vhnt, số 212
7 August 1996
Trong số này:
thư vhnt......................................................Phùng Nguyễn
T h ơ :
1 - Silent heroes .....................................................Ian Bui
2 - Theo phường du thủ bến An Ðông ...................Trần Hoài Thư
3 - Nhớ Seattle .................................Trương Nguyễn Thi Thanh
4 - Giấc mơ ngọn cỏ tôi ..........................................Cỏ Mơ
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
5 - Thực và hư trong văn chương .....................Trần Hữu Thục
T r u y ện N g ắn :
6 - Quê hương của Nhật Lệ ..........................Nguyễn Kỳ Phong
Bạn thân mến,
"Prague ngày tôi ra đi không được đẹp như ngày tôi đến." Tâm trạng này có thể hiểu được nếu người ta phải chọn một trong hai điều vô cùng quý giá: Quê Hương và Tự Do. Nhất là khi quyết định lại liên hệ trực tiếp đến số phận của Tình Yêu.
Tình Yêu, Quê Hương, Tự Do! Những danh từ lớn lao mà vô cùng gần gũi. Bởi vì mấy ai trong chúng ta có được hết những điều này, có mấy ai chưa phải phân vân, lựa chọn chỉ một trong những điều này trong quãng đời viễn xứ "Quê Hương của Nhật Lệ" mà chúng ta có cơ hội thưởng thức trong số vhnt này đưa ra một vấn nạn và đồng thời một lời giải đáp, theo góc nhìn của tác giả. Câu truyện viết đã hơn mười năm, nay đọc lại vẫn có tính thời sự, ngoài phần giá trị văn chương không thể phủ nhận được.
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người...
Ðỗ Trung Quân
Vậy thì tại sao nhân vật xưng tôi của Nguyễn Kỳ Phong lại không chọn Quê Hương, và cả người con gái mà hắn yêu tha thiết? Xin dành câu trả lời cho các bạn.
thân ái,
Phùng Nguyễn
Silent Heroes
Against all odds they came
Some without even a name
For every one who finished first
Scores more had quenched their Olympic thirst
Being simply a player of the Games,
Not even an impossibly long shot of a chance
Could have dissuaded them from coming
Not politics, neither terror, nor pain
Only a conviction of that which makes us human
Undeterred by our own superficial restraints.
Against all odds they came
Some without even a name
To display their insignificant marks
Before a field of athletic giants
In proud obscurity and quiet exuberance,
Though dreams of gold rarely come true
For fate can only pick a few
They raced their hearts and leaped their souls
Toward new heights seemingly unreachable
If only to themselves a promise to prove.
Against all ođs they show
Us how to win even when they lose.
96'8
ianb
Theo Phường Du Thủ Bến An Ðông
Ngày hôm ấy tôi lênh đênh vô định. Gọi thầm sương và khói mông mênh. Lòng cảm động mờ trên từng lá nhỏ. Xanh và xanh yêu dấu. Vô chừng. Tôi chẳng dấu lòng tôi hờn dỗi. Theo lăn hoài ngày một ngày hai. Kìa con sóc xám băng đường chẳng sợ. Kìa hàng cây trắc bá ôm tay. Hai và bốn lũy thưà hai cũng vậy. Kiếp đời thành vô tận âm dương. Tôi nhắm mắt hôn thì thầm bụi cồ Xanh mùa xuân vô lượng vô chung. Triền diễm mộng kiều nga nhụy thảo. Mắt lạnh lùng sâu thẫm một hồ gương. Tôi không dám run tay buông chấm phẩy. Sợ giòng sông hụt hẫng không trôi. Ai đã đẩy khối sầu lên thạch nhũ. Và ai còn cứ gọi mãi trời bên. Ai đã đứng mong manh rừng lau tội. Tóc rũ dài gió lộng bến lênh đênh. Ai không khóc sao tôi đây phải tủi. Ơi ơn đời lệ ai khóc dùm tôi. Tôi bỏ mẹ nên theo phường du thủ. Tôi bỏ cha nên ngạo mạn du côn. Tôi bỏ hết lên trần xe tinh đẩu. Bạn vầng trăng cô độc bến An Ðông. Sao lại nóng như cay cay trời hỡi. Sao lại chùng lại chạnh. Vì sao. Ơn vô lượng tôi trả bài học thuộc. Ân lượng ơi. Ân lượng sao không trao. Tôi sẽ nén nuốt thêm ba trái khổ. Em biết không quả đắng mà ngon. Ngon ghê gớm khi hột qua tân khổ. Khi thịt mềm đắng chát héo hon.
Ngày hôm ấy tôi lên xe bỏ lớp. Theo vầng trăng cô độc mênh mông. Nhòa nhạt lạnh chòm Ðại Hùng hun hút. Vì sao nào trở lại miền Nam. Tôi cũng muốn người chăn cừu cô lẻ. Tôi cũng thèm em ngủ trên vai. Yêu dấu hỡi. Sao vẽ vời để dỗ. Ðời lênh đênh núi lạ sông dài. Trăng dài bãi hằng hà tinh hệ. Một ngụm trăng còn lại đọng trên tay. Tôi già mục. Lòng xanh như bậc đâ Rêu phong đầy Ðại Nội. Ô hay. Thì ô hay trăng là trăng miên viễn. Xe thì lăn. Ðèn đóm lập loè. Khi cuối tận là khởi đầu tiếng khóc. Chắc tôi phải về xin chút bao che.
Ngày hôm ấy tôi lên xe về phố. Bạn bè đâu tìm một chút tình thân. Lầu vách dựng che một trời cổ độ. Mái tình ai đã phủ rêu rong. Con đường ngược mà hồn tôi trải thẳng. Lòng ô hay gợn một chút bâng khuâng. Thương khu Sáu mấy thằng ra sông tiễn. Người em về nơi bến lạ Tầm Dương. Tôi thèm lại cùng chiếc bàn quạnh quẽ. Cốc xây chừng un sợi khói thanh xuân. Thì phố lạ. Sao lòng tôi giận dữ. Ði. Ði đâu cho một cuộc hành trình. Ðừng quyến rũ tôi trở về tội nghiệp. Mắt môi người. Tôi bỏ lại xa xôi.
Ngày hôm ấy tôi lên xe về núi. Núi có buồn kéo tận Trường Sơn. Có hòn đá xưa bỗng thành thiên cổ. Chinh phụ ơi thương người hay thương con. Chinh phụ ơi đừng nghe lời huyễn mị. Vai người mềm sao gánh hết cô đơn. Tôi bỗng giận những phường sách vở. Dẹp quăng đi những dụ dỗ thiên đường. Vâng thưa chị thưa em thưa mẹ. Hai thúng tròn đã đổ bóng Triệu Phong. Bên đầu gánh. Con thơ tròn một tuổi. Bên đầu kia là gánh nhớ nhung. Gánh nhớ nhung ấp đầy động cát. Ấp đầy sông Thạch Hãn Cửu Long. Ai đã cất bài ru con Nam Bộ. Nghe đất trời nhỏ lệ Việt Nam.
Ngày hôm ấy tôi lên xe về biển. Sương mù sương tôi run rẩy đèn phạ Tôi rất sợ khi qua rừng qua núi. Em biết không rừng núi cũng bơ vơ. Thì bơ vơ tôi phải về bản thổ. Thì bơ vơ tôi đã gọi bên trời. Ai ở đó, dịu mềm như liễu rũ. Sao bạo tàn đóng phập cả đời tôi. Ai ở đó, không ai ở đô Trời đã đêm đã sáng đã ngày. Màu lục thủy cũng là màu hồng thủy. Thái Bình Dương thì cũng nghĩa trang dương. Ai ở đó, ngàn năm đôi mắt tội. Một trăm năm tôi ra biển gọi thầm.
Vâng bạn ạ. Ðừng kích truy giòng ch Ðừng bận tâm đừng bắt bẻ điệu vần. Tôi yếu đuối không còn thêm chấm phẩy. Trời đầy sương tôi chẳng thấy chữ hàng.
Trần Hoài Thư
Nhớ Seattle
Seattle mưa thế nào anh nhỉ?
ào ạt cơn nước lũ
hay ngậm ngùi từng sợi ngọt li ti?
Tháng bảy,
bên này cũng mưa
cũng áo ấm
cũng bếp hồng
hạnh phúc lặng câm
một mình ngủ say
ngoài sân tiếng trẻ con cười rúc rích
niên thiếu sống lại
như mỉm cười
như cựa quậy trong mơ...
Seattle có sương mù xuống thấp?
có thông reo thơm ngát mỗi mùa đông?
thác thầm thì tiếng tình tự muôn năm
chim lũ lượt kéo nhau về ẩn trú?
Seattle núi đồi đèo nhau ngủ?
đôi tình nhân khoác áo bước thật yên
tay chạy dài, mảnh tóc rối tung
em gái nhỏ đôi mắt buồn ươn ướt
Seattle chiều về, ôi, chắc chậm?
sẽ có kẻ yêu nhau
sẽ có người quấn quít
để bóng chìm trong nhịp thở bâng quơ
Seattle, có phải là thơ?
Seattle, chưa qua mà đã nhớ !
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Giấc Mơ Ngọn Cỏ Tôi
Tôi là ngọn cỏ nhỏ
Say đắm ánh mặt trời
Ðêm đêm hằng thao thức
Cỏ đợi ánh bình minh
Tôi là ngọn cỏ nhỏ
Yêu tha thiết mặt trời
Như tình yêu hé nụ
Tự bao giờ, cỏ mơ
Tôi là ngọn cỏ nhỏ
Yêu đắm đuối mặt trời
Mặt trời kia có biết
Cỏ vẫn sống vì đâu?
Cỏ cố vươn lên mãi
Mơ ước đến một ngày
Cỏ tôi cùng chung bước
Không còn biết đêm đen
Cỏ vẫn hằng mơ ước
Nhưng mơ đến bao giờ?
Mặt trời cao nào hiểu
Giấc mơ ngọn cỏ tôi
Cỏ Mơ
E.S. Hè 1996
Trần Hữu Thục là tên thực của Trần Doãn Nho, người có nhiều tác phẩm đăng trên một số tạp chí VHNT tại hải ngoại. Bài này trích từ Văn Học số 124 8/96 và có liên quan mật thiết đến chủ đề "Hiện thực và Tưởng Tượng" của NXH.
Phùng Nguyễn
Thực Và Hư Trong Văn Chương
Trong một bài viết về Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh (1), Trần Hoài Thư nêu lên nhiều chi tiết Bảo Ninh dùng để mô tả người lính thám báo VNCH là không đúng với sự thật, cả về tác phong lẫn hành vi, nhiệm vụ. Theo Trần Hoài Thư, Bảo Ninh đã "dối trá", "vu khống", "phóng đại". Anh còn phát hiện thêm một điểm nữa là ở Ban Mê Thuột không hề có một nữ cảnh sát viên nào như trong truyện của Bảo Ninh đã nêu ra.
Trên tờ Hợp Lưu số 28, một độc giả phê bình truyện Ngọn Núi Khuất Hình của Trần Vũ có nhiều chi tiết sai trật trầm trọng: một trung đội trưởng BÐQ đi đóng đồn, nhiều từ ngữ không đúng với thời độ. Theo vị độc giả "dù là truyện hư cấu nhưng chất liệu không thể đi quá xa sự thật."
Trong lúc đó, trong lời kết của bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa Biển Ðộng, Nguyễn Mộng Giác lại phải cải chính một số dư luận cho rằng một số nhân vật của ông là có thực. Ông quả quyết rằng tất cả đều là hư cấu. Vậy thì, trong tiểu thuyết, truyện ngắn, đâu là giới hạn của cái thực, đâu là giới hạn của cái hư? Chi tiết nào đòi hỏi phải chính xác, chi tiết nào không cần phải chính xác?
Văn chương là sản phẩm của trí tưởng tượng. Nó là hư cấu, dĩ nhiên. Xét trên toàn thể, nó hoàn toàn bịa đặt, từ kết cấu, nhân vật, và các chi tiết... Phải hư cấu nó mới thành truyện. Bởi nếu không, nó sẽ chỉ là một bài phóng sự, một bài tường thuật. Ðây không phải chỉ nói về người viết, người sáng tác. Về phía người đọc, cũng có một sự phân biệt như thế. Thái độ khi đọc một tác phẩm văn chương khác hẳn khi đọc một bài phóng sự. Có một sự đồng cảm có-tính-con-người giữa người viết và người đọc: yêu thích sự bịa đặt. Không chỉ là yêu thích, mà là một nhu cầu. Bịa đặt làm người ta khoái cảm hơn sự thực. Nó kích thích một số cảm giác vốn ít có hoặc không hề có khi đứng trước những sự kiện có thật.
Có một dạo, trước năm 1975, tôi viết một truyện ngắn. Câu chuyện hoàn toàn lấy chất liệu từ kinh nghiệm cá nhân. Ðó là một chuyện tình: rất lãng mạn, rất lạ, rất tiểu thuyết. Nhiều chi tiết tôi được trải qua kinh nghiệm sống thực mà như bịa. Lấy cảm hứng từ đó, tôi cố gắng viết y như nó đã xảy ra. Tôi ghi gần như đúng hoàn toàn những cử chỉ, những chi tiết, những câu nói, cũng như đoạn đầu và kết thúc của câu chuyện, với hy vọng đây là một chuyện tình hay, vì nó sống động, "có thật". Thế mà, khi gửi truyện cho một tờ báo nọ, người đọc truyện bảo rằng truyện đọc sao nó lủng củng, gượng gạo và không hay, đồng thời đề nghị tôi nên dựa trên những chi tiết đó mà viết lại. Tôi giận thầm và tất nhiên, chẳng thèm viết lại. Mãi một thời gian sau, khi câu chuyện không còn ám ảnh nữa, tôi lấy truyện ra đọc lại, và phát hiện ra rằng người thư ký tòa soạn nhận xét hoàn toàn đúng. Truyện ăm ắp chi tiết, nhưng nó "kỳ kỳ," giả giả, lấn cấn làm sao ấy. Ðã thế, nó lại có vẻ "bịa đặt" nữa.
Ấy thế mà, những Kim Dung, Ngô Thừa Ân..., sư tổ về chuyện bịa, truyện của họ lại y như thực. So với những tác phẩm hiện đại được sáng tác căn cứ trên đời sống thực tế quanh ta, những Tây Du Ký, Anh Hùng Xạ Ðiêu, Lộc Ðỉnh Ký... chứa đầy tính cách hoang đường, xa rời thực tế. Những nhân vật, tính cách, biến cố trong tác phẩm này tuy dựa vào lịch sử, nhưng vượt ngoài tầm nhận thức thông thường. Chúng mang tính siêu nhiên, thần thoại. Các tác giả đã đẩy tính hư cấu lên đến mức tột cùng. Họ xào nấu lịch sử, biến tính con người, tạo ra một thế giới khác hẳn thế giới chúng ta "... thông qua tài năng sáng tạo, dựa vào tưởng tượng hư cấu, nhà văn Hương Cảng thường tạo được cho người đọc cảm giác của sự thật, thường dẫn dắt được độc giả đến chỗ công nhận những điều mình mô tả là hợp lý. Sự thành công của cây bút viết truyện chưởng nằm ở điểm đô Kim Dung thấy hết quyền hạn và tin tưởng vào khả năng hư cấu của mình. Ðể khi cần thì thêm thắt, cải biến. Bởi truyện chưởng đâu phải chỉ thuần là cóp nhặt tư liệu lịch sử, tổng hợp dữ kiện quá khứ, hệ thống hóa tri thức thư tịch." (2)
Mặt khác, Ngô Thừa Ân, Kim Dung đẩy những nhân vật của mình ra ngoài cuộc sống bình thường, nâng chúng lên thành khái niệm và hình tượng. Tính cách của nhiều nhân vật Kim Dung chỉ có thể tìm thấy trong các định nghĩa. Tình yêu lý tưởng kiểu Ðoàn Dự hoặc Du Thản Chi chẳng hạn: yêu một người là làm mọi cách cho người mình yêu được hạnh phúc, không cần được đáp lại. Ðời sống và tính cách "cổ quái", "bất thường" của vô số nhân vật trong Kim Dung, thực ra là những hình ảnh được "khái niệm" - vốn chỉ dùng trong các suy tư triết lý - mang hình hài con người, "xuống núi" và sống chung đụng với chúng ta. Thật là thú vị khi đọc đến đoạn Hồng Thất Công và Âu Dương Phong ôm nhau chết sau một trận đánh cuối cùng bất phân thắng bại. Nó gợi cho ta cái quan điểm "phi thiện phi ác", "phi chính phi tà", "bất nhị"... Rất nhiều tình tiết và nhân vật rõ ràng là phản ảnh những phạm trù triết lý của Phật giáo hay Lão Trang.
Trong Tam Quốc Chí, tác giả hư cấu trên những sự kiện lịch sử. Ðây là một loại tiểu thuyết lịch sử, trong đó thực và hư pha trộn một cách tài tình đến nỗi rất khó phân biệt đâu là sự thực lịch sử, đâu là chi tiết tiểu thuyết. Những nhân vật rất "đời thường", rất "lịch sử". Những chi tiết cũng như cách bố cục được hư cấu để diễn tả một số quan điểm chính trị, nhân sinh. Nhiều nhân vật lịch sử mà cá tính của họ được điển hình hóa, khuôn mẫu hóa: lòng nhân từ của Lưu Bị, chất gian hùng của Tào Tháo, trí thông minh của Khổng Minh. Nhiều biến cố lịch sử được dựng lại một cách sinh động, bằng cách thêm thắt những chi tiết tiểu thuyết, tạo nên những đoạn văn khi thì thơ mộng, khi thì hùng vĩ, khi thì dữ dội, gây nên những ấn tượng đặc biệt đến nỗi dù có đọc đi đọc lại nhiều lần, ấn tượng đó vẫn đậm nét. Như đoạn mô tả về cái chết của Khổng Minh. Tôi đã đọc Tam Quốc Chí hàng chục lần, mà lần nào đến đoạn này, tôi cũng vẫn cứ xúc động y như mới đọc lần đầu. Ngụy Diên vô ý làm tắt đèn, Khổng Minh bố trí cách để giữ tướng tinh khỏi sa sau khi chết được "bịa" một cách tuyệt vời. Biến cố có ý nghĩa nhất của thời Tam Quốc là cuộc hội ngộ Khổng Minh - Lưu Bị được mô tả bằng những hình ảnh, sự kiện tiểu thuyết nối tiếp nhau, vừa thơ mộng vừa huyền bí vừa "thật". Ðọc xong chỉ có ngậm mà nghe!
Hiện thực hơn trong kho tàng tiểu thuyết cổ điển Trung quốc như Hồng Lâu Mộng hay Nho lâm Ngoại Sử, cách hư cấu rất gần gũi với tiểu thuyết hiện đại. Chúng mô tả chuyện đời thường, trong đó ta có thể tìm thấy hình ảnh của chính mình, gia đình mình, bạn bè mình. Nho Lâm Ngoại Sử sống động, cụ thể như một phóng sự. Các nhân vật là những người bình thường, thậm chí rất tầm thường. Họ ăn, ngủ, chơi, nhậu, đi, đứng... như... chúng ta. Chẳng có biến cố nào ghê gớm ngoài những biến cố cá nhân, đôi khi vốn chỉ là những điều vặt vãnh, vô nghĩa. Cái thực và cái hư rất chung chung. Thực là những điều ta thấy, ta nghe, ta cảm giác. Hư là cách sắp xếp các chi tiết ấy thành truyện.
Cũng như thơ ca, đặt ra một câu chuyện và kể lại một câu chuyện là một cách giải trí có tính cộng đồng. Có người đặt chuyện, có người kể chuyện và có người ngồi nghe. Nói khác đi, có tác giả và có thính giả (hay độc giả). Một câu chuyện chỉ có thể thành hình, tiên quyết, phải có những dữ kiện lấy từ thực tế. Lúc đầu, người ta chỉ kể lại những gì người ta nghe, thấy, sờ mó. Nhưng nếu chỉ có thế thì câu chuyện không thành chuyện, hoặc thành chuyện nhưng không hay. Vì đó chỉ là những nhận xét chắp vá, hoặc chỉ là một số câu nói cụt ngủn. Một câu chuyện, trước hết phải có nhiều chi tiết, tình tiết được sắp xếp theo một trình tự nào đô Có như thế thì người nghe mới hiểu. Hiểu không chưa đủ. Phải xúc động, cảm thông, nghĩa là có sự biểu lộ tình cảm đối với câu chuyện. Ðiều này đòi hỏi câu chuyện phải lôi cuốn, hấp dẫn. Ðây chính là bước khởi đầu của hư cấu. Từ những gì xảy ra trong thực tế, người ta xây dựng một câu chuyện có đầu có đuôi, thêm mắm dặm muối, cường điệu điểm này, bỏ qua điểm kia, thay đổi một số chi tiết, thêm vào một số chi tiết mới...
Như thế, một câu chuyện tự nó đã mang tính cách hư cấu. Thậm chí, ngay cả một phóng sự - mô tả sự kiện - cũng bao hàm đặc tính hư cấu hiểu theo nghĩa nó phải được đẽo gọt, thêm thắt, chọn từ, sắp xếp thứ tự, mô tả ngoại cảnh. Bởi vì, cho dù cố giữ thái độ khách quan đến đâu, khó mà tác giả không bị điều kiện hóa bởi tâm thức của mình. Một câu chuyện, xét cho cùng, là hình ảnh của tâm thức người sáng tạo về một biến cố ngoại giới nào đó. Nói một cách khác, tâm thức liên kết những chi tiết rời rạc, vô nghĩa của sự vật vào trong một tổng hợp gọi là biến cố và do đó mang cho sự vật một ý nghĩa.
Hư cấu là một quá trình đi từ các chi tiết "hỗn độn" (thực tế) đến sự hình thành một kết cấu hoàn chỉnh, trải qua nhiều bước khác nhau. Các bước này thay đổi thứ tự tùy theo tác giả hay tình huống của sự kiện, có thể được mô tả theo một lược đồ như sau:
chi tiết hỗn độn => sắp xếp trình tự (không gian, thời gian) => nhận thức tiên khởi (tư tưởng, tình cảm) => thêm thắt các chi tiết mới =`> chọn ý tưởng chủ đạo =`> tưởng tượng, cảm hứng => câu truyện
Bao trùm lên trên là vấn đề kỹ thuật.
Có thể nói đây là một quá trình "tâm thức hóa" thực tại. Theo quá trình này thì rõ ràng câu chuyện vừa kể không thể cắt đứt khỏi các chi tiết căn bản (thực tại), vừa không giống hay khác hẳn các chi tiết căn bản. Sau khi được nhặt nhạnh từ ngoại giới (bằng giác quan), các chi tiết được tinh chế, gạn lọc, đẽo gọt trong bộ máy tâm thức. Quá trình này, trong nhiều trường hợp, hầu như là một quá trình động và khép kín. Không những nó hoạt động căn cứ trên những chi tiết vừa có, mà còn nối kết với những chi tiết được tích lũy sẵn từ trước và những chi tiết do tưởng tượng tạo ra. Cần nhấn mạnh là các chi tiết tưởng tượng không hề được hình thành từ hư vô. Chúng cũng được xây dựng trên thực tại nhưng vì cách kết hợp các chi tiết trong một kiến trúc phong phú, nên trông như chúng chẳng hề dính dáng đến thực tại. Chẳng hạn hình ảnh một thiên thần có cánh bay có thể là một kiến trúc tâm lý gồm có:
người + trời + cánh chim + bay + (mơ ước được) bay như chim
Chính cách kết hợp các chi tiết quyết định bản của câu chuyện:
- hiện thực: nối kết các chi tiết có tương quan gần gũi nhau, ít có sự can thiệp của các chi tiết tưởng tượng.
- siêu thực: nối kết các chi tiết ít có liên quan với nhau hoặc cách nhau quá xa, hoặc không dính dáng gì với nhau, ít ra là trên bề mặt.
- hoang đường, thần thoại: nối kết các chi tiết tưởng tượng và phóng đại.
Cũng chính cách kết hợp - tức là hư cấu - quyết định mức độ hư cấu. Nhưng người ta không thể hư cấu hoàn toàn được. Thứ nhất là vì chất liệu để hư cấu không thể lấy từ hư vô. Thứ hai là, một hư cấu hoàn toàn sẽ mất tính sống động, hấp dẫn của câu chuyện. Nhận xét này dẫn ta đến một hệ quả khác: nếu ít hư cấu quá, tức là cách kết hợp các chi tiết đơn giản quá, câu chuyện sẽ sần sùi, thô, nhạt nhẽo, đôi khi vô nghĩa; nếu hư cấu nhiều quá, câu chuyện sẽ xa rời thực tại, đi đến chỗ lỏng lẻo, vô duyên.
Ta thử lấy một ví dụ. Ta có các chi tiết sau: vua, Quang Trung, Ngọc Hân, nói tục, chững chạc, dịu dàng, đàn ông, đàn bà, nông dân, công chúa. Có nhiều cách kết hợp:
1. Quang Trung + nông dân + đàn ông + chững chạc...
2. Quang Trung + đàn ông + nói tục...
3. Ngọc Hân + đàn bà + công chúa + dịu dàng...
4. Ngọc Hân + đàn ông + nói tục...
Hư cấu 1 và 3 là bình thường. Hư cấu 2 đặc biệt. Hư cấu 4 phi lý. Nguyễn Huy Thiệp chọn hư cấu 2 (trong Kiếm Sắc). Vua Quang Trung, trong thực tế, có thể không hề nói tục trước quần thần, nhưng kiểu hư cấu này có lý, chấp nhận được và hay. Còn hư cấu 4, Ngọc Hân kết hợp với nói tục có thể được (nhưng không hay), nhưng nếu kết hợp với đàn ông thì vô lý; tuy nhiên, giả sử ta thêm vài chi tiết khác như: giả dạng, đi trốn... chẳng hạn, thì tính hư cấu biến chuyển và trở nên có lý, có thể chấp nhận được. Sự phong phú, sáng tạo nằm ở chỗ chọn chi tiết và sắp xếp chi tiết. Một tác phẩm văn chương ra đời cũng như sự ra đời của một đứa bé vậy: các yếu tố di truyền khác nhau hội tụ lại để tạo nên đứa bé, một thực thể hoàn toàn mới, nhưng không hề cắt đứt với nguồn gốc: nét giống mẹ, nét giống cha, nét giống ông nội, nét tựa bà dì...Ta bảo một đứa bé hao hao giống ai đô Tác phẩm văn chương mang đặc tính "hao hao" như vậy.
Nhưng nhà văn lấy các chi tiết từ đâu? Tâm thức con người như một thùng chứa các chi tiết. Qua các giác quan, chi tiết đi vào tâm thức: hình ảnh, màu sắc, âm thanh, xúc cảm... và biến thành tài sản của tâm thức. Theo các nhà phân tâm học, tất cả các chi tiết đã lọt vào tâm thức không hề biến mất. Chúng tồn tại mãi dưới dạng những biểu tượng, hình ảnh. Chúng có thể nằm rất sâu dưới đáy, không hề xuất hiện (hiện tượng quên), hoặc chập chờn đâu đó (lúc nhớ lúc quên), hoặc cứ xuất hiện trở đi trở lại (ám ảnh)... Chúng đi vào tâm thức ta do ta nghe thấy, cảm giác tại chỗ hoặc do kể lại, do đọc sách, do học hành, do tưởng tượng. Chúng cũng có thể hình thành do sự suy đoán dựa trên nguyên tắc tương tự trong bản chất con người (thất tình lục dục). Chính nhờ thế, mà nhà văn có đầy đủ chất liệu để nối kết, lắp ghép. Nhà văn cóthể tả những nơi họ chưa hề đến, những người họ chưa hề gặp, đào sâu trong quá khứ (tiểu thuyết lịch sử), phóng vút vào tương lai (khoa học giả tưởng), hay tạo ra những hình tượng, những biến cố không thể có trên cõi trần này (thần thoại, kiếm hiệp). Tất nhiên, những gì ta bắt gặp, cảm giác tại chỗ thì phong phú hơn, đa dạng hơn, đặc thù hơn, "thật" hơn là chỉ ngồi một chỗ mà tưởng tượng và suy đoán bằng một ít kinh nghiệm hời hợt.
Tuy nhiên, không phải lúc nào và ai cũng bắt gặp được những chi tiết độc đáo, đặc thù của sự vật. Phải nhạy bén, phải có kinh nghiệm - và tất nhiên, óc tưởng tượng - thì chúng mới lộ ra với ta. Sự vật thì trần trụi, nhưng ẩn chứa vô vàn ý nghĩa. Không phải luôn luôn chúng ta thấy được, nắm bắt được. Phải ở một góc độ nào đó, thời điểm nào đó, nó mới hiển lộ. Mặt khác, cũng phải có nỗ lực đào xới, lục lọi. Ðể hình thành tác phẩm vĩ đại Chiến Tranh và Hòa Bình, Tolstoi đã phải để ra cả chục năm sưu khảo tài liệu, ghi chép tại chỗ các chứng tích, quan sát cuộc sống, ghi nhận các tính cách cá tính. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, ông phải tập trung, "store", "save" một lượng thông tin, "data" lớn để từ đó mới có cơ sở để lắp ghép, kết hợp vặ bịa đặt, nghĩa là hư cấu.
Thành thử, một nhà văn có tài đúng nghĩa phải biết hư cấu từ cái có thật chứ không phải là hư cấu từ cái... không. Một nhà văn đi nhiều, sống nhiều, nghiên cứu nhiều thì đề tài thường mới lạ, cốt truyện đa dạng, chi tiết sâu và sống. Một nhà văn chỉ sống quanh quẩn đâu đó, lại lười đọc, ưa cóp nhặt linh tinh thường chỉ đẻ ra được loại tác phẩm "trong nhà ngoài phố". Chi tiết nhiều nhưng sắp xếp vụng về sẽ đưa đến lủng củng. Chi tiết ít, nhưng có chọn lọc, truyện trở thành phong phú.
Nếu hiểu hư cấu như vừa phân tích thì rõ ràng câu hỏi "nên hư cấu đến đâu?" sẽ phải là: "nên hư cấu như thế nào?" Tạ Triệu Chiết đời Minh cho rằng "Phàm vi tiểu thuyết cập tạp kịch hí văn, tu thị hư thực tương bán" (viết tiểu thuyết, kịch, hý văn nên thực một nửa hư một nửa). Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa được cho là có "bảy phần sự thực, ba phần hư cấu" (3). Trừ nhà sử học, đứng về mặt độc giả nói chung, thật khó mà xác định thế nào là "thực hư tương bán", hay "thực thất hư tam". Vả lại, khi thưởng thức một tác phẩm văn chương, thực tế cũng chẳng mấy ai lưu tâm tìm hiểu vấn đề thực hư. Không phải hễ thực nhiều hơn là tác phẩm có giá trị hơn. Hư được như Liêu Trai Chí Dị, Tây Du Ký thì thú vị biết mấy lần thật. Tôn Hành Giả "đằng vân" là bịa, nhưng Tôn Hành Giả đau đớn, buồn bã lúc bị Tam Tạng đuổi đi là thật quá chừng đi chứ. Ðó không phải là sự thực lịch sử, nhưng là sự thật tâm lý, sự thật đời sống. Cũng thế, ở Nguyễn Huy Thiệp, vua Quang Trung nói tục có thể không thật về phương diện lịch sử, nhưng vẫn thật trên phương diện đời sống. Một vị vua, một vị anh hùng vẫn có quyền nói tục chứ! Hơn nữa, những sự kiện trong tác phẩm văn chương gắn bó nhau như một toàn thể. Ta không thể tách rời sự kiện này khỏi sự kiện khác để đối chiếu xem nó thật hay hư được. Cũng không thể vin vào đó để đánh giá một tác phẩm. Mỗi tác phẩm có đời sống riêng của nó, có không khí riêng của nó, có lịch sử riêng của nó. Các nhân vật được tạo dựng nên là thuộc tính của tác phẩm đó. Nó hoàn thành số phận của nó trong và chỉ trong tác phẩm đó mà thôi. Nếu ta có ý muốn kéo nhân vật ra sống chung đụng với ta, hoặc bắt nhân vật bước ra khỏi môi trường của tác phẩm, thì cũng như bắt cá ra khỏi nước. Bởi thế, không thể đem nhân vật của tác phẩm này đối chiếu với nhân vật của tác phẩm khác. Và lại càng không nên đem nhân vật của một tác phẩm ra đối chiếu với "người thật, việc thật" để phân tích đúng sai.
Cho dù một tác phẩm phản ảnh những sự kiện trong lịch sử, trong đời sống đến đâu chăng nữa, một tác phẩm văn chương không thể xem như là một bản báo cáo, một bản tường trình về những gì đã và đang xảy ra. Dù gì đi nữa, đó cũng là một công trình hư cấu bằng sự kết hợp một cách sáng tạo của nhà văn dựa trên những chi tiết sống thực của cuộc sống. Bạn có thể giận hờn, tức tối, yêu thương những nhân vật trong đó, thậm chí bạn có thể khóc, cười, đập phá hay bắt chước, kết án một nhân vật, tác phẩm, tự nó - xét như một toàn thể - vẫn tồn tại như một phi lý. Nó không hề có thực. Nó là hư cấu.
Thực tế, trên cương vị một độc giả, khi đọc một tác phẩm, không ai tránh khỏi bực mình khi thấy tác giả mô tả sai, không chính xác một người, một nơi chốn, một sự kiện nào đó, nhất là khi những chi tiết đó dính dáng đến những nhân vật hay biến cố lớn trong lịch sử hoặc dính dáng đến người trong cuộc. Ðiều này không thuộc kỹ thuật hư cấu, mà thuộc sự tiếp nhận, nắm bắt chi tiết. Thông thường đó là do sai sót hoặc thiếu kiến thức - điều này khó tránh khỏi, nhất là các tác phẩm về lịch sử. Ngay cả một khuôn mặt lớn như Kim Dung, thông kim bác cổ, vẫn có vô số những sai sót về mặt lịch sử (như tác giả Trần Văn Tích đã chỉ ra) (4). Có trường hợp, tác giả "cố tình" sai sót nhằm mục đích xây dựng không khí đặc thù riêng của tác phẩm. Ở đây, tác gia sử dụng sai sót đó như một chất liệu để hư cấu. Nhưng, trong hầu hết trường hợp, những sai sót lặ sai sót. Và sai sót này thường thì không ảnh hưởng gì nhiều đến kết cấu của câu chuyện, vốn là cái hồn của tác phẩm. Chúng được đưa vào như cái nền. Ðôi khi, lỡ có lộn cũng... không sao.
Nói thế, có lẽ là một cách chạy tội cho tác giả. Xét cho cùng, có những sai sót có thể tha thứ, và có những sai sót không thể tha thứ được. Ðiều này lệ thuộc vào cung cách làm việc của nhà văn: cẩn thận hay cẩu thả, có nghiên cứu tài liệu hay không... Ðiều này đồng thời cũng cho thấy, không phải hễ cứ muốn làm nhà văn là ở nhà, đóng cửa, ngồi trước bàn viết, tha hồ tưởng tượng, tha hồ... hư... cấu. Ðể hư cấu được, để óc tưởng tượng phong phú, anh phải làm việc cần cù, nhẫn nại. Anh phải đi, phải đọc, phải phê phán, chắt lọc. Phải biết tra vấn từng cảm giác, hạch sách từng nỗi xúc động, nghiên cứu mỗi câu cười, tiếng khóc. Là nhà văn, không ai cấm anh kéo ông Ðoàn Dự đi chơi cùng vua Lý Thái Tổ, leo lên tòa nhà chọc trời 102 tầng ở New York. Anh không thể viết được (chưa nói chuyện viết hay), nếu anh không đọc kỹ Kim Dung, Trần Văn Tích, lịch sử Việt Nam và ít nhất cũng chịu khó leo lên Empire State Building một lần (!). Bằng không thì cũng hỏi ai hay tra cứu sách gì cho rõ ngọn nguồn. Có thế mới dễ... bịa, dễ hư cấu chứ. Còn bịa như thế nào, hư cấu thế nào cho hay, cho... đoạt được giải Nobel, thì người viết không có ý kiến.
Trần Hữu Thục
(1) Saigon Times, ngày 1-3-96
(2) Trần Văn Tích, Văn Sử Y Dược Trong Truyện Chưởng Kim Dung,
Thanh Văn, 1996, trang 168
(3) dẫn theo Trần Văn Tích, Văn Sử, trang 203 và 208
(4) Trần Văn Tích, Văn Sử, rải rác nhiều trang
Quê Hương Của Nhật Lệ
Quê Hương thì thân yêu,
nhưng sự Tự Do thân yêu hơn.
Sau khóa học đầu tiên của ban cao học về Liên Hệ Ðông Âu ở Johns Hopskins School of Advance International Studies, tôi có dịp được đi học hè ở Prague, thủ đô của Tiệp Khắc.
Với phí tổn $400 cho mỗi sinh viên, chúng tôi được bao ăn ở và theo học một tháng về văn chương hiện đại của Tiệp Khắc. Chương trình do đại học Carolinium tổ chức. Carolinium là một trong những đại học cổ nhất ở Âu Châu.
Thật ra, lần đó tôi chỉ muốn đi nghỉ hè ở Prague chứ không thích gì về văn chương Tiệp Khắc cho lắm. Tôi chỉ biết được ba văn sĩ nước đó: Milan Kundera, với một tác phẩm tôi rất thích "The Unbearable Lightness of Being;" Frank Kafka, một tác giả siêu hiện sinh; và Jaroslav Siefer, một nhà thơ già được giải Văn Chương Nobel. Khoảng giữa tháng Bảy tôi đặt chân xuống Prague. Tiệp Khắc đẹp không thể tả.
Vài ngày sau khi đến Prague, tôi tình cờ quen được một người con gái Việt Nam trên chuyến xe bus, khi chúng tôi ngồi cùng băng xe. Chuyến xe đi từ thư viện Lenin ở đường Hybernska cho đến khu văn hóa Hradcany một đoạn đường khá dài để hai người ngồi cùng một băng xe thật chật giữ được yên lặng với nhau.
Người con gái có tên là Nhật Lệ. Lúc đầu nàng nói rất ít. Nhưng khi biết được tôi đến từ Mỹ, nàng vồn vã với nhiều câu hỏi.
Người con gái có đôi mắt rất Việt Nam và một nụ cười thật tươi. Lúc nói chuyện, nàng có một thói quen rất khêu gợi: nhìn thẳng vào mắt người đối thoại, cúi mặt, và mỉm cười.
Và lúc nào nàng cũng theo thứ tự đó.
Nhật Lệ nói cho tôi biết nàng ở Prague được sáu năm, đang theo học về ngành sư phạm ở đại học Kozlekedisi Foiskola. Sanh ra ở Quảng Bình, lớn lên ở Hà Nội từ lúc mười tuổi. Nhật Lệ nói tiếng Việt thật hay, thật quyến rũ. Tôi khó quên được lần gặp đầu tiên đó: Sau khi hẹn gặp lại nhau ở thư viện Lenin vào một chiều cuối tuần, Nhật Lệ xuống xe, quên nói cho tôi biết là tôi đang ở đâu... Khi xe bus đến trạm, tôi phải bỏ ra gần một tiếng đồng hồ mới tìm được một người bản xứ biết nói tiếng Anh, để chỉ đường cho tôi trở lại đại học xá Carolinium!
Tôi và Nhật Lệ gặp lại nhau bốn ngày liên tiếp. Cả hai thích nghe chuyện của nhau. Tôi muốn nghe về Hà Nội, về Quảng Bình, và quê hương của Nhật Lệ. Nàng thì muốn nghe về Mỹ, Saigon, và về những lý do tại sao tôi "đã hơn ba mươi tuổi rồi mà vẫn chưa có v ..."
Có một điều làm tôi rất ngạc nhiên, là Nhật Lệ luôn miệng hỏi tôi nghĩ thế nào về chuyện trở về Việt Nam để giúp đỡ quê hương. Tôi chỉ trả lời nàng là tôi vẫn chưa nghĩ đến chuyện độ.
Trong suốt bốn ngày gặp nhau, Nhật Lệ đưa tôi đi thăm viếng những nơi thật đẹp ở Prague như cầu Kraluv Most, Công Trường Phố Cũ, lâu đài Prague, và bảo tàng viện Bedrich Smetana trên bờ sông Vltava, một con sông thơ mộng chảy ngang qua thành phố.
Buổi chiều đi thăm bảo tàng viện là một buổi chiều tôi hôn được Nhật Lệ. Khi tôi thủ thỉ vào tai nàng câu: "If I can write the beauty of your eyes. ..." Ðể được một nụ hôn, tôi dịch ra tiếng Việt cho nàng nghe là: "Ước gì tôi tả được đôi mắt nàng. ..."
Một buổi chiều tháng Tám ở Prague, chúng tôi đứng thật gần nhau để nhìn mặt trời đang lặn dần ở bên kia bờ sông Vltava. Bên kia bờ sông là Rạch Quỉ, một cánh rừng âm u với những màu lá vàng, đỏ, tím của chớm Thu. Ngày hôm đó đó, không khí tháng Tám ở Prague yên lặng như đôi mắt của Nhật Lệ. Và trong tôi, tôi thấy một cái gì đó bồn chồn, xao xuyến về một người con gái mới quen.
Một buổi chiều, khi còn hai tuần nữa là tôi phải trở lại Mỹ, tôi hỏi Lệ: "Em đã bao giờ biết yêu?" Nhật Lệ nhìn tôi, cúi mặt, mỉm cười. Nàng vẫn theo thứ tự đó. Với cái bản năng chiếm hữu của người đàn ông, tôi muốn ở Lệ nhiều hơn là những nụ hôn... Nhưng Nhật Lệ rất do dự. Tuần kế tiếp, tôi chờ Nhật Lệ ở thư viện ba ngày liền nhưng nàng không đến. Không có điện thoại, không biết đường đến nhà nàng, tôi không biết làm gì hơn là chứ.
Sau cùng Lệ đến thư viện để gặp tôi. Khi gặp nàng, tôi không biết ngượng khi nói với Nhật Lệ: "Ði em, mình đi tìm một chỗ nào đó để hôn nhau."
Tôi đưa nàng đế khu Phố Cũ (Stare Mesto), hai đưá vào ngồi trong một quán café có tên là U Rudolfa, một quán café nhỏ nhưng rất tình. Khi phố lên đèn, chúng tôi đi ciné. Ðêm đó, nàng không nói gì khi tôi đưa nàng về phòng tôi ở cư xá đại học Carolinium. Qua đêm, tôi biết tất cả về Lệ. Sau cơn nhiệt tình, tôi nằm ừ ra, thấy rất hối tiếc. Tôi thấy hối hận thì đúng hơn: Vì hối tiếc là khi nào mình có thể làm một cái gì để đền bù lại (như trong trường hợp tôi sẽ lấy Lệ), hối hận là vì tôi không thể làm gì được. Không phải trong lúc này: không đầy một tuần nữa tôi phải trở lại Mỹ.
Tôi bỏ ra khỏi phòng, đi tìm mua café, khi Lệ khóc hoài không nín...
"Em sanh ra ở Quảng Bình, huyện Lệ Thủy, nơi có Lũy Nhật Lệ, hay còn gọi là Lũy Thầy, trên bờ sông Nhật lệ. Anh biết không, ở ngoài Trung có nhiều địa danh rất đẹp, như sông Thu Rơi, Thu Bồn, làng Duy Xuyên, Hiền Sĩ, Cổ Bi... Bố đặt tên em là Nhật Lệ vì bố mẹ đã gặp nhau trên những chuyến đò đi qua sông đó. Ba em mang quân hàm thượng úy, phục vụ ở trung đoàn 32 khi ông hy sinh vì nghĩa vụ ở Dakto, ở chiến khu 5. Cậu em cũng tham dự trận đó, nén khi bố em chết, cậu em có đem về quyển nhật ký của bố em. Sau trận đánh, cậu em bị tàn phế và được giải ngũ. Vì Ðồng Hới và Quảng Bình bị dội bom thường xuyên, mẹ và cậu em dọn về Hà Nội. Em học rất khá, và là con tử sĩ, nên được gởi đi Tiệp Khắc để học về ngành giáo dục. Hơn nữa, em cũng được sự giúp đỡ của bạn của ba em là Hoàng Minh Thảo. Ba em quen biết rất thân với ông khi ông còn là một trung đoàn trưởng ở trận Ðiện Biên. Và bố em biết cả bác Chu Huy Mẫn khi ông coi hai trung đoàn 32 và 33 ở mặt trận Tây Nguyên... Em qua đây không mong gì hơn là học được thành tài để về giúp đỡ quê hương. Em thương nước Việt mình lắm. Ðọc nhật ký của bố em thường xuyên nên em rành từng điạ danh của quê hương. Mỗi khi có ai gọi đến tên em, em nhớ đến con sông Nhật Lệ. Một con sông thật đẹp nhưng không nuôi được dân làng... Em sẽ về phục vụ quê hương. Biết em rồi anh có thương em không? Anh có muốn cùng em về để phụng sự quê hương mình không?"
Trong đêm, nghe câu chuyện của Nhật Lệ, tôi run lên vì xúc động. Câu chuyện nghe như thật. Nhưng phải thật. Vì có bao nhiêu người con gái biết được Dakto nằm ở chiến khu 5, hay là hai trung đoàn 32 và 33 là hai trung đoàn cơn bản của mặt trận Tây Nguyên. Tôi ngồi nhìn Lệ, không biết phải nói gì. Tôi thấy quá hối hận. Nói theo một cảm giác của Shakespeare là, "Dù có tất cả hương thơm của xứ Ả Rập, cũng không rửa được bàn tay đẫm máu này." Trong cơn hối hận, tôi chỉ biết dỗ dành Nhật lệ bằng những nụ hôn. Nửa đêm, khi làm tình với Nhật Lệ, tôi thấy nàng khóc. Chắc chắn là không phải "những giọt nước mắt của người con gái về nhà chồng," tôi nghĩ.
Buổi sáng khi thức giấc. Lệ đã đi. Nàng viết lại mấy giòng, nói là muốn gặp tôi chiều mai ở một công viên đối diện với một nghĩa trang trên đường Kozi, "gần lâu đài Agnes Kloster, ở khu Phố Cũ, từ trường Carolinium ra đó không xa lắm. em mong gặp anh. Mình sẽ có nhiều chuyện để nói," nàng viết. Tôi nằm bất động, chán nản. Tôi không nghĩ lương tâm mình có thể bình thản được khi trở lại Mỹ. Tôi nằm đó, ước gì mình không làm những gì đã làm trong đêm qua. Ước gì đêm qua chỉ là một giấc mộng.
Khi gặp Lệ, với một vẻ cầu khẩn, nàng muốn tôi ở lại Tiệp Khắc thêm sáu tháng nữa, chờ nàng học xong hai đứa cùng trở lại Việt Nam. "Em đã nói chuyện với một người rất thân ở tòa đại sứ. Tòa đại sứ sẽ lo vấn đề di trú của anh với chánh phủ Tiệp Khắc, anh không phải lo gì cả. Em yêu anh. Khi đã trao thân cho anh rồi, em không thể thiếu anh. Mình sẽ cùng về Việt Nam, đem công ra xây dựng lại tổ quốc mình. Ðất nước đã được tự do dân chủ rồi, bây giờ chỉ cần tái thiết lại mà thôi. Gia đình, quê hương vẫn còn đó ở Việt Nam, anh ở đây làm gì. Anh, nếu thương em, hãy nghe lời em." Lệ nhìn tôi, cầu khẩn một câu trả lời.
Trước khi gặp Nhật Lệ, tôi nghĩ tôi đoán được một phần nào câu chuyện của nàng trong cuộc gặp gỡ. Nhưng tôi nghĩ trật. Thay vì nàng muốn tôi đưa nàng về Mỹ như tôi đã dự đoán Lệ lại thuyết phục tôi để cùng nàng trở lại Việt Nam! Chuyện trở lại trong lúc này không thể xảy ra được. Mặc dù chuyện lên tòa đại sứ xin trở lại Việt Nam là chuyện có thể làm được. Tôi nhìn Lệ. Lần này nàng không còn cúi mặt nữa. "Anh, anh nghĩ vì vậy? Anh phải trả lời em đi," Nhật Lệ hỏi tôi khi thấy tôi ngồi lì trong yên lặng.
"Em, anh rất thất vọng về chuyện em làm. Lẽ ra em phải cho anh biết về chuyện em liên lạc với tòa đại sứ. Tuy nhiên chuyện đó chỉ là chuyện phụ. Chuyện quan trọng hơn là chuyện em muốn anh ở lại đây, chờ em ra trường để hai đứa cùng trở lại Việt Nam. Anh sống với em được, nhưng anh không thể trở về quê hương trong lúc này. Nước Việt Nam của chúng ta không có được tự do dân chủ như em vừa nói. Nước Việt Nam bây giờ còn tệ hơn Việt Nam mà anh từng biết và đã lớn lên. Em, ở xã hội chủ nghĩa không có tự do dân chủ. Có chăng chỉ là cái bóng của những danh từ đó. Em hiểu lầm chữ Tự Do. Tự do không phải là những quyền mà chính phủ của một nước cho người dân. Vì nếu như vậy, chính phủ có thể lấy lại lúc nào cũng được. Tự Do có nghĩa là cái quyền của người dân được nói lên cho chính phủ biết là họ đã vi phạm những gì người dân nghĩ là tự do. Như anh biết, ở Việt Nam bây giờ không ai dám, hay được quyền nói cho chính phủ biết là họ đang đi ngược lại những quyền tự do căn bản nhất. Anh không thể về, nếu đất nước vẫn chưa có được những quyền tự do căn bản."
Trời gần tối khi tôi nói hết cho Nhật Lệ nghe những gì tôi nghĩ về Việt Nam, về Tự Do, Dân Chủ của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhật Lệ thì ngồi sụt sùi khóc. "Em phải trở về anh ơi. Em muốn anh đến nhà em chiều mai để mình tính lại. Những gì anh nói về nước mình, em không biết, và em cũng không cần biết. Em chỉ biết ở quê hương còn mẹ, còn đàn em, và em phải trở về. Lý tưởng không có ý nghĩa gì nếu mình không có một quê hương để phụng sự. Em không thể quên anh được. Anh phải có trách nhiệm với em,"
Lệ nói những lời chân tình trên khi nàng đưa địa chỉ cho tôi. Hai đứa cùng lên một chuyến xe bus như lần đầu tiên gặp nhau để đi về. Tôi hôn nàng khi xe gần đến khu cư xá đại học. Khi xuống xe, tôi nhớ tôi chào giã từ nàng bằng một điệu chào nhà binh. Trong bóng đêm, tôi không biết Nhật Lệ có thấy tôi chào nàng không.
Không muốn trở lại phòng ngủ, tôi đi lang thang như một kẻ không có nơi để trở về. Tôi đi ngang qua một khu phố của dân Do Thái. Ðó là một buổi chiều thứ Sáu, bắt đầu của ngày Sabbath, một bà già đóng cánh cổng sắt dẫn vào chung cư của họ... Ðứng bên ngoài nhìn vào, tôi thông cảm được sự lưu đày của họ, và liên tưởng đến sự lưu đày của chính những người Việt Nam bỏ quê hương đi tìm tự do như tôi. Tôi đi loạng chọang trở về phòng, trong đầu nghĩ về Nhật Lệ, và quê hương.
Tôi thức dậy thật sớm vào buổi sáng cuối cùng ở Tiệp Khắc. Thu dọn đồ vào một valis, rồi lên phòng học vụ báo cho họ biết là tôi sẽ dùng phương tiện tự túc để ra phi trường. Lên xe bus, tôi đi vòng Prague một lần cuối. Tôi xuống xe ở khu phố cũ, vào lại quán café U Ruldolfa để ngồi viết cho Nhật Lệ một lá thư: "Nhật Lệ, anh đã nghĩ rất nhiều về chuyện em nói, chuyện quê hương của mình... Anh vẫn còn mẹ và đàn em ở quê nhà như trường hợp của em. Nhưng anh không thể trở lại quê hương mình được. Không phải trong lúc này. Quê hương mình chưa có tự do. Em, Quê Hương thì thân yêu, nhưng sự Tự Do còn thân yêu hơn. Giữa quê hương và sự tự do, anh chọn tự do. Anh về Mỹ nhưng lúc nào cũng nghĩ đến em. Ðịa chỉ của anh ở Mỹ là... Xin liên lạc với anh, để anh biết về đời sống của em ở bên này. Em ở lại bình yên."
Tháng Tám, đường phố Prague có vẻ nghiêm nhặt. Cảnh sát bày những hàng rào kẽm gai ra đường phố dẫn vào các công trường, để ngăn chận những đám biểu tình hàng năm chống việc Nga chiếm Tiệp Khắc (Tiệp Khắc nổi loạn chống Nga vào tháng Tư, nhưng lễ kỷ niệm được tổ chức vào tháng Tám, vì đó là lúc Nga hoàn tất việc chiếm đóng). Trời Prague hôm đó có nhiều mây. Một thứ mây mưa có màu xám tro trông rất hung dữ. Prague ngày tôi đi không được đẹp như ngày tôi đến.
Tôi về Mỹ, một khoảng thời gian sau, nhiều người bạn nói với tôi là, có, ở ngoài Trung có một con sông tên là Nhật Lệ. Nhưng khi nghe tôi kể về chuyện tôi đã quen một người con gái mang tên dòng sông đó, họ chỉ cười, có vẻ không tin.
Nguyễn Kỳ Phong