượt biển để mong y ở lại. Y trả lời:
- Thanh, đây là mộng ước tương lai cả đời. Làm sao anh có thể bỏ qua dịp tốt như thế này. Tàu lớn lắm, lại có bác Thái làm tài công rất giỏi. Chuyến này đi chắc chắn trót lọt và thuận buồm xuôi gió đó Thanh. Em đừng lo. Cứ ở nhà cầu nguyện cho anh.
Tôi đã cầu nguyện. Nhưng những lời cầu nguyện không không không làm cho tôi vơi đi niềm lo lắng. Tôi muốn ở bên cạnh Kha trong những phút vượt biển nguy khốn.
oOo
Kha đi rồi, mỗi chiều tôi hay ra biển một mình để hồi tưởng lại những giờ phút ngọt ngào bên nhau. Những ngày biển động liên tiếp làm tôi nóng ruột. Chiều chiều, tôi hay ngóng chờ bác đưa thư để mong chờ tin tức tốt lành mau đến. Tôi thầm cầu nguyện cho anh và bao người khác được bình an.
Thế nhưng một buổi chiều, cả xóm chài lưới xôn xao vì tin sét đánh. Gần một trăm tử thi bị sóng đánh dạt vào bờ. Ðó là những tử thi của những người đi vượt biên trong chuyến tàu với Vi Kha. Tàu của họ chắc chắn đã bị dạt vào bãi đá ngầm trong lúc biển động nên không một người sống sót. Thi thể của Vi Kha không hiểu đã trôi dạt nơi đâu cùng với hơn mười người khác.
Tôi tuyệt vọng nhìn những xác chết. Tôi như chết cứng. Tuy vậy, trong tôi vẫn còn niềm hy vọng mong manh là anh còn sống, anh đã trôi dạt đến một hoang đảo nào đấy.
Chiều chiều, tôi vẫn đi dạo trên bờ biển xanh. Một mình. Nhìn sóng nước tôi lại liên tưởng đến Vi Kha. Có lẽ thi thể của anh đã hoà tan vào bọt sóng. Sóng và nước tuy hai song chỉ là một, cũng như tinh yêu đầu đời của tôi với Vi Kha vẫn còn tồn tại mãi mãi.
Jul 26, 1996
BCCB