vhnt, số 193
7 June 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Vô đề V & VI ...........Nguyễn Hiện Nghiệp/Phùng Nguyễn dịch
2 - Tên ngày ......................................Nguyễn Phước Nguyên
3 - Sinh nhật ....................................Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Kỷ niệm dành riêng cho hoa Violet .........Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Dù năm dù tháng ............................Hoàng Phủ Ngọc Tường
4 - Bên kia sông, bên kia đời ..................................Cỏ Nhớ
5 - Oh Butterfly if you were a poet too ...................................PCL
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Lỗ Tấn: Qua Cửa Ải .........................Nguyễn Vy-Khanh dịch
7 tháng 6, 1996
Trong quá trình sáng tạo có hai thế giới, thế giới hiện thực và thế giới trong tác phẩm. Hai thế giới ấy hòa hợp trộn lẫn nối liền cái hữu hạn và cái vô cùng. Thành ra, trong văn chương và nghệ thuật, không có sự giới hạn nào ngăn chia sự sáng tạo và cảm nhận. Người đọc và ngay cả người viết có thể sống lẫn lộn giữa hai thế giới hiện thực và trong văn chương, và cả hai xin hãy xem đó như là một đời sống.
Tôi cũng không hiểu tại sao việc viết vài trang văn xuôi có khi không làm cho mình vui và hạnh phúc cho bằng như khi ngẫu nhiên làm được một bài thơ nhỏ. Ðâu phải thơ được viết ra chỉ để cắt nghĩa một điều gì. Tagore đã từng bảo tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài, đó là thơ! Nội dung có khi không quan trọng bằng hình thức, và hình thức có khi chẳng ý nghĩa cho bằng nội dung.
... lại nhớ đến ngón tay chỉ trăng. Trăng tối nay rất gần, chỉ cần đưa tay với thì đã có trăng trong lòng bàn tay, và trăng sáng trong lòng có khi còn đẹp hơn trăng sáng ngoài cõi không gian bên ngoài.
oOo
Gửi bạn đọc những bài thơ và những sáng tác mới nhất làm quà cho một ngày mới của bạn. Số này có một truyện dịch đặc sắc của Nguyễn Vy-Khanh, một truyện ngắn đầy chất thiền và lắm suy nghĩ của Lỗ Tấn, qua sự nhuận sắc chuyển ngữ của anh Vy-Khanh, mời bạn đọc thưởng thức.
Chúc bạn một cuối tuần an nhàn và nhẹ nhàng sau một tuần lễ làm việc.
thân ái,
PCL/vhnt
Vô Ðề V
tặng PTD
Ngự thuyền ngạo thế gian
Thăng trầm dĩ hợp tan
Bách niên kinh vô tự
Danh sự bất nan bàn
Nguyễn Hiện Nghiệp
Cỡi chiếc thuyền con dạo thế gian
Cũng lắm thăng trầm, cũng hợp tan
Trăm năm về đọc kinh vô tự
Công danh? ngoài cửa Ðộng Hoa Vàng *
Phùng Nguyễn phóng dịch
* Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Phạm Thiên Thư
oOo
Vô Ðề VI
tặng PCL
Văn uyển thiên hồ điệp
Thư trung nhất đóa lan
Hữu bằng giao vạn lý
Năng duy mỹ mộng an
Nguyễn Hiện Nghiệp
Vườn văn ngàn cánh bướm
Trong sách một cành Lan *
Bạn cùng người muôn dặm
Mơ... chia giấc mộng vàng
Phùng Nguyễn phóng dịch
* cành Lan: Chi Lan
tên ngày
1.
buổi sáng. buổi trưa. buổi chiều. buổi tối.
em đến yêu ta, chạy trốn cuộc đời
ta muốn rủ em xuống đường phạm tội -
dám yêu nhau giữa thế giới lạnh lùng
Chúa cũng nghỉ ngơi mỗi tuần Chúa Nhật
Phật cũng có ngày tháng tháng ăn chay
nhưng vốn chúng sinh có nhiều cố tật
nên sống gần nhau như những kẻ thù
cuộc sống
như một mâm cơm
và một bửa ăn chiều.
mâm cơm -
khi thịt đầy, rau đủ
khi chấm muối, độn khoai.
bửa ăn -
khi cơm lành, canh ngọt
khi ướp đắng, trộn cay.
nhưng tất cả mọi người
đều phải ăn chung với nhau.
vì đói.
2.
ta mở cho em ngoặc đơn hạnh phúc
môi mớm thẹn thùng, vất vả đam mê
thiên hạ yêu nhau bằng "tình yêu trong ngoặc kép"
với lắm trò chơi: bịt mắt. trốn. tìm.
hãy chỉ cho ta những kẻ vì yêu mà chết
ta sẽ chỉ cho em những người không dám sống để yêu nhau
ta không đặt tình yêu em là trên hết
nhưng ta yêu em trên hết mọi phi thường
khi phải sống
với những người hèn mọn,
đâu có nghĩa là ta phải hèn mọn với chính mình.
3.
em hấp hối yêu ta cuối tuần cuộc sống
khi loài người rảnh rỗi mói soi
ta sẽ khai sinh một ngày Thứ Nhất -
ngày Lễ-Qua-Đời-Vị-Kỷ-Nhân-Sinh
hạnh phúc
là có nhau hôm nay
để sống.
yêu thương
là sống làm sao
để có nhau
ngày mai.
4.
thứ Hai. Ba. Tư. Năm. Sáu. Bảy.
định luật mặt trời gục mặt nhân tâm
ngày tháng ta chia hai Thứ tuần hoàn
Thứ-Sống-Để-Yêu-Nhau.
Thứ-Yêu-Nhau-Để-Sống.
em cứ hỏi:
hôm nay là thứ mấy ?
sao em không hỏi
hôm nay là thứ mấy
trong đời mình còn lại ?
5.
tháng Chín mặn môi vì răng cắn lưỡi
tháng Chạp quặn mình tiếng thốt trăm năm
ta sẽ tặng em mỗi lần một tháng
thêm một ngày Nhuần đời sống quanh co
gọt rửa trong nhau mòn lời bén nhọn
trời đất bao dung trên môi mắt dị kỳ
đời sống của sông cuối cùng trả biển
đời sống này ta cũng trả cho em
những điều giữ trong tim,
không nói ra được,
thường là những điều làm khổ mình.
những điều này
khi nói ra rồi
lại là những điều làm khổ người nghe.
6.
vết cứa tư duy trên miền da thịt
giờ phút nhiệm mầu rung động thiên thu
ta sẽ hôn em từng cơn địa chấn
nguyên thủy quyện vào giấc ngủ sơ sinh
mặt đất bình yên dậy mầm kháng tố
một thuở kinh hoàng tiền sử vô luân
ta sẽ đưa em xuôi giòng mộc mạc
bỏ hết sau lưng biện luận nhân hoàn
cần những thứ tạm bợ để sống,
đâu nghĩa là sống tạm bợ đâu em.
đời sống mông lung con đường tuyệt địa
ta bỗng dưng cần thiết nói yêu em
(ta đứng bên em chợt nghe nhàm chán
che chở nhau bằng chống đối con tim)
7.
ta thấy đêm đêm ta thành hiệp sĩ
sẽ cứu em ra bóng tối luân thường
kẻ sĩ bày ra những mùa dạ hội
đẹp mặt nhau hơn dưới ánh đèn màu
em chẳng hiểu ta vụng về rất khéo
lúc nói yêu em lời sẽ ngặt nghèo
kiếp trước ta đem tim mình bán sỉ
mua lấy một đời tai tiếng bên em
hẳn ở sang năm cuộc đời khốn nạn
nên mỗi tháng Giêng là mỗi ngục tù
em có trong tim trăm ngàn dấu hỏi
riêng dấu hỏi nào gìn giữ cho nhau ?
ta sẽ tái biên từng cơn mộng sử
nở ngát hương trầm vườn Thúy trổ hoa
mưa nắng phục sinh Kỷ Nguyên Thứ Nhất
xanh cọng cỏ đời ngậm hạt sương yêu
8.
hóa kiếp trăng vào giòng sông ký ức
soi bóng luân thường đạo lý pha lê
ta, gã cuồng sinh một lần xuống tóc
ôm thập tự cười gánh tội nhân gian
ta yêu em bằng tay phải
nắm tay-trái-em-yêu-ta
hai bàn tay mình còn lại
ta bịt mắt em. em, ta.
đứa bé trong ta có lần ngỗ nghịch
nét vẽ thiên đàng nguệch ngoạc vần thơ
chữ nghĩa yêu đương nửa đêm hiển thánh
lồng lộng ngân hà, buốt ánh sao băng
sỏi đá vô tri hát lời ân ái
man rợ giữa trời gió tuyết hoan ca
khiến gã tiều phu lên rừng đốn củi
cũng biết riêng cùng cây cỏ tư thông
9.
em mở quê hương ngọc ngà ánh sáng
ta vẽ biên thùy những ngón tay đan
giòng máu phù sa chảy về huyết quản
bồi đắp thiên đường mạch sống căn nguyên
ta sẽ cùng em.
cùng em ta sẽ.
gói trọn tên Ngày-Hạnh-Phúc-Phôi-Thai.
10.
thảng thốt bình minh ngàn tia nắng quái
đêm gọi mặt trời tiếng hú trăm năm
kết nghĩa phu thê Ngày-Tên-Nhật-Thực
ta sẽ gọn gàng định cuộc tương lai
đời sống của sông cuối cùng trả biển
đời sống nầy ta cũng trả cho em
sự bất hạnh sẽ không còn nghĩa lý
E = mc2
npn
Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường
Gặp ông đôi ngày ngắn ngủi ở Huế bỗng nhận ra dấu thời gian đã đi qua vầng trán con người trầm mặc, tài hoa ấy. Trông ông giờ đã khác nhiều với bức portrait mà Trịnh Công Sơn vẽ năm 1971 in trang đầu tập thơ "Người hái phù dung" của ông. Trở về Sài Gòn, tôi không mang theo gì nhiều, chỉ một chiếc nón bài thơ và tập thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường tặng cho vài phút trước khi rời Huế. " Mỗi người chỉ thật là chính mình trong căn nhà của nó. Thơ cũng vậy. Thơ cần phải trở vềcăn-nhà-ở-đời của nó, là nỗi buồn. Một quyền của thi sĩ là quyền được buồn." Và từ đó, có một màu tím ẩn hiện mãi trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cái màu tím tâm thức Huế buồn mênh mông.
Ð.T.Q.
oOo
Sinh Nhật
Mai kia về ngủ trên đồi
Nắng rải hoa vàng quanh chỗ tôi
Con chim sơn ca ngày thơ bé
Nó bay về khóc mãi không thôi
Kỷ Niệm Dành Riêng Cho Hoa Violet
tặng K.L
Có một lần như thế trong đời
Một bông hoa violet nhỏ
Ðã nở riêng cho tôi
Hoa không nói với tôi điều gì
Dịu dàng như ngôi sao chiều tím
Mọc lặng lẽ giữa lòng tôi thầm kín
Hỡi bông hoa xinh đẹp vô ngần
Sắc đẹp ấy lạ lùng như chẳng có
Hoa bên tôi - lòng tôi không bớt nhớ
Tôi hỏi thầm, hoa có thực hay không
Tôi trở về trên hòn đồi mộng mơ
Chợt gặp lại sắc hoa ngày ấy
Mười năm đi dọc đường lửa cháy
Tôi ngại chừng hoa đã chết xa xưa
Mười năm xa đất có lòng chờ
Nuôi cho tôi một sắc đời mê mải
Thành phố ấy và màu hoa ấy
Tâm hồn tôi nắng gió chợt bâng khuâng
Đời sinh hoa kín ẩn, ngại ngùng
Chút thời gian tím hoài dưới lá
Rồi nhiễm đau một chiều sương rất lạ
Nên yêu thương hoa khẽ bảo tôi rằng...
Dù Năm Dù Tháng
Anh hái cành phù dung trắng
Cho em niềm vui cầm tay
Màu hoa như màu ánh nắng
Buổi chiều chợt tím không hay
Nhìn hoa bâng khuâng anh nói:
- Mới thôi, mà đã một ngày
Ruộng cấy người trông cơn mưa
Ruộng gặt người trông cơn nắng
Chăm lo cánh đồng tình yêu
Anh đếm từng vầng trăng sáng
Thiết tha anh nói cùng trăng:
- Mới thôi, đã tròn một tháng
Mùa xuân lên đồi cỏ thông
Mùa hạ nhìn trời mây khói
Thu tím chân cầu tím núi
Ðông sang ngày trắng mưa dầm
Nhìn trời ngẩn ngơ anh nói:
- Mới thôi, mà đã một năm.
Rồi sẽ một ngày trắng tóc
Nhưng lòng anh vẫn không nguôi
Thời gian sao mà xuẩn ngốc
- Mới thôi, đã một đời người.
Dù năm dù tháng em ơi
Tim anh chỉ đập một đời
Nhưng trái tim mang vĩnh cửu
Trong từng hạt máu đỏ tươi
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Nguyễn Tiến Dũng sưu tập
(TTCN 31-3-1996)
Bên Kia Sông, Bên Kia Đời
Từ dạo em đi vầng trăng lẻ
vằng vặc hư không mảnh gió chiều
ví mà viết nốt dòng dư lệ
chữ nghĩa nào hồn giạt tâm xiêu.
Em bên kia sông đời có nắng
có mưa bay khoảnh khắc đời nhau
em bên kia đời sông tôi nặng
chở từng con sóng nhớ nghẹn ngào.
Qua phố cũ nắng chiều rớt lại
tôi và tôi 1 bóng 1 người
dừng chân hỏi thăm giàn hoa giấy
em có về hay chỉ trăng thôi.
Trăng lẻ mãi duyên tôi mãi khuyết
em bên kia đời hạnh phúc, thôi
đời bên kia sông mùa mưa lũ
để cho tôi giông tố phận người.
Cỏ Nhớ
Oh Butterfly If You Were a Poet Too
Of Butterfly if you were a poet too
I wonder what poems we'd hear from you.
Poems of flowers and caterpillars
And how shorts the days to gather the nectar.
(Này Bướm nếu em là thi sĩ
bài thơ nào em viết cho đời
về những bông hoa và những con sâu róm
về kiếp phù sinh và những giọt mật chắt chiu )
PCL
Qua Cửa Ải
GIỚI THIỆU: LỖ TẤN qua truyện QUA CỬA ẢI sau đây, đối chọi hai hiền giả thời cổ: Lão tử, được coi là người sáng lập đạo giáo mà nguyên lý nằm trong Vô Vi, có nghĩa là con người không cứ phải can thiệp vì thường là ý riêng, do chủ quan, mà nên "không làm" vì trời đất vẫn kết hợp không ngừng do đó không có gì là không làm; và Khổng tử là người đã cùng trường phái Nho học hơn hai ngàn năm nay độc tôn ngự trị đời sống chính trị và tư tưởng Trung Quốc. Hai trường phái đối nghịch trong thực tế đã bổ khuyết cho nhau, vì trong giới sĩ phu, rất nhiều người khi làm quan giữ lễ tục và theo quan cách Nho học, nhưng trong đời sống riêng tư, vẫn sống theo Ðạo giáo. Vì cái đạo của Lão trước hết vốn là một cách mạng cho chính bản thân và nội tâm; sau nữa, sống đạo cũng là sống cuộc sống hồn nhiên không đua chen không bày chuyện.
Sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đã kể lại cuộc đối thoại giữa hai vị, xin trích một đoạn:
"Khổng tử qua nhà Chu, đến vấn Lễ với Lão tử. Lão tử nói:
- Lời nói của ông là lời của những kẻ nay xương đã tàn, cốt đã rụi. Vả lại, người quân tử gặp thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi bộ. Tôi có nghe nói: kẻ buôn bán giỏi khéo giữ hàng hóa kỹ như không có gì, người quân tử đức hạnh thì dung mạo như kẻ ngu. Họ khác với cái kiêu khí và lòng đa dục của ông, thái sắc và dâm chí ấy không ích gì cho thân ông cả. Tôi sở dĩ nói cho ông biết cũng chỉ có bấy nhiêu thôi" (1)
Cuộc đối thoại giữa hai họ Khổng và Lão đã được nhiều sách ghi chép lại, như sách Trang Tử (các thiên Ngoại Vật, Thiên Vận), Lễ Ký (thiên Tăng Tử vấn), Sách Ẩn, Liệt dị truyện, Liệt Tiên truyện, vv.
Lỗ Tấn đã cắt nghĩa thế nào về những liên hệ giữa hai ông tổ của tư tưởng Trung Hoa? Chính Lỗ Tấn đã kể lại như sau:
"Sự việc Lão tử đi về phía Tây, vượt qua ải thung lũng Hàn, nguyên do gây nên cũng bởi một vài lời nói của Khổng tử, là chẳng phải do tôi khám phá mà cũng chẳng do tôi chế ra. Ba mươi năm trước ở Ðông Kinh tôi đã nghe họ Tưởng nói, về sau ông in lại trong "Sơ Cứu Về Triết Gia Cổ Thời"; dẫu sao tôi cũng không xem đó là chuyện lịch sử. Nhưng bù lại, chiến thắng của Khổng tử trên Lão tử, đó lại là ý tưởng của chính tôi. Họ Lão đặt NHU (2) lên trên mọi sự cũng như chữ NHO, kẻ sĩ, vốn nghĩa đen là "Mềm mỏng"; Khổng tử cũng đặt Nhu trên mọi sự. Nhưng trong khi Khổng Tử dùng nhu để đi đến hành động, thì Lão tử lấy nhu làm lý để lùi bước trước hành động. Lý do đó là Khổng tử vốn là người chủ động muốn làm cả những việc ông biết trước là bất khả thi, không bỏ qua chuyện gì mà không làm, trong khi đối thủ của ông là người nói hay nhưng không làm gì, thích cả những bàn luận xuông, vì rằng không có gì là không làm" (vô bất vi) (3). Tự ông đưa ông vào chỗ không làm gì, vì nếu ông tính làm việc gì, hành động của ông sẽ bị giới hạn, và ông sẽ không có thể lý luận "vô bất vi". Tôi thích lời châm biếm của quan lệnh doãn khi nói rằng Lão tử không thành công có vợ. Vì lý do đó, tôi đã vẽ hoạt kê chân dung ông, cho ông vượt qua ải quan, mà không chút nhẹ tay về số phần của ông" (4). Bài báo của họ Tưởng mà Lỗ Tấn nói đến ở trên, Sơ cứu về các triết gia cổ thời, thực sự đã đăng báo năm 1906, trong đó có đoạn:
"Sau khi đã khai thác hết hiểu biết của Lão tử và dùng mẹo đoạt lấy những cổ thư mà quản thủ họ Lão sưu tập được, Khổng tử đánh giá là học thuyết của ông, gốc gác từ thuyết của Lão tử, có giá trị và khác biệt với Lão học. Vì vậy mà Khổng không muốn tôn Lão tử làm thầy, nhưng lại sợ họ Lão tố cáo trò đạo văn, bèn nói với Lão tử rằng: "Loài quạ và ác là (5) thì ấp trứng, loài cá thì thấm nhiễm cá con, giống ong tò vò sinh thành do sự hóa thân từ một loài côn trùng khác, còn khi mẹ sanh em nhỏ thì đứa anh phải khóc". Ðây là ý nghĩa lời bí hiểm đó: "chính nhờ ngài mà tôi sẽ truyền lại Lục kinh cho hậu thế; vì tác phẩm của tôi xong trước sách của ngài, tên ngài sẽ mờ khuất, nhưng tiếc là tôi không thể làm được gì cho ngài". Vốn nhút nhát, lúc đó Lão tử cam chịu khuất phục. Hơn nữa khoảng thời gian đó, ông vẫn bị ám ảnh bởi cái chết của một xạ thủ tên Di bị đệ tử tên Phong giết. Lòng đầy oán hận, ông cũng muốn lột mặt nạ đối thủ, nhưng đệ tử họ Khổng thì định cư khá nhiều ở phía đông Trung Quốc, nếu họ Lão tố cáo họ Khổng buổi sáng thì tối đến chắc ông đã bị chặt đầu mất rồi; đó là lý do ông phải đi tránh xa về phía Tây và phải qua cho được cửa ải thung lũng Hàn, vì ông biết đám Nho học không có ở đất Tần, và cũng ở đó ông khởi viết sách Ðạo đức kinh để trình bày học thuyết của mình. Nếu sách này xuất hiện sớm hơn, Lão tử chắc đã không thoát khỏi bị tàn sát".
Chúng ta không biết những giả thuyết này phù hợp thế nào và bao nhiêu với sự thực lịch sử, nhưng chúng khá thú vị và tài tình, ít ra là cắt nghĩa được sự xung đột giữa hai trường phái Ðạo và Nho và cũng cắt nghĩa được sự ra mắt trễ tràng của cuốn Ðạo đức kinh, trong khi những người chép sử trước nay vẫn coi Lão tử là đàn anh của Khổng tử, sự kiện mà gần đây nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu phản đối. Hồ Thích trong Trung Quốc triết học sử đại cương (thiên 3, tiết 1) cho Lão tử hơn Khổng tử khoảng 20 tuổi. Phùng Hữu Lan thì cho rằng Lão tử là Lý Nhĩ chứ không phải Lão Ðam và sinh vào thời Chiến quốc tức sau Khổng tử.
Tuy vậy, chuyện lịch sử đáng tin cậy nhất vẫn là do Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ Sử ký nổi tiếng viết khoảng trăm năm trước Công nguyên (1):
Lão tử người xóm Khúc Nhân, làng Lệ, huyện Khổ, nước Sở. Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, có tên thụy là Ðam. Ông làm quan thủ thư coi kho sách nhà Chu, nắm chìa khóa kho học (do đó Lão tử còn được coi là người khai tổ cho Bách gia chư tử). Thấy nhà Chu suy, ông bỏ đi, đến cửa ải, quan doãn tên Hỉ khuyên ông viết sách để lại. Sách Ðạo đức kinh ra đời từ đó gồm hơn 80 chương năm ngàn chữ. Rồi bỏ đi, sau đó không ai biết ông đi đâu và ra sao (6).
Ðọc truyện Qua Cửa Ải sau đây, bạn đọc sẽ thấy thêm một số khía cạnh khác rất con người của hai ông tổ của tư tưởng Trung Hoa mà ảnh hưởng không ai có thể chối cãi được.
oOo
Lão tử ngồi thanh tĩnh, không một cử động, không khác gì một khúc cây vô tri. Một đệ tử tên Ðông Quách Tử đến gần nói nhỏ vào tai Lão tử với vẻ ngạc nhiên:
- Thưa thầy, Khổng Khâu lại trở lại!
- Hãy mời ông ấy...
Khổng tử cúi người cung kính chào Lão tử:
- Ngài mạnh khỏe chớ?
Lão tử trả lời:
- Tôi lúc nào cũng vậy; còn ngài? Chắc ngài đã đọc qua tất cả sách mà chúng tôi tàng trữ ở đây?
Trái với thói thường, Khổng tử trả lời với vẻ nôn nóng:
- Vâng, đã... nhưng... Tôi đã nghiên cứu Lục kinh: kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Nhạc, kinh Dịch và kinh Xuân Thu. Tôi nghĩ rằng tôi đã bỏ nhiều công điều nghiên và khá tường tận. Tôi đã được gặp 72 vua chúa chư hầu, nhưng chưa một vị nào chịu nghe tôi cả. Thuyết phục con người khó khăn đến thế sao? Hay là tại Ðạo khó mà truyền đạt?
Lão tử đáp lời:
- Nếu ngài chưa gặp được đấng quân vương thông thái, đó là điều may mắn. Lục kinh là đồ cổ, là những thứ trang điểm do các vua cựu triều đã để lại; làm sao Lục kinh lại có thể mở đường đi mới mẻ cho được; đường mòn được vạch ra lối là do chân người qua lại, nhưng ta không thể đồng hóa lối đi làm một với giày.
Sau một hồi ngẫm nghĩ, ông nói tiếp:
- Khi con chim diệc trắng mái nhìn trừng trừng mắt con đực, là lúc nó thụ thai. Loài sâu bọ thì nếu con trống hát giọng cao mà con mái hưởng ứng giọng trầm, lúc đó con mái thụ thai. Ðối với giống lưỡng tính (7), mỗi con có hai bộ phận sinh dục, do đó tự chúng thụ thai lấy. Không ai có thể hóa đổi thiên nhiên hay giòng sinh mệnh, mà cũng chẳng ai có thể làm thời gian đứng lại hoặc cản trở Ðạo! Nếu ta tìm được Ðạo, mọi sự trôi chảy tốt đẹp, còn nếu ta làm mất Ðạo, mọi sự tắc nghẽn.
Khổng tử nghe những lời đó, bàng hoàng như bị gậy đập lên đầu. Tâm trí bay mất, ông ngồi lặng yên không một cử động, chẳng khác gì một khúc gỗ vô tri. Khoảng tám phút trôi qua. Ông thở nặng nề, cuối cùng ông đứng lên và xin kiếu từ rất lịch sự, theo như thông tục, và cảm ơn Lão tử đã huấn dụ.
Lão tử không giữ khách. Ông cũng đứng lên và tiễn khách ra đến cửa thư phòng. Ðúng lúc Khổng tử sắp leo lên xe, Lão tử mới nói một cách máy móc:
- Ngài về à? Sao không ở lại dùng thêm chén trà đã?
- Cảm ơn, cảm ơn.
Khổng tử leo lên xe. Dựa mình vào thùng xe, ông giơ cao hai tay ra dấu từ giã. Người đệ tử liền đập hèo thúc ngựa: "Hế". Xe lăn bánh. Khi xe đã xa chục thước, Lão tử trở về phòng, ngồi lại chỗ cũ và tiếp tục thiền tĩnh.
Ðông Quách Tử đến cạnh Lão tử, hai tay duỗi thẳng bên hông:
- Thưa Thầy, hôm nay Thầy có vẻ hài lòng. Thầy nói hơi nhiều.
Lão tử trả lời, vẻ thoải mái sau khi thở phào nhẹ nhõm:
- Ðúng vậy! Ta nói hơi nhiều (Một ý tưởng chợt nẩy ra trong đầu ông). Này, ngỗng trời mà Khổng Khưu biếu ta đã muối khô chưa? Nấu rồi ăn hết đi. Dù sao, răng chẳng còn, ta có ăn cũng chẳng biết ngon.
Ðông Quách Tử rời khỏi phòng. Lão tử nhắm nghiền mắt, tọa thiền trở lại. Một sự yên lặng tuyệt đối trong tòa nhà; người ta chỉ nghe thấy tiếng gậy trúc đập đụng rường nhà ở bên ngoài: Quách Tử tìm cách gỡ con ngỗng muối khô treo dưới mái hiên.
Ba tháng trôi qua.
Lão tử ngồi thanh tĩnh không một cử động, chẳng khác gì một khúc gỗ vô tri. Vẫn đệ tử Ðông Quách Tử đến gần nói nhỏ vào tai Lão tử với vẻ ngạc nhiên cố hữu:
- Thưa thầy, Khổng Khâu lại trở lại! Cũng đã khá lâu chúng ta không gặp ông ấy; ông đến thăm có việc gì vậy Thầy?
- Hãy mời ông ấy...
Như cái máy, Lão tử lập lại mấy lời đó. Khổng tử cúi mình kính chào Lão tử:
- Thưa ngài, ngài bình thường chớ?
Lão tử trả lời:
- Tôi lúc nào cũng vậy. Lâu lắm nay mới gặp ngài. Chắc ngài vẫn đơn chiếc hoạt động đấy hả?
Khổng tử nhận với vẻ khiêm tốn:
- Ồ! Hoạt động gì đâu! Vì chẳng có dịp ra khỏi nhà, tôi ó dịp suy nghĩ nhiều, và rồi những suy nghĩ của tôi mang một vẻ hợp lý mới: loài quạ và ác là thì ấp trứng, cá dưới nước thì thấm nhiễm cá con, giống ong tò vò hóa thân từ loài sâu bọ, khi đứa em bú được vú mẹ thì thằng anh bắt đầu khóc đòi. Như tôi ở ngoài vòng biến hóa, làm thế nào để tôi có thể thay đổi người khác?
Lão tử trả lời:
- Ðúng thay! Ðúng thay! Suy nghĩ của ngài chí lý lắm!
Ðến đó, cả chủ lẫn khách không ai nói thêm lời nào. Hai người chẳng khác gì hai khúc cây vô tri. Tám phút trôi qua. Khổng tử thở nặng nề, đứng lên và xin từ giã thật lịch sự và theo thói quen, cảm ơn Lão sư đã chỉ dạy.
Lão tử không níu giữ khách. Ông cũng đứng dậy và chống gậy tiễn khách tới cửa thư phòng. Ðến khi Khổng tử chuẩn bị leo lên xe, ông lão mới buột miệng nói như máy:
- Ngài về à? Sao không ở lại dùng với tôi chén trà đã?
- Cảm ơn, cảm ơn.
Khổng tử leo lên xe. Dựa mình vào thùng xe, ông giơ cao hai tay ra dấu từ giã. Người đệ tử liền đập hèo thúc ngựa "Hế". Xe lăn bánh. Khi xe đã xa chục thước, Lão tử trở về phòng, ngồi lại chỗ cũ và tiếp tục thiền tĩnh. Ðông Quách Tử đến cạnh Lão tử, hai tay duỗi thẳng bên hông:
- Thưa Thầy, hôm nay Thầy có vẻ ít hài lòng. Thầy tiết kiệm lời quá!
Lão tử trả lời, có vẻ hơi thoải mái sau khi thở phào nhẹ:
- Ðúng vậy! Nhưng sao nhà ngươi biết? Ta nghĩ rằng ta phải rời khỏi nơi đây thôi (8).
Ðông Quách Tử hỏi thầy, ngơ ngẩn như vừa bị sét đánh:
- Như thế nghĩa là gì?
- Khổng Khâu biết hết ý ta. Ông ấy biết rằng ta là người duy nhất có thể thấu hiểu bí mật của ông, do đó ông ấy tỏ ra lo lắng. Thật là bất cẩn nếu ta không đi khỏi nơi đây.
- Ông ấy không theo một đạo với Thầy sao? Tại sao Thầy lại phải đi xa?
Lão tử dùng tay ra dấu và trả lời:
- Không, chúng ta không cùng đường. Có thể ta với ông ấy mang giày giống nhau, nhưng giày ta làm ra là để đi trên cát di động (9), còn giày ông ấy là để vào cung điện.
- Nhưng Thầy là sư phụ ông ấy mà!
Lão tử cười diễu:
- Nhà ngươi làm việc với ta nhiều năm qua mà vẫn còn dỡ đến thế sao! Quả đúng là không ai có thể sửa đổi bản tính con người hoặc định mạng. Phải hiểu là Khổng Khưu khác nhà ngươi. Từ nay ông ta sẽ chẳng bao giờ còn trở lại nơi đây, cũng sẽ chẳng bao giờ gọi ta là Thầy nữa, mà sẽ gọi ta là "lão phu" (ông lão) và sẽ chơi xấu ta nhiều trò khi vắng mặt ta.
- Nếu không phải do Thầy nói thì thật khó mà tin; trước nay Thầy vẫn xét người đứng đắn.
- Ðiều trò nói có thể đúng cho bây giờ, chớ lúc trước ta vẫn lầm luôn.
Sau một hồi đăm chiêu, Ðông Quách Tử nói tiếp:
- Vậy thì chúng ta phải tìm cách đối phó lại ông ta!
Lão Tử lại cười, sau đó ông há miệng thật lớn.
- Nhìn coi, ta còn cái răng nào không?
- Chẳng còn cái nào.
- Còn lưỡi thì sao?
- Lưỡi vẫn còn đó.
- Vậy nhà ngươi đã hiểu chưa?
- Thưa Thầy, Thầy muốn nói cái gì cứng sẽ biến mất trước hết, còn cái gì mềm sẽ tồn tại lâu? (10).
- Ðúng vậy! Ta nghĩ tốt hơn trò nên sửa soạn hành lý để trở lại quê nhà về với vợ. Nhưng trước hết hãy tắm chải cho trâu xanh, rồi lấy cương và yên ra phơi cho ta; ngay sáng mai ta sẽ cần đến.
oOo
Ðến cửa ải thung lũng Hàn, thay vì đi tiếp quan lộ sẽ đưa thẳng tới nơi, Lão tử kìm cương trâu xanh lại, rồi rẽ vào một con đường mòn chậm chậm đi quanh tường thành. Trước hết ông tính leo tường. Dù vậy, con trâu sẽ phải ở lại bên này thành; làm cách nào để vực nó qua bên kia được? Làm cũng được, nhưng phải có xe câu. Tiếc thay! Vào thời đó Lỗ Ban và Mặc Tử (11) vẫn chưa chào đời; về phần Lão tử, ông không có khả năng tưởng tượng ra máy móc loại đó. Những suy niệm triết học chỉ đưa ông đến ngõ bí.
Nhưng có điều ông không nghĩ đến, đó là vừa rẽ vào con đường mòn, ông đã bị lính biên phòng phát giác và liền báo cho quan doãn biên phòng. Ði chưa được bảy mươi hoặc tám mươi bước, ông đã bị đội lính rượt đuổi theo kịp.
Người lính tiền thám dẫn đầu, kế đến là quan lệnh doãn không ai khác hơn là Quan Doãn Hỉ (12), sau cùng là bốn người lính tuần và hai viên kiểm quan. Họ hét:
- Ngừng ngay!
Lão tử tức thì ghì con trâu xanh đứng lại, và thân mình ông hoàn toàn bất động chẳng khác gì một khúc gỗ vô tri.
Viên lệnh doãn phóng nhanh đến gần ông, nhận biết ra ông là ai bèn reo mừng ngạc nhiên.
Ông vội vàng xuống ngựa và nói thật lễ phép:
- Ồ! Ta tự hỏi người lữ khách này là ai! Nhưng Lão sư, quan thủ thư tàng thất đây chứ còn ai vào đây nữa! Thật là một cuộc hội ngộ kỳ thú!
Lão tử cũng vội leo xuống mình trâu. Ông quan sát người đối diện, mắt cứ nhấp nháy và nói xa vời:
- Xin lỗi... trí nhớ tôi kém quá!
- Ngài có quên tôi thì cũng tự nhiên. Tôi là Doãn Hỉ. Tôi có đến thăm ngài khi đến tàng thất tra cứu sách Thuế.
Trong khi đó, hai viên kiểm quan lục xét yên ngồi và gối đệm, dùi lỗ kiểm và thò một ngón tay vào. Sau đó, hai ông bĩu môi bỏ đi không nói một lời. Doãn Hỉ hỏi:
- Thưa Thầy, Thầy đi dạo quanh thành đấy chớ?
- Không; ta muốn ra khỏi thành đổi không khí.
- Ðúng! Ðúng lắm! Lúc này ai cũng để ý đến vệ sinh dinh dưỡng. Phép vệ sinh rất là quan trọng; nhưng đối với chúng tôi, đây là một cơ hội bất ngờ: Thầy ạ, Thầy nên ở lại đây vài hôm để chúng tôi có dịp được Thầy dạy dỗ.
Không đợi trả lời, bốn người lính khênh Lão tử bỏ lên lưng trâu; một trong hai viên kiểm quan đâm vào mông đít con trâu, con thú quắn đuôi té nằm bên bờ thành.
Ðại thính phòng được mở cửa để đón Lão sư. Ðại sảnh này ở giữa vọng tháp; từ cửa sổ, người ta có thể trông thấy cánh đồng chuồi dần về cuối chân trời. Bầu trời xanh thẳm, gió trong lành. Vọng tháp đồ sộ nổi bật bên trườn dốc cao; bên phải và bên trái là thông hào sâu. Giữa hai bờ hào ngập nước hiểm trở là một đường hẹp xe cộ có thể đi; hẹp có thể nói không quá đáng là một tảng đất sét cũng đủ để trám cả con đường.
Khi mọi người đã uống nước hâm nóng và ăn bánh tráng xong, và sau khi đã để Lão tử nghỉ ngơi, Quan Doãn Hỉ bèn mời ông giảng thuyết. Lão sư không thể từ chối, đành phải làm theo dù lòng không vui. Thính phòng đông đảo người xôn xao. Ngoài tám người dẫn độ Lão tử, còn có thêm bốn người lính, hai quan kiểm, năm tiền thám, viên thư ký, kế toán và đầu bếp; vài người đem theo viết lông, cọ dao và giấy tre (13) để ghi chép lời giảng.
Lão tử lấy chỗ ở giữa phòng, thinh lặng y như một khúc gỗ. Sau một lúc yên lặng, ông bắt đầu húng hắng ho. Ðôi môi ông cử động giữa hàm râu trắng; đám dự thính nín thở, tai mở rộng, khi ông chậm rãi bắt đầu giảng:
- Ðạo mà gọi được, không phải là Ðạo bằng cữu.
Danh mà có thể gọi được, không còn là Danh.
Không tên là gốc của trời đất;
Có tên là mẹ của vạn vật.
(Ðạo khả đạo, phi thường Ðạo;
Danh khả danh, phi thường danh.
Vô danh, thiên địa chi thủy;
Hữu danh, vạn vật chi mẫu)
Ðám dự thính chăm chú nhìn ông; chưa một ai ghi được một lời nào. Lão tử giảng tiếp:
- Bởi thế, nếu không tư dục mới nhận ra ra được huyền diệu của Ðạo. Nếu vẫn bị tư dục thì chỉ thấy chỗ chia lìa của Ðạo. Hai cái đó cùng một gốc với nhau; Dù cùng một gốc, tên vẫn khác nhau.
Ðồng hợp, nên gọi là Huyền bí,
Huyền bí của những huyền bí,
Là cửa ra vào hết thảy mọi huyền diệu (14)
Cả đám người nghe đều có vẻ thất vọng. Một vài người không biết bỏ tay chân nơi đâu. Một trong số kiểm quan ngáp ồn ào, viên thư ký bắt đầu ngủ gật: người ta nghe tiếng loảng choảng bút lông, cọ và tập giấy chuồi khỏi tay rớt trên chiếu. Lão tử giữ vẻ bình tĩnh như không thấy gì; tuy nhiên không có gì thoát khỏi mắt ông, và ông bắt đầu trình bày học thuyết một cách chi tiết. Không còn răng, cách phát âm của ông hết rõ ràng, rồi thổ âm địa phương huyện Khổ của ông lẫn với thổ âm Hồ Nam nhầm lẫn n với âm l; và nhất là ông có thói ngắt lời với những "ờ". Do đó cũng chẳng ai hiểu được gì hơn. Bài thuyết giảng kéo dài, người dự thính càng phải khổ sở chịu đựng.
Ðể khỏi mất thể diện, Lão tử tỏ ra kiên nhẫn. Nhưng rồi có người lăn vật ra chiếu, người khác cố chống tay để khỏi ngủ gật, mỗi người cố ý lo ra hoặc nghĩ đến chuyện riêng của mình. Vì lẽ đó Lão tử ngưng giảng sau khi nói; "Ðạo của thánh nhân là làm mà không tranh giành" (Thánh nhân chi Ðạo, vi nhi bất tranh) (15).
Nói đến đấy mà cũng chẳng ai cử động. Một lát sau, ông phải nói thêm:
- Ờ! Chấm dứt.
Nghe mấy tiếng đó, mọi người cứ như tỉnh mơ. Ðám cử tọa có thể đứng dậy lúc đó, nhưng vì ngồi quá lâu, chân họ đã tê cứng. Lòng họ tràn đầy vui sướng và ngạc nhiên, giống như họ vừa được khoan hồng.
Lão tử được mời sang nghỉ phòng bên cạnh. Ông uống vài hớp nước đã nấu và ngồi yên thanh tĩnh, giống như khúc gỗ vô tri. Bên ngoài phòng, mọi người hoang mang tranh luận với nhau. Cuối cùng, bốn người được đề cử đi gặp Lão sư: ông nói quá nhanh, ông nói đặc tiếng địa phương, vì thế mà không ai ghi chép được gì cả. Quả là đáng tiếc, một diễn văn hay như vậy mà không có được bản văn ghi chép lại! Lão tử được thỉnh mời viết ra để lại cho họ.
Viên kiểm quan nói lớn:
- Ngài giảng về đề tài gì vậy? Tôi không hiểu gì hết!
Một viên thư ký nói thêm:
- Ðã làm thì làm cho trót, ngài nên viết lại; như thế, ngài khỏi mang tiếng diễn thuyết vô ích!
Cả Lão tử cũng không hiểu lắm họ muốn nói gì; nhưng cứ nhìn bút lông, nào cọ, nào tập giấy bày trước mắt, ông đoán họ muốn có bài diễn thuyết. Không thể từ chối, ông đành phải nhận. Nhưng trời đã tối; ngày mai, ông sẽ bắt tay vào việc.
Sáng sớm hôm sau, trời u ám. Lão tử cảm thấy khó chịu trong người. Tuy vậy ông phải bắt đầu công việc vì ông muốn qua cửa ải càng sớm càng tốt, mà muốn rời khỏi khuôn thành, ông phải đưa bài viết. Ông đưa mắt nhìn qua đống bút giấy chất trước mặt, ông có cảm tưởng trong người càng khó ở hơn; nhưng không lộ ra mặt, ông bình thản ngồi xuống và bắt đầu viết. Ông nhớ lại những gì đã nói ngày hôm qua, ông viết lại những câu mà ông còn nhớ. Vào thời bấy giờ, kiếng thuốc vẫn chưa được chế nghĩ ra: ông cứ nhấp nháy hai mắt đã hơi lòa, yếu đến độ như chỉ thấy hai đường ngang thu hẹp; việc đó làm ông mệt nhoài. Ông chỉ ngừng để uống vài hớp nước đã nấu và ăn qua vài miếng bánh; và mặc dù ông làm việc chăm chỉ, một ngày rưỡi sau, ông cũng chỉ mới viết được năm ngàn chữ lớn. Ông nghĩ: "Chắc đã đủ để qua cửa ải".
Ông lấy hai sợi giây nhỏ xâu mấy tập giấy đã viết đồng thời chia làm hai phần (16). Sau đó ông chống gậy tới văn phòng Doản Hỉ để giao bài thuyết giảng, đồng thời ngõ ý xin lên đường tức khắc. Doãn Hỉ tạ ơn Lão tử mà ông gọi là thầy, và bày tỏ lòng nuối tiếc phải để thầy ra đi. Sau khi đã dùng đủ cách để giữ Lão tử, ông ta đành phải để ông ra đi mà mặt mày buồn thiu, ra lệnh một cảnh vệ thắng yên cho trâu xanh. Chính tay ông lấy trên kệ kho một gói muối, một gói mè, mười lăm ràng bánh và bỏ hết vào trong một bao vải tịch thâu từ những người phạm luật quan thuế, sau đó ông đưa tặng Lão tử làm lộ phí, nói rằng nhà văn lão luyện như ông rất xứng món quà tặng quý hóa đó. Nếu Lão tử trẻ hơn, ông chỉ đáng được tặng mười ràng bánh.
Lão tử nhận quà và cảm ơn ngàn lần. Ông bước xuống vọng tháp, đám dự thính tháp tùng theo. Qua khỏi cửa ải quan, ông muốn leo xuống mình trâu đi bộ, tay cầm cương dẫn trâu theo; nhưng Doãn Hỉ năn nỉ thầy lên lưng trâu, sau nhiều lần phản đối, ông đành phải chiều theo. Sau khi chào tạm biệt, ông giựt cương trâu, con thú chậm rãi đi xuống con dốc hiểm nghèo.
Trâu xanh đi mỗi lúc một nhanh hơn. Trước thành, tất cả hãy còn đứng đó, dõi theo người lữ khách. Xa từ bảy đến mười thước, người ta còn nhìn ra mái tóc bạc như tuyết, áo choàng màu vàng, con trâu xanh, túi vải trắng; sau đó chỉ còn thấy đám mây bụi vàng dày đặc che khuất người và vật, nét mờ dần trong một màu xám đều; và cuối cùng, người ta chỉ có thể nhìn thấy một đám bụi cuốn màu vàng che kín tất cả.
Ðám người đó trở vào thành. Như vừa thoát được gánh nặng, họ lên mặt vênh váo và miệng mồm ồn ào như vừa thắng lợi. Nhiều người hộ tống Doãn Hỉ vào văn phòng của ông. Viên kiểm quan lật xem mấy tập giấy nói với Doãn Hỉ:
- Bản thảo bài diễn thuyết đây sao? Chữ viết không xấu lắm. Tôi nghĩ nếu muốn bán lại, chúng ta có thể tìm ra người sưu tập bản thảo muốn mua.
Viên thư ký cũng xáp lại gần, xem tập giấy thứ nhất, đọc lớn tiếng:
- "Ðạo mà gọi được, không phải là Ðạo hằng cữu" (Ðạo khả đạo, phi thường Ðạo) Hừm! Lúc nào cũng mấy câu cổ lổ xỉ! Cứ nghe mấy người này nói lảm nhảm chỉ tổ nhức đầu, chán gớm!
Viên kiểm quan bỏ tập giấy xuống, tuyên bố:
- Thuốc chữa bệnh nhức đầu không gì hay hơn là giấc ngủ.
- A! A! A! Vậy thì tôi chỉ cần ngủ là xong! Nói không giấu gì, tôi đến nghe ông ta vì tôi cứ tưởng ông ta kể chuyện tình ái. Nếu tôi biết trước là chỉ nghe thứ chẳng ra gì đó, tôi đã chẳng phải đến ngồi lâu như vậy, chẳng khác gì cực hình.
Doãn Hỉ cười nói:
- Thì cũng là lỗi mấy người. Bây luận sai về con người ông ta. Ông ta không thể kể chuyện tình ái lăng nhăng vì ông ta chưa bao giờ yêu.
Viên thư ký ngạc nhiên:
- Làm thế nào mà ông lại biết chuyện đó?
- Nếu bọn bây không biết chuyện thì cũng là lỗi của bọn bây. Chắc là mấy người ngủ khi ông ấy nói "Không làm, nhưng không có gì là không làm được" (Vô vi nhi vô bất vi) (3). Ông là con người mà nguyện vọng cao như trời, nhưng mạng số thì trẹt phẳng như như một tờ giấy. Khi ông nghĩ rằng không có gì là không làm ra, ông rút về vị trí không làm gì hết. Như vậy khi ta bắt đầu yêu một người nào, ta không thể yêu hết mọi người. Hậu quả là, làm sao ông có thể yêu được, làm sao ông dám yêu? Bọn bây cứ nhìn lại chuyện mình xem: khi bây gặp một người nữ, đẹp hay xấu, thì bây nhìn cô ta một cách dịu dàng như thể bây đã chiếm được trái tim cô ấy. Cho đến ngày mấy người lấy nhau, như viên kiểm quan vậy, lúc đó bây mới biết thế nào là khôn ngoan.
Một làn gió thổi qua cửa sổ làm cả bọn rùng mình. Viên thư ký vội lái qua đề tài khác, hỏi:
- Lão phu đi đâu vậy? Mà ông lão muốn làm gì?
Quan Doãn Hỉ cười lạnh lùng trả lời:
- Lão sư cho rằng ông đến vùng cát chuồi; ông sẽ đến đích ấy mà! Một khi qua cửa ải rồi, ông sẽ hết muối lẫn bột, cả nước cũng sẽ rất hiếm. Khi nào bụng lép, ông sẽ trở lại với chúng ta.
Viên kiểm quan thích chí hét to:
- Lúc bấy giờ, ta sẽ đòi hỏi ông ta bản thảo khác. Nhưng cũng đừng phí phạm mấy ràng bánh. Chúng ta sẽ nói với ông ấy rằng chúng ta đỡ đầu mấy nhà văn mới ra đời, và với hai tập bản thảo, ông ta chỉ đáng được năm ràng bánh.
- Có thể ông ấy sẽ không chấp nhận đâu; ông ấy sẽ khó chịu và sẽ lầu bầu.
- Khi đã đói rồi, ai còn có thể nổi giận được nữa?
Viên thư ký múa tay:
- Nhưng tôi sợ là không ai đọc ba thứ cóp nhặt này; chúng ta sẽ lỗ vốn, sợ năm ba ràng bánh cũng là mất toi! Nói thí dụ mà chơi, nếu học thuyết của ông ấy dúng, quan lệnh Doãn của chúng ta đây sẽ phải từ chức và đi theo thuyết "vô vi" để trở thành một người không làm nhưng không có gì là không làm.
Viên kiểm quan phát biểu:
- Không sao! Lúc nào cũng có người đọc. Biết nên hỏi có nhiều quan lệnh doãn đang về hưu hay chính thật ra có nhiều ẩn sĩ chưa phải là lệnh doãn?
Ngoài xa, gió trổi lên cuốn bụi vàng làm tối nửa bầu trời. Quan Doãn Hỉ nhìn ra phía cửa vào và thấy có mấy người lính tiền thám và cảnh vệ hãy còn đứng đó nghe lén chuyện trong này:
- Bọn bây làm gì mà như trời trồng ở đó vậy hả? Trời tối là lúc mà bọn buôn lậu leo tường. Ði tuần nhanh lên!
Ðám lính phải bỏ đi. Trong thính phòng, mọi người đều lặng thinh. Viên thư ký và kiểm quan rút lui. Doãn Hỉ dùng tay áo phủi bụi trên bàn; ông cầm hai tập giấy và xếp lên kệ kho cùng chỗ với muối, mè, vải, đậu nành, bánh tráng và nhiều tang vật khác mà nhân viên quan thuế đã tịch thu được.
Lỗ Tấn
12.1935.
Nguyễn Vy Khanh dịch
CHÚ THÍCH:
(1) Tư Mã Thiên. Sử Ký. Lão tử truyện.
(2) Ðạo đức kinh, chương 43:
"Cái rất mềm của thiên hạ.
Thắng cái rất cứng trong thiên hạ".
(Thiên hạ chi chí nhu,
Trì sính thiên hạ chi chí kiên)
và chương 78:"Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh" (Nhu thắng cương, nhược thắng cường)
(3) Ðạo đức kinh, chương 48: "Không làm mà không gì là không làm" (Vô vi nhi vô bất vi).
(4) "'Thông hành' của truyện Qua cửa ải". Lỗ Tấn toàn tập, tập VI, tr. 525.
(5) Còn gọi là con khướu, thành ngữ có câu "nói như khướu"
(6) Sách sử cho biết Lão tử bỏ nước Chu để qua nước Hàn nhưng không hề cho biết tên cửa ải, có thể là Tán quan hoặc Ngọc môn quan. Thời xưa, muốn du hành vùng tây bắc Trung Hoa phải đi qua cửa này.
(7) Sơn Hải kinh, chương Nam Sơn: "Trên núi nọ có một loài thú tương cận với loài cáo, nhưng có bờm và có cả hai bộ phận sinh dục đực và cái. Người ta vẫn tin ai ăn thịt chúng sẽ khỏi phải ghen".
(8) Xem phần giới thiệu.
(9) Ý chỉ sa mạc vùng tây bắc Trung quốc.
(10) Lỗ Tấn muốn nhắc đến chuyện ngụ ngôn răng và lưỡi: "lưỡi nhờ mềm nên còn, răng vì cứng phải rụng" trong đối đáp giữa Lão tử và thầy của ông là Thường Tung (Lê văn Ðức. Việt Nam tự điển. Sài Gòn: Khai Trí, 1970. Phần 2, tr.213)
(11) Công Thâu Ban người nước Lỗ, còn được gọi là Lỗ Ban và được tôn là ông tổ nghề thợ mộc. Mặc tử, hiền giả chủ trương thuyết Kiêm Ái và Phi Công, là người có nhiều kiến thức về khoa học, như quang học (Học sinh tạp chí, Thương vụ ấn quán, 1930 - theo Ngô Tất Tố trong Mặc tử, tr.XÌI). Về hai nhân vật này, xin xem truyện Chống Chiến tranh cùng tập truyện cổ này.
(12) Còn có tên là Quan Doãn Tử. Theo sách Hán chí, phần Ðạo gia, nói ông bỏ chức quan doãn tức quan giữ cửa ải, mà đi theo Lão tử. Theo Thảo Ðường cư sĩ, có người đọc Sử ký của Tư Mã Thiên chép ngỡ rằng "Hi" là tên quan doãn, vì có thể quan doãn thấy Lão tử đến mà mừng, chứ không phải là tên Hỉ (Bách gia chư tử. Xuân Thu tái bản, quyển thượng, tr.261)
(13) Trước khi giấy được sáng chế, người xưa lấy tre hoặc gỗ chẻ mỏng dùng làm giấy; do đó khi viết sai, người ta dùng dao nhọn đục bỏ.
(14) Ðạo đức kinh, phần mở đầu sách, chương thứ nhất.
(15) Ðạo đức kinh. Câu cuối cùng của sách, chương 81.
(16) Ý nói chia tập Ðạo đức kinh làm hai thiên Thượng và Hạ.