vhnt, số 243
1 November 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Trước Ngọ Môn Quan ...........................................ian bui
2 - Tìm em ......................................................Trương Chi
3 - Lời lá hát ....................................................Cỏ May
4 - Hoa khô / Tình đời .............................Nguyễn Trọng Dũng
5 - Nắng trưa ................................................Hữu Nguyên
6 - Freedom ...........................................................Hy-Khuê
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Thư độc giả VHNT, gửi từ Boston ...............Lương Thư Trung
8 - Thơ Raxun Gamzatop: Gửi người phụ nữ ...........Trần Hòa Bình
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Cô bé dỗi hờn ............................................Chân Mây
10- Rolf Yngve: Chim cút .......................................Y Cựu dịch
Ở nơi tôi ở, cạnh bìa rừng có một cây không rõ loại gì đến mùa này lá thu đã úa đỏ rồi mà cây này vẫn xanh tươi trầm mặc, gió thổi qua lá, cây như căng phồng ngực để thở. Một loại cây "evergreen", người ta bảo với tôi thế. Vào mùa xuân, cây trổ những bông hoa kỳ lạ, trăng trắng hay xanh nhàn nhạt tủa ra ngoài chòm lá. Ngửi mùi hoa hắc và nồng nàn ấy, biết bao ký ức trỗi dậy và tim phải thắt lại vì nhớ cũng một mùi hương nồng nào thoang thoảng phả ra từ một ký ức ấu thơ, cái mùa hăng hăng của thứ cây có trái dài như trái đậu thường ra bụi phấn vào mùa kết trái làm tê ngạt mũi, cái cây mà tôi vẫn ghét cay đắng và phải khóc vì nó vì mùi lá làm tôi nôn nao. Một hôm, người ta đến đốn cái cây dễ ghét ấy xuống để dọn đất phía trước sân nhà để mở rộng đường lộ, khoảng trống của trời lộ rõ, quang cảnh mặt tiền nhà chợt sáng lên, xanh ngút và thoáng hẳn. Nhưng mà chao ơi, khoảng trống trong lòng tôi chợt lớn hơn cả bầu trời sau khi cây bị đốn xuống, khoảng trời thiếu tàn cây quen thuộc của mọi khi bỗng trở nên trơ trẽn và trống trải lạ lùng. Tôi bỗng đâm tiếc giá cây vẫn còn ở chỗ cũ để che rợp bóng sân nhà, giá cái mùi hăng nồng kia vẫn còn thoảng trong không khí để tôi còn có cái gì để mà khó chịu, có cái gì để mà đổ tại mỗi khi có chuyện gì bực mình. Giờ thì tôi không còn cái gì để nghĩ tới, ngay cả cái mùi hăng hăng ấy cũng biến mất. Tôi chới với, hụt hẫng với cái khoảng trời trống trải, cái trống trải của một tâm hồn vừa đánh mất hình ảnh quen thuộc và đằm thắm, mùi hương đã ăn vào tiềm thức tự bao giờ. Chỉ khi nào mất đi điều gì người ta mới nghiệm ra giá trị của điều đã mất.
Cây "evergreen" ở nơi tôi ở, nó đứng một mình một chỗ, an nhiên và bình thản không động chạm đến ai, một cây cô độc và dũng mạnh với thời gian, ngọn cây tròn như cái tán rộng che cả một khoảng rợp lớn, như một bàn tay từ ái, dáng cây tư lự mang vẻ hiền triết, cây xanh muôn đời. Những ngày tháng đêm dài ngày ngắn này, bất chợt bắt gặp dáng cây lẻ loi trong vòm nắng yếu ớt của buổi chiều, lòng tôi rung nhẹ. Tôi bứt một ngọn lá vò nát trong lòng bàn tay rồi đưa lên mũi ngửi, để cố tìm lại một mùi hương nồng ngày cũ...
oOo
vhnt số này với nhiều bài vở sáng tác và dịch thuật, mời bạn đọc thưởng thức. Cũng xin chia sẻ với bạn đọc một bức thư rất chân thành của một độc giả vhnt có lòng chia sẻ tâm tình, cảm nghĩ về một thế hệ văn học trẻ, có lòng khích lệ và góp ý về diễn đàn vhnt của chúng ta.
Thành thật cám ơn anh Lương Thư Trung (và anh Trần Hoài Thư) đã dành cho vhnt cảm tình quí mến.
Chúc bạn một cuối tuần nhiều niềm vui và bình an.
thân ái,
PCL/vhnt
Trước Ngọ Môn Quan
Ði cho tai mắt tận cùng
Cơn đau lõa thể cơn khùng khoả thân
Ai thủ cựu ai duy tân
Ai làm thằng giả liệt chân xin tiền?
10'96
ianb
Tìm Em
Ta bước qua những hành lang tối
Những mong gặp người ở cuối đường đi
Dài thêm một cuộc hẹn.
Mỗi bước đi
Ta như thấy mình bước sâu vào dĩ vãng
Ngực nhói đau vết xước năm xưa
Nghe tóc rụng trên hai bàn tay mở
Mười ngón tay suông như cứ gỡ dần trí nhớ ta
Vắt cạn một ký ức.
Cuối ngõ hồn mù sâu thăm thẳm
Những giọt mưa xa gõ vào góc tối
Rơi vỡ xanh ngời từng hạt lắt lay
Từ heo hút ấy
Ta còn ta những bước đi chòng chành.
Ôi những mười năm chôn vùi theo thành quách,
theo những lạch sông đen đặc lờn rờn
Trần gian vốn lẻ loi
Nên ta tìm em, đếm hoài mỏi mộng
Dĩ vãng đi xuống những bậc thang
Từng bước mỏi
Như những bước đi của ta
tìm em hoài còn sâu hút một hành lang.
Trên triền dốc của nỗi nhớ,
Em chờ đâu đó ở cuối quảng đường ?
Giở từng trang xưa sao thấy ngậm ngùi
Ta ghi lại trên vách tường những vết tích người
Lỡ mai này trí nhớ tiêu hao.
Hành lang dài vẫn dài vẫn dài
Ta bước đi và bước đi
Thèm cắn vào những ngón tay sắc nhọn
Ðể bớt buồn rầu trọn một quảng không.
Trương Chi
Lời lá hát
Ðêm mất ngủ, trắng linh hồn
Những giọt cà phê
trôi một hành trình nhạo báng.
Lá thầm thĩ lời cuồng điên
Ru cây ngủ triền miên giấc nhớ
Tôi phong phanh manh áo mỏng
Ngước nhìn trăng
Bỗng thèm nghe mùi dạ lan năm cũ
Cánh dạ lan nào êm mướt
giấc
mơ hoang
Trăng ở đây không xanh,
Ðêm ở đây không tròn
Làm sao có dạ lan...
Tôi còn đếm những con cừu ngơ ngẩn
Ðếm từ ngàn xưa cho đến ngàn sau...
Hoài chưa hết những con cừu
Hoài chưa tan cơn mất ngủ
mù sương ảo ảnh...
Trăng lạnh toát
mù sương rách toạc
Lá mong manh ru điệu ầu ơ
Ầu ơ là những đêm rằm
Dài cơn mất ngủ nghe mình ăn năn
Ðêm vẫn trắng
Lá vẫn đùa, vẫn hát
Tôi chạy nhầu trên đồi cỏ hoang vu
Tìm lại mùi dạ lan chỉ còn trong trí nhớ
Chẳng còn dạ lan
chẳng còn tôi
Chỉ còn đêm trắng tinh mầu sữa
đêm đong đưa
Tôi cười khan như loài thú hư hao
Ngoài kia gió lao xao
Nao nao lời hát lá
Ngủ đi em, gió giao mùa
Ngủ cho tay lạnh
buốt vòng xót xa ...
CỏMay
Oct 1996
hoa khô
tôi nghe kể về những bông hoa khô
có bông hoa không thể úa tàn
chỉ khô lại (vì hoa chờ đợi ?)
nhựa đã cạn mà vẻ dường không đổi
ai hay nào hoa đã chết từ lâu
phải chăng người cũng xa mối tình đầu
cũng hy vọng người tình rồi trở lại
tận khi hiểu biệt ly là mãi mãi
muộn để tàn vì đã chót khô đi
tình đời
biết ai yêu ta
nào biết yêu ai
ba lô trên vai
con đường xa mãi
tình đời nếu trải
ngày vui chắc dài?
họa chăng tình cũ
họa chăng mình xưa
nước mắt rồi mưa
chỉ còn gió hát
"tình đời dẫu trải
ngày vui đâu dài"
Nguyễn Trọng Dũng
Nắng trưa
Nắng đẹp, màu trời xanh nếp áo
Mây vương mái tóc, đọng mi buồn
Tay nâng tay bước, đường thêu mộng
Lòng cứ xôn xao với nụ hôn.
Môi má mềm thơm vào giấc ngủ
Chập chờn còn ngát mãi hương lan
Tiếng cười, giọng nói êm như suối
Âm vọng trong tim, thấm tận hồn.
Hữu Nguyên
Freedom
Feeling like a stranger
Standing there like a dreamer
Hoping for freedom, for great liberty
But I'm here, trapped by my family
They told me:
"You're wasting your time
What a crime!
You're fooling around
Life is not a merry-go-round
You're wasting your money
Be somebody !"
Sitting in the classroom
Feeling like a mummy entombed
I'm where they wanted me to be
Working for a diploma from University
Feeling like a stranger
Walking there like a dreamer
I got to University, got my diploma
Hurrah! Hurrah! Hurrah!
But why if I'm not happy?
I'm where they wanted me to be...
Hy-Khuê
Thư độc giả VHNT gửi từ Boston:
THƯ GỬI TẠP CHÍ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
Boston, Mùa thu 24-10-1996.
Mến gởi cô Phạm-Chi-Lan và Ban biên tập tạp chí Văn học Nghệ thuật trên liên mạng (internet):
Ðất trời vùng đông bắc Mỹ nói chung và thành phố Boston - nơi mà tôi đang cư ngụ nói riêng đã vào Thu. Tiết thu lành lạnh pha lẫn những mảng cây dọc những công viên hoặc hai bên con đường xa lộ 93 xuôi nam hoặc ngựơc lên hướng bắc nhuộm những sắc màu đỏ thẳm hoặc vàng thắm như màu hoa qùi, hoa cúc, hoa vạn thọ. Bất chợt, tôi nhớ lại hai câu thơ tả cảnh mùa thu thật dễ thương của thi sĩ Bích-Khê:
Ðây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa
Ðông Nam mây đùn nơi thành xa
Một mùa thu với chiếc áo mới rực rỡ như dãy lụa đào vàng óng nơi xứ ngừơi, làm lòng tôi thêm quạnh vắng, xót xa chợt nghĩ về vùng đồng bằng quê tôi, dọc hai bên bờ con sông Cửu Long. Mùa thu cũng có lá rụng nhưng như một bức tranh quê không kiêu-kỳ, vương-trạch. Không có lá vàng, không có gió heo may, không có nắng thu, không có tiết thu. Ở đó chỉ có mưa và nước lũ. Ở đó chỉ có giông gió với sấm sét, chớp gầm. Ở đó với những con đường lầy lội, ngập nước, ẩm mục. Ở đó chỉ có những ánh đèn dầu leo lét của những người dân quê nghèo len lỏi theo từng gốc ớt, bụi chuối, bụi mía, bụi tre kiếm tìm những con nhái, con cóc để bán mua gạo, mua muối sống lây lất qua ngày... Mùa thu ở quê tôi hay nói đúng hơn, mùa mưa, mùa nứơc lũ ở quê tôi là một biển nước mênh mông, là trời thấp với nhừng áng mây đen chực chờ đổ những cơn mưa bất chợt, là đất bùn, là xuồng xuôi ngược rẽ nước trên cánh đồng, là những căn nhà thấp bị ngập loi ngoi lót ngót.
Mùa thu ở quê tôi là cá, là tôm, là rắn rít, là những con chuột ngồi trên ngọn dừa, ngọn tre, là ếch, là nhái, là cóc gom lại các gò đất cao, là nghèo khó, là cơ cực, là quê mùa, là mộc mạc, chân tình.
Từ nơi chốn ấy, tôi được sanh ra và lớn lên. Từ nơi chốn ấy, tôi được vun bón những tình tự dân tộc, quê hương, chòm xóm ngập đầy yêu thương.
Và hôm nay đây, tôi mạo muội viết cho cô và các bạn trong ban biên tập tạp chí Văn Học Nghệ Thuật với tấm lòng chân tình ấy, với cái chất phác, với cái mộc mạc, quê mùa ấy. Như một cảm nhận đến như gần gũi giữa hai thế hệ, hai trình độ dù cách biệt về tuổi đời cũng như về học vấn và kiến thức. Phải thành thật mà nói rằng, với những dòng chữ làm quen này, tôi thật sự áy náy vô cùng. Nhưng qua sự khích lệ của anh Trần-Hoài-Thư đã giới thiệu tôi qua bài viết Cảm nhận thi ca (VHNT số 215 ngày 14-8-96): Tôi là một độc giả gốc nông dân. Và cũng qua anh Trần-Hoài-Thư, tôi có hai bài viết được các bạn chọn đăng trên Văn Học Nghệ Thuật (số 223 ngày 4-9-96 và số 232 ngày 2-10-96). Ðó là những bài viết mà tôi mơi chập chững viết về một vài ý nghĩ của mình về cuộc đời, về thi ca, về bè bạn dưới ngòi viết của một người làm ruộng.
Thật thế, các bạn ạ! Tổ tiên, ông bà, song thân tôi là những người làm ruộng. Ðến đời tôi, tôi cũng đã từng lăn ngụp trong ruộng, trong nước lút đầu, lút cổ để dọn rong, dọn cỏ. Tôi đã từng thay trâu, thay bò kéo những cây chuối nặng trịch trang bằng mặt ruộng để rải lên đó những hạt lúa giống kiếm gạo, kiếm cơm. Tôi cũng đã vui với cái vui của những ngọn lúa rì rào theo gió. Tôi cũng đã biết thế nào là tiếng nấc nghẹn ngào khi cánh đồng lúa bị dông bảo làm ngã sập, bị sâu rầy tàn phá, bị nắng hạn đốt cháy, bị nước lụt nhận chìm với những hệ lụy là đói, nghèo, nợ nần chồng chất.
Thưa cô Phạm-Chi-Lan và các bạn:
Sở dỉ tôi phải có mấy lơì daì giòng như vậy để xác định chỗ đứng của mình, vị trí của mình, may ra mình mới hiểu các bạn và ngược lại. Qua làm quen với một vài số Văn học Nghệ thuật và qua tuyển tập Văn Học Nghệ Thuật số 1-96 (tháng 9) mà anh Trần-Hoài-Thư gửi tặng, cho phép tôi có một cái nhìn mới dưới mắt của một độc giả nông dân như tôi về thế hệ trẻ ở hải ngoại nghĩ và viết về văn học nghệ thuật.
Tôi có thể mạo muội nói với các bạn về niềm vui của tôi mà không ngượng ngùng là diễn đàn trên Văn Học Nghệ Thuật liên mạng là ánh sáng, là hy vọng, là niềm tin cho một tương lai tươi tốt của thế hệ trẻ hải ngoại trong việc giữ gìn và làm mới một giai đoạn văn học Việt Nam hiện đại.
Vì rằng các bạn còn rất trẻ, đầy tài năng và điều cần yếu nhất mà các bạn chẳng những đã có, đang có. Ðó là tấm lòng yêu mến tiếng Việt. Hơn thế nữa, dường như các bạn đang trên đà bị cuốn hút vào công cuộc giữ gìn và tô bồi tiếng Việt mãnh liệt đến độ gần như say sưa thì làm sao mà chúng tôi - những người nông dân - không tin tưởng, không tán đồng, không hưởng ứng cho được. Chúng tôi đang mong đợi các bạn trẻ. Dù kém cỏi về nhiều phương diện như lớn tuổi, sức khoẻ yếu, sức học thấp, cảm nhận chậm, suy nghĩ bị hạn hẹp, nhưng chúng tôi biết được sự cần thiết của những người trẻ như các bạn để cây văn học nghệ thuật Việt-Nam đâm thêm nhiều chồi non, nhánh tốt, nở thêm nhiều hoa thơm, nhiều trái chín ngọt ngào...
Thưa các bạn:
Dường như, ở bất cứ thời kỳ nào, lịch sử cũng như văn học sử đều có những vị anh hùng trẻ và những bậc văn tài trẻ xuất hiện vào những lúc lịch sử đi vào khúc quanh cay nghiệt, cũng như văn học sử ở giai đoạn bế tắc. Nhìn lại dòng văn học sử Việt-Nam, có lẽ các bạn đã thấy rõ điều đó hơn chúng tôi. Mỗi giai đoạn văn học sử chuyển mình thường được mở đường bởi một hoặc nhiều người với những tác phẩm tiêu biểu. Chẳng hạn như Tố Tăm của Song An Hoàng Ngọc Phách. Từ trước tới bây giờ, mọi nhà viết văn học sử đều công nhận tác phẩm này là bước khởi đầu của trào lưu tiểu thuyết lãng mạn Việt-Nam. Các bạn hẳn còn nhớ nhóm Nam Phong, cũng như những nhà văn trong Tự Lực Văn Ðoàn với tiểu thuyết luận đề và tác phẩm Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh làm tiêu biểu. Hoặc những nhà văn trẻ giai đoạn 1960-1975 với một giai đoạn sáng chói nhất niềm Nam Việt-Nam, với những tác phẩm viết về cuộc chiến tranh Việt-Nam như Dấu Binh lửa, Dọc Ðường Số 1 của Phan Nhật Nam, Nhật Ký Hành Quân của Trần Hoài Thư, Dãy Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca, v.v... Bên cạnh đó những tác phẩm viết về tình yêu của Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Vinh, v.v...
Song song với những nhà văn lớp trước với một văn phong già dặn, với những kinh nghiệm chắc nịch, với những tác phẩm đã được khẳng định vị trí rõ ràng trong đòng văn học sử Việt-Nam như Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa, Mai Thảo, Võ Hồng và cùng nhiều nhà văn, thi sĩ tên tuổi khác càng làm cho giai đoạn văn học nghệ thuật này càng cực thịnh, rực rỡ. Ðiểm đặc biệt, là sự xuất hiện của những tạp chí văn học nghệ thuật là những dấu ấn đậm nét, mạnh mẽ đánh dấu những giai đoạn văn học nghệ thuật chuyển mình, thay đổi, biến chuyển. Những tạp chí như Ðông Dương, Nam Phong, Tiểu Thuyết Thứ Bảy trước đây, cũng như sau nầy với Thời Tập, Khởi hành, Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Sáng Tạo, Ý Thức, Vấn Ðề, Văn Học, v.v... xuất hiện, nhất nhất cho phù hợp với từng giai đoạn văn học trên đà chuyển mình. Hôm nay đây, với tạp chí Văn Học Nghệ Thuật trên liên mạng, chúng tôi cũng tin tưởng rằng các bạn đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lãnh vực văn học nghệ thuật. Các bạn đã chọn một hướng đi phù hợp với trào lưu tiến bộ của khoa học tin học. Ðồng thời các bạn vẫn giữ trong lòng ngập đầy những tình tự dân tộc, quê hương qua ngôn ngữ yêu thương của chúng ta, đó là tiếng Việt.
Thưa cô Phạm-Chi-Lan và các bạn:
Thông thường, những người làm công việc văn học nghệ thuật nói chung - Viết văn, làm thơ, biên khảo nói riêng - đều nhắm tới một đối tượng. Và đối tượng ấy là những độc giả có một trình độ tương đối bằng hoặc cao hơn chính tác giả, hoặc đối tượng ấy là những người cùng cảnh ngộ với mình, để dễ cảm nhận, chia xẻ, cảm thông. Vì rằng, nói tới văn học nghệ thuật, người ta thường liên tưởng đến những người có học thức, ở thành thị. Ít ai quan tâm đến một giới người như chúng tôi là những người nông dân tay lắm chân bùn - những độc giả rất thèm đọc, ham thích đọc, say mê đọc - đã và đang bị bỏ quên. Dưới một cái nhìn nào đó, những người nông dân được coi như những người không am hiểu văn chương, không cần văn chương. Thật là một điều đáng tiếc! Vì rằng có thật sự đi vào đòi sống nông dân, các bạn mới thấy rằng người nông dân họ khao khát văn chương như ruộng lúa khao khát phân bón, khao khát cái mát lạnh của dòng nước đục ngầu phù sa. Ðiều đó cũng dễ hiểu, vì nông dân cũng chỉ là một con người. Mà con người thì ai cũng có hai phần tách bạch, đó là thể xác và tâm linh. Và cái phần tâm linh đó của họ cũng như mọi người đều có thể cảm nhận được văn chương, cảm nhận thi ca không kém phần nhạy bén. Và các bạn, có lẽ không quên thời kỳ văn học truyền khẩu phong phú, đa dạng với tục ngữ, ca dao, phong dao, đồng dao - một vốn qúi hiếm của nền văn học Việt-Nam - đã phát xuất từ đấy. Cho mãi tới bây giờ, qua biết bao thế hệ, biết bao năm tháng, tôi nghĩ rằng nền văn chương truyền khẩu với ca dao, phong dao, đồng dao vẫn giữ một vị trí độc tôn trong lịch sử văn học Việt-Nam mãi hoài, không thể thay thế được.
Thưa các bạn:
Trên đây là một vài ý nghĩ nhỏ nhoi của tôi trong việc viết văn, làm thơ của các bạn. Xin các bạn đừng quên đối tượng độc giả là nông dân. Các bạn đến với họ, các bạn sẽ có nhiều niềm vui, hạnh p húc. Trong khả năng hết sức hạn hẹp, tôi có viết một tùy bút ngắn: Nhớ người bạn nghèo, được đăng trên tạp chí Dân Chủ Mới ở Massachusetts (Số 55 tháng 8-96) với nhân vật chính là Hai Khá - một ngươ `i bạn nông dân nghèo của tôi ở quê nhà, quanh năm lam lũ làm lụng cật lực vẫn cơm không đủ no, đau không thuốc uống. Thế mà khi đất nước cần, Hai Khá sẵn sàng lên đường chiến đấu cho quê hương với đơn vị một thời oanh liệt là Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Sau chiến tranh, Hai Khá trở về đời sống nông dân của mình, nhưng anh vẫn thương chiếc áo trận của mình, vẫn tự hào với những trận chiến mà anh đã tham dự và chiến thắng. Và anh vẫn nghèo khó, cơ hàn, thiếu thốn, cực nhọc nhưng trong lòng anh không buồn, không than, không trách bất cứ ai. Vẫn ung dung sống một đời thanh bần với nghĩa khí của một người lính làm tròn trách nhiệm đối với Tổ Quốc trong thời chiến tranh. Tùy bút được đăng cách nay hai tháng. Chiều nay, tình cờ có một người bạn độc giả - anh là một cựu thiếu úy và là một thương binh - trao cho tôi một phong bìvới số tiền lương mà anh đã làm việc cực nhọc trong bốn ngày và nhờ tôi trao dùm anh Hai Khá nhân vật trong Nhớ người bạn nghèo như một món quà xa thể hiện tình huynh đệ chi binh.
Thưa Cô Phạm-Chi-Lan và các bạn:
Tôi vô cùng xúc động trước nghĩa cữ cao đẹp này của người bạn độc giả. Từ nơi chốn xa mù này, qua một bài viết, lòng cảm mến của anh thật sự dành hết cho một người bạn chưa quen biết, nhưng lại là chiến hữu của anh đang đói nghèo, đang sống hẩm hiu ở một góc ruộng, bờ mương nào ở quê nhà. Anh đã làm tôi bật khóc. Khóc vì lòng từ tâm của anh - và cũng khóc vì hạnh phúc có được một người đọc hiểu mình và chia xẻ với mình bằng nghĩa cữ cụ thể, cao đẹp vừa rồi. Tôi muốn kể sự việc chiều nay như vậy để tâm sự với các bạn: Viết được là một hạnh phúc và viết những gì có ý nghĩa lại thêm một hạnh phúc khác. Thêm vào đó, được người đọc hiểu, chia xẻ, cảm thông với các bạn, tôi nghĩ rằng các bạn không còn niềm vui, sung sướng và hạnh phúc nào bằng.
Thân chúc cô Phạm-Chi Lan và các bạn trong ban biên tập thành công hơn nữa trong việc giữ gìn và làm với nền văn học nghệ thuật Việt-Nam trong những năm tháng cả nhân loại đang chuẩn bị bước vào thế kỷ thứ 21 này.
Thân mến,
Lương-Thư-Trung
GỬI NGƯỜI PHỤ NỮ
Raxun Gamzatop
Hỡi người phụ nữ
nếu có nghìn đàn ông yêu em
em có biết trong nghìn người ấy
có Raxun Gamzatop nữa mà
Còn nếu như chỉ có
trăm đàn ông yêu em
em hãy nhớ trong số trăm người đó
nhất định Raxun Gamzatop có tên
Còn nếu như yêu em
đàn ông chỉ còn một chục
thì Raxun Gamzatop
đứng thứ bảy hay tám trong hàng
Nếu đàn ông chỉ còn lại một người yêu em
tôi xin thề - người đó không ai khác
ngoài Raxun Gamzatop, em ơi
Còn nếu em đi cô đơn buồn tủi trên đời
không ai yêu em nữa
thì có nghĩa ở một nơi nào đó
trên núi cao, Gamzatop chết rồi.
Ðoàn Minh Tuấn dịch
oOo
Raxun Gamzatop, nhà thơ của xứ sở núi đá Ðaghextan (Liên xô cũ), vốn là người luôn nổi trội với những cách nói độc đáo trong thơ. Tôi thú nhất là cách nói tưng tửng "chết người" của ông. Cứ giễu giễu, đùa đùa, bỡn cợt, ấy vậy mà khi gấp trang thơ lại, lòng mình bỗng nhói lên quặn thắt!
Bài thơ này, xét đến cùng, hồn cốt của nó thực ra chỉ là ba tiếng muôn thuở: anh yêu em. Gamzatop đã phát tán ba tiếng muôn thuở ấy trong năm khổ thơ, nhưng thống nhất trong một cách giãi bày. Ông đã sử dụng những đại lượng đo đếm theo một trình tự từ cao đến thấp, từ mêmh mông ước lệ đến một tiêu điểm nhọn sắc như mũi kim. Sau giả thiết "nếu như" (thật tế nhị!), ông đưa ra các tình huống: có một nghìn gã dàn ông yêu em, một trăm gã đàn ông yêu em, một chục gã rồi cuối cùng là... một gã - thì trong tất cả các tình huống ấy, luôn có một gã với tên tuổi thật cụ thể là Raxun Gamzatop! Tình yêu là chuyện của một người với một người, bởi vậy cái trình tự mà nhà thơ theo đuổi là hợp quy luật. Như thế, cũng có nghĩa là nhà thơ đang tìm cách khẳng địh tình yêu của mình. Ngôn ngữ đối thoại của ông với người phụ nữ cũng theo trình tự đó mà thay đổi. Lúc đầu là bâng quơ nghi ngại "Em có biết trong nghìn người ấy. Có Raxun Gamzatop nữa mà". Sau đó là nhắc nhở:" Em hãy nhớ trong số trăm người độ.". Rồi riết róng hơn khi con số đàn ông chỉ còn một chục: "Thì Raxun Gamzatop. Ðứng thứ bảy hay tám trong hàng". Như thế đã là cụ thể, nhưng nhà thơ thấy chưa đủ, vẫn cần phải quyết liệt hơn: "Nếu đàn ông chỉ còn lại một người yêu em. Tôi xin thề - người đó không ai khác. Ngoài Raxun Gamzatop, em ơi". Ðến lúc này thì cái tiêu điểm nhọn sắc như mũi kim kia đã hiển hiện. Một nhà thơ non tay đã có thể bằng lòng dừng lại, một người tình nửa vời đã có thể đắc ý, nhưng Gamzatop thì không. Cái mũi kim ấy cần phải chích vào tâm hồn đôi lứa, cho dù nó có thể rỉ máu:
Còn nếu em đi cô đơn buồn tủi trên đời
không ai yêu em nữa
thì có nghĩa ở một nơi nào đó
trên núi cao, Gamzatop chết rồi.
Ý tưởng đột ngột đến ớn lạnh. Cái tưng tửng "chết người" chính là ở đây. Cái chết (giả thiết) hiện ra trên núi cao, chợt làm lung linh cả một bài thơ toàn những đại lượng đo đếm với giọng đùa đùa. Không chỉ còn là thơ Raxun Gamzatop nữa, bài thơ đã rất xứng đáng trở thành thông điệp của mọi người đàn ông biết yêu trao gửi cho người phụ nữ của họ.
Không rõ nguyên tác bài thơ ra sao, nhưng cứ bằng vào những gì đã biết về thơ Gamzatop, tôi cho đây là một bản dịch thành công của Ðoàn Minh Tuấn.
5/9/1996
Trần Hòa Bình
Cô Bé Dỗi Hờn
Không biết từ bao giờ và cũng không biết ai đã đặt tên cho cô bé cái tên cúng cơm "Nhỏ". Chỉ biết rằng nó được truyền tai nhau trong đám bạn bè của Nhỏ, từ hồi Nhỏ còn học ở trường làng. Có lẽ vì Nhỏ có cái tướng mảnh khảnh như rong rêu chăng? Trong đám bạn của Nhỏ, Nhỏ chơi thân nhất với thằng Tài Sún. Tên hắn là Tài và hắn bị sún hai cái răng cửa, nên ai cũng gọi hắn là Tài Sún. Hắn tuổi con cọp; còn Nhỏ tuổi con mèo. Nhỏ chơi thân với hắn cũng tại vì hắn hay theo chọc ghẹo Nhỏ; đến khi Nhỏ giận thì hắn tìm đủ mọi cách dỗ dành.
Nhỏ còn nhớ lúc trước Nhỏ và hắn thường chơi đánh "ca-rô". Có lần hắn đưa ra điều kiện: nếu mỗi lần ai thua thì người đó phải uống một ly nước. Bữa đó, Nhỏ bị thua nặng đến nỗi bụng phình to như có thai vậy. Khi Nhỏ không uống thêm được nữa, hắn cầm ly nước Nhỏ uống dở dang đổ lên đầu Nhỏ. Nhỏ giận tím mặt và tìm cách "ăn miếng trả miếng". Thua keo này, Nhỏ nghĩ kế bày keo khác. Ngày hôm sau để rửa hận, Nhỏ dụ hắn chơi búng dây thun. Nhỏ nhờ có móng tay dài nên hạ đối thủ đo ván. Mỗi một sợi dây thun là một cái búng mũi. Mũi hắn sưng to, đỏ như trái dâu chín đến nỗi hắn mắc cở không dám đi học. Từ đó, Nhỏ đặt cho hắn cái tên "lỗ mũi ăn trầu". Cái mà Nhỏ thích nhất nơi hắn là hắn rất chung tình trong miếng ăn. Có cái gì ăn, hắn cũng chia cho Nhỏ. Nhà của Nhỏ và nhà của hắn chỉ cách nhau một cái ao sâu. Có lần, hắn có củ khoai luộc. Hắn ra bên bờ ao gọi Nhỏ. Khi thấy Nhỏ, hắn bẻ nửa củ ném sang bờ bên này cho Nhỏ. Nhưng nửa củ khoai đụng phải cành cây mọc mất trật tự rơi xuống ao. Nhỏ đứng bên này ngây ngô, nũng nịu, dậm đôi chân dỗi hờn. Thế là còn nửa củ của hắn, hắn ném sang cho Nhỏ luôn. Nhỏ cầm lên ăn một cách sung sướng, đã miệng. Từ đó, hắn gọi nhỏ là con bé tham ăn.
Ngày Nhỏ lên lớp sáu thì hắn cũng lên lớp bảy. Nhỏ và hắn không còn chơi dây thun, đánh ca-rô nữa. Nhưng Nhỏ có trò chơi mới cho hắn: hái hoa, bắt bướm. Sau nhà hắn là khu vườn trồng rau và cây ăn trái rất rộng. Cứ mỗi buổi chiều đi học về thì Nhỏ bắt hắn phải ra sau vườn bắt ít nhất một con bướm cho Nhỏ. Nhỏ đam mê cái thú ép bướm, ép hoa trong sách. Nhỏ thích nhất những con bướm nhiều màu. Bướm càng nhiều mầu càng quí. Lúc đó, Nhỏ chưa biết làm thơ, yêu thơ. Nếu không thì có lẽ mỗi con bướm đã là một bài thơ. Chẳng bao lâu, hắn đã trở thành tay bắt bướm chuyên nghiệp. Trong sách của Nhỏ ép đủ mọi loại bướm và hoa. Từ con bướm vàng đến con bướm trắng; từ hoa cúc dại đến những cánh hoa thuỷ tiên. Một lần, Nhỏ thắc mắc hỏi hắn:
- Làm sao phân biệt được con bướm nào là bướm đực, con bướm nào là bướm cái?
Hắn trả lời tỉnh bơ:
-Thì con bướm nào đậu thưởng thức nhuỵ hoa lâu, đó là con bướm cái.
Nhỏ vẫn chưa thỏa mãn:
-Tại sao vậy? Đơn giản vậy sao?
Hắn trả lời rất tự nhiên, cái tự nhiên non trẻ:
- Tại nó ham ăn.
A, thật là đụng chạm quá chừng. Hắn thường nói Nhỏ là con bé ham ăn. Tức thì, Nhỏ bỏ cuộc chơi với hắn. Tội nghiệp, hắn chạy theo năn nỉ mà dường như chưa hiểu vì sao Nhỏ dỗi hờn. Tình bạn của Nhỏ với hắn đã trở nên như hình với bóng. Ngày nào không gặp hắn thì cũng như ngày đó không có ánh mặt trời. Những lúc hắn chơi đùa với những đứa bạn khác, Nhỏ như thấy nổi ghen trong lòng. Nhỏ muốn hắn chỉ chơi với Nhỏ, một mình Nhỏ mà thôi. Một lần, nhà trường có tổ chức văn nghệ cuối năm. Hắn hẹn Nhỏ đi tập hát trên trường. Ngày hôm đó, trời mưa nặng hột. đợi mãi không thấy hắn, Nhỏ bỏ đi về. Nhưng kìa, xa xa dường như đúng là hắn đang sửa xe cho bé Lan. Tình quá ta! Con bé đang đứng cầm dù che mưa cho hắn đang cắm cúi làm cái gì không rõ. Nhỏ lủi thủi đi con đường khác về nhà. đã mấy ngày không gặp hắn. Nhỏ còn tức muốn chết nhưng nhớ hắn chịu không nổi. Nhỏ lần mò ra bờ ao, ngồi cạnh gốc cây ổi. Một lát sau như dự đoán, hắn xuất hiện hỏi Nhỏ:
- Nhỏ đang làm gì thế?
Nhỏ không thèm trả lời. Hắn cố giải thích rằng: ngày hôm đó, hắn có tới trường nhưng không thấy Nhỏ đâu. Nhỏ không muốn nghe lời giải thích hắn có tới hay không tới. Nhỏ chỉ muốn biết tại sao hắn lại đi với con bé Lan, nhưng hắn lại không nhắc đến chuyện đó. Nhỏ không cần biết hắn ra tay nghĩa cử đại hiệp với một cô gái vì lý do gì. điều duy nhất là Nhỏ chỉ muốn hắn thuộc về Nhỏ và chỉ một mình Nhỏ mà thôi. Hắn lại hỏi tiếp:
- Nhỏ nhìn cái gì mà đăm chiêu vậy?
Nhỏ trả lời nặng giọng, cụt ngủn:
- Đang nhìn con bìm bịp.
Hắn ngạc nhiên lắm:
- Con bìm bịp là con gì?
Nhỏ thấy hắn đã sa bẫy của mình:
- Chưa bao giờ thấy con bìm bịp hả? Được rồi, leo lên hái cho Nhỏ trái ổi trên kia đi. Rồi Nhỏ chỉ nó cho mà xem.
Hắn nhận ra điều hơi kỳ lạ. Hắn hỏi:
- Mấy trái ổi ở dưới này to và chín hơn sao lại không hái?
Nhỏ lên giọng như ra lệnh:
- Mặc kệ, Nhỏ thích trái trên đó thì phải lên hái cho Nhỏ.
Hắn lững thững leo lên và cố leo lên. Nhưng kỳ thiệt, trời không có gió mà sao cành cây lại bắt đầu đong đưa như vậy? Nhỏ rung mạnh hơn. Hắn quay xuống, mở to đôi mắt:
- Ê Nhỏ, đừng chơi kỳ cục như vậy mà!
Ùm một cái! Nước bắn lên tung tóe. Tay chân hắn vùng vẫy loạn xạ, cố bơi vào bờ. Nhỏ hả giận chỉ tay vào hắn không chút tội nghiệp:
- Đó! Con bìm bịp đang bơi đó.
Thì ra, Nhỏ cho là hắn cố tình bịp Nhỏ về chuyện sửa xe cho con bé Lan. Về nhà nghĩ lại, Nhỏ cảm thấy tội nghiệp cho hắn lắm.
Hoàng hôn đã chiếu những tia nắng cuối ngày lên tuổi bắt bướm, hái hoa của Nhỏ. Nhỏ và hắn đã ở vào những năm cuối của trung học. Nhỏ không còn cảm thấy bé nhỏ như ngày nào. điển hình nhất là thân hình Nhỏ. Từ một bộ ngực bình nguyên bằng phẳng nay đã trở thành một cao nguyên với những núi đồi tròn trĩnh, phì nhiêu đầy nhựa sống. Từ một cái eo hoang dại nay đã trở thành một eo biển với những đường cong tuyệt mỹ, những nét chấm phá mềm mại thu hút những cặp mắt của du khách thưởng ngoạn. Từ một đôi môi hời hợt màu sung chín, nay đã trở nên ươm mọng màu dâu đỏ trữ tình, quyến rũ với sức mạnh đốt cháy một tâm hồn. Thế nhưng, Nhỏ chưa nghỉ cuộc chơi. Nhỏ lại có một trò chơi mới đầy phiêu lưu, mạo hiểm: tình yêu. Nhỏ nghe nói cuộc đời luôn là một cuộc chơi: kẻ chạy trốn, kẻ kiếm tìm. Nhỏ đã bắt đầu làm thơ và yêu thơ. Nhiều khi, Nhỏ mê thơ đến thẩn cả người. Nhỏ không biết mình đã yêu từ khi nào? Từ những chiều bắt bướm, hái hoa hay từ những giận hờn vu vơ? Nhỏ chỉ biết rằng không có hắn Nhỏ thật cô đơn, nhớ nhung day dứt.
Một ngày nọ, trời nắng nhẹ. Hắn đưa Nhỏ đi dạo biển. Lần đầu tiên thấy biển, Nhỏ thích lắm. Hắn cầm tay dắt Nhỏ trèo qua ghềnh đá lởm chởm để ngồi gần mặt nước hơn. Nhỏ say mê nhìn từng con sóng nối đuôi nhau đập vào những tảng đá, bắn tung tóe thành những bông hoa biển, tang tác. Và tiếp sau đó, những cái bong bóng trắng xuất hiện nhảy múa trên mặt nước, rồi tan vỡ. Nhỏ cảm thấy một chút mong manh chợt thoáng về. Mắt Nhỏ lại dán vào những cụm rong rêu trôi lềnh bềnh theo dòng nước, vô định hướng. Nhỏ cảm thấy đời một kiếp rong rêu, một kiếp phù du, một kiếp tang bồng. Nhỏ đưa mắt nhìn ra xa. Một chân trời mờ mịt, mênh mông, không bờ bến. Nhỏ cảm thấy con thuyền tình yêu của mình đang lênh đênh, chưa biết đâu là bến, đâu là bờ? Nhưng mắt nhỏ bỗng lóe lên tia sáng hy vọng khi nhìn thấy ánh cầu vồng hiện trên nền trời xa tít, mù khơi đó. Chiếc cầu vồng đủ màu sắc xinh đẹp như những cánh hoa, những cánh bướm thật nên thơ, rất thơ. Chiếc cầu vồng dường như khắc tên tình yêu của Nhỏ. Nhỏ hăng hái tiếp tục lăn vào cuộc chơi với tình yêu.
Nhỏ nãy giờ suy nghĩ mênh mang mà quên mất cái bóng đang ngồi bên cạnh mình. Thấy hắn cũng đăm chiêu suy nghĩ và hồn cũng bay bổng lên mây. Nhỏ thấy hắn thật dễ thương hơn cả tài tử phim Tàu. Nhỏ quay sang hỏi hắn, giọng chỉ đủ hai đứa nghe:
- Anh đang suy nghĩ gì vậy?
Hắn giật mình trả lời không kịp suy nghĩ:
- Thì, anh nghĩ cái mà Nhỏ đang nghĩ đó?
Nhỏ bỗng đỏ mặt, e thẹn:
- Anh nghĩ bậy không à!
Nhỏ đứng lên bỏ chạy. Hắn đứng trải mắt nhìn theo Nhỏ. Hắn thơ thẩn, thì thầm hỏi biển:
- Không lẽ hôn nhau mà bậy bạ à?
Chân Mây
20/10/96
The Quail (Chim Cút) của Rolf Yngve đăng trong Quarterly West, số 5, 1978. In lại trong tuyển tập nhiều tác giả Sudden Fiction, do Robert Shapard và James Thomas tuyển chọn; Peregrine Smith Books, Salt Lake City, xuất bản năm 1986.
Chim Cút
Chim cút đến vừa trước lúc những đoá tử đinh hương nở rộ trong kỳ ấm của mùa xuân đầu tiên sau khi họ cưới nhau. Sáng đó là buổi sáng ấm áp đầu tiên không đông giá, chỉ có sương. Cảm thấy ánh mặt trời trên giường, nàng dậy sớm hơn thường lệ; khi thấy bầy chim cút trong sân sau, nàng đánh thức anh. Anh thấy tám con chim đang bới đất và mổ mổ trong vườn của người chủ nhà.
Anh bảo nàng chúng là chim cút California. Lũ chim mái giống như những bà goá phụ giàu có phục phịch, ăn mặc chỉnh tề trong mầu nâu và xám. Ba con trống béo tốt, ngực xám với mảng lông đen ở cổ đi theo bảo vệ chúng. Mỗi con có một chùm lông đen phất phới trên trán. Chúng lang thang trong vườn như một nhóm du lịch, ngừng lại mổ đất, bay liệng riêng tư không mục đích nhưng giữ bầy với nhau.
Hai người mặc quần áo, thì thào về những con chim và nhìn chúng mổ thức ăn sáng trên bãi cỏ. Anh pha cà phê, hâm nóng bánh, và họ ăn ở bàn nhà bếp để có thể xem bầy chim. Anh mở cửa sổ; họ có thể ngửi thấy mùi ẩm ướt của ban mai và hoa táo. Mặt trời xuyên qua cửa sổ; ổ bánh ngọt mùi nho khô, và họ không phải nói gì với nhau.
Tối hôm đó, trên đường đi làm về, anh ghé hiệu bán thức ăn súc vật mua bắp vụn. Anh giải thích với nàng rằng chim cút sẽ ở lại miễn là chúng được cho ăn và được chăm sóc đàng hoàng. Anh rải bắp gần cửa sổ nhà bếp, và vào lúc mặt trời lặn bầy chim trở lại. Chúng đến rất gần cửa sổ, mổ bắp, và lăn ra tắm bụi trong vườn của người chủ nhà. Nàng hỏi anh liệu bầy chim có ăn hạt giống và cây của chủ nhà không. Anh bảo nàng rằng mảnh vườn sẽ không bị thiệt hại miễn là họ nuôi bầy chim bằng bắp.
oOo
Từ khi các con chim đến, họ bắt đầu để đồng hồ báo thức sớm. Lúc đầu để họ có nhiều thời giờ uống cà phê, ăn bánh và xem bầy chim hơn. Khi hoa tử đinh hương nở và cây uất kim hương đâm chồi, họ để báo thức sớm hơn nữa và làm tình trước khi dậy. Sau đó nàng sẽ tắm, và anh sẽ làm điểm tâm và rải thêm bắp cho các con chim.
Hay nhất là xem bầy chim ngay sau lúc hừng đông, trước khi có tiếng ồn xe cộ, trước khi người chủ nhà thả con cún ra. Chủ nhà sống kế bên, có hàng rào lưới gà ngăn hai khu vườn. Khi ông ta thả con cún ra, nó điên cuồng đuổi bắt chim cút, nhảy xổ vào hàng rào, sủa ăng ẳng tiếng chó con rồ dại. Bầy chim bay lên, đập đập không khí; rồi đáp trên những nhánh thấp của cây táo, đợi con chó yên rồi xuống trở lại những hạt bắp.
Chẳng mấy chốc anh có thể để bắp trên bệ cửa sổ và chim cút sẽ ăn sáng chung với họ. Nếu họ im lặng và ăn không có cử động bất thần, các con chim sẽ vỗ cánh tới bệ cửa sổ cách bình cà phê và rổ bánh khoảng một bước. Các con chim mổ bắp, ăn từng mẩu một. Mỏ chúng mổ vào bệ cửa và mắt chúng óng ánh. Anh tháo cửa lưới để xem chúng có vào trong không.
Bốn con chim trống gan dạ, đôi khi bước lên bàn, rỉa và xù lông, lúc lắc lông mào. Trong nhiều tuần, nàng thử cho chúng ăn vụn bánh ngọt trên ngón tay nàng. Các con trống nhìn vụn bánh, nhưng cuối cùng là một con mái chạy tới vụn bánh đưa mời, nghiêng mắt nhìn với bộ lông như lông mũ vểnh lên trên một mắt, rồi mổ vụn bánh. Mỏ con chim mái chạm vào những ngón tay nàng. Nàng bật cười; bầy chim vút khỏi bệ cửa sổ. Sau một tuần, các con chim lại bắt đầu đến bệ cửa sổ, con chim mái luôn luôn ăn một vụn bánh.
oOo
Buổi tối họ ngồi trên ghế ngoài cỏ và xem bầy chim ăn. Khi các bông hồng sớm nở và vườn của người chủ nhà đâm chồi, họ thấy một con mái phủ. Chuyện xảy ra trong vườn, và họ không thấy cảnh tán tỉnh, mà chỉ thấy cảnh đạp mái khi con trống, toàn thân lông xám và nâu với lông cổ mầu đen, dùng mỏ uốn cong cổ con mái xuống. Con mái quằn quại trên đất khi con trống leo lên nó và dùng cánh đập vào hai bên nó.
Và vợ người chủ nhà từ trong nhà hét vọng ra:
- Tom! Chúng lại vào vườn nữa, TOM!
Người chủ nhà từ trong chạy ra, quơ tay, suỵt suỵt, cổ ông nhăn và già, bộ tóc trắng lởm chởm.
Các con chim bay lên đập đập không khí.
Vợ ông giữ cánh cửa lưới mở, nghiêng người ra, rít lên:
- Tom, ông _phải_ làm sao với mấy con chim! Mình phải ăn đám vườn chết tiệt đó mùa đông này, nào, nếu ông muốn ăn mùa đông này thì ông phải làm gì đi chứ.
Cánh cửa lưới đóng sập một tiếng, bà ta bước ra, dáng gù, con cún bên cạnh chân, chân bà giạng ra, bộ áo của bà là bộ áo xám của phụ nữ nông trại với cái tạp dề nhem nhuốc. Tiếng bà như tiếng con cún.
- Ðồ chết tiệt, _Tom! Ông làm sao với lũ chim này hả?
Người thuê và vợ anh ngồi trong ghế ngoài cỏ nhìn, nghĩ họ nên làm một điều gì đó. Có lẽ nói với bà cụ rằng lũ chim sẽ không quấy phá các cây con. Nhưng họ nghĩ bà ta sẽ gây sự với họ, hét lên với họ vì bà đã già và đang giận. Họ nghĩ tốt nhất nên để sau hãy nói, khi bà ta bình tĩnh lại.
Hôm sau người chủ nhà nói ông thích lũ chim và khu vườn đã đủ lớn để không còn sợ bị hư hại nữa. Ông nói ông vẫn thích chim cút. Từ khi còn là trẻ con, ông đã nghĩ là chúng đẹp và ngon thịt, nhưng có vợ ông ta đó. Người chủ nhà nói vợ ông chắc sẽ yên tâm hơn trong một hay hai ngày tới, và mảnh vườn luôn luôn là điểm nhức nhối của bà ta vì họ đóng hộp rau trái dành cho mùa đông.
oOo
Khi những cây poppy nở hoa và cây đậu ngọt đâm chồi, đã có ba lứa ấp. Những con chim non đầu tiên xuất hiện vào buổi ăn sáng, có chim mái dẫn đường len lỏi tới hạt bắp, và chim trống chạy vòng quanh phía sau để giữ đám chim non vào hàng. Họ đếm được mười con chim mới trong ba gia đình, và họ dậy sớm hơn nữa để có thể nấn ná trong bữa điểm tâm và ngửi mùi hạt mù tạt khô sau vườn.
Một con chim mái dẫn đám chim non của nó tản bộ xuống vỉa hè trước nhà. Nó sẽ dắt gia đình đi dạo đúng năm giờ ba mươi. Một tối, người chủ nhà và vợ ông ngồi ở thềm trước không tin con chim mái sẽ xuất hiện như người thuê nhà đã tả. Họ cả cười khi thấy con mái khệnh khạng đúng giờ. Người chủ nhà và vợ ông uống bia, và kể cho họ về thời kỳ kinh tế suy thoái hồi hạn hán và họ phải để dành mọi thứ. Bà cụ nói bà vẫn còn thói quen đó và cũng nói rằng bà đã quá lo cho mảnh vườn. Cặp thuê nhà nghĩ vợ người chủ nhà cũng bình thường.
oOo
Ðến mùa thu, họ đóng hộp táo và táo nghiền. Người chủ nhà thu hoạch bí, cà rốt, cà chua, củ cải đường. Vợ người chủ nhà đổi táo hộp của họ lấy anh đào hộp. Người chủ nhà tỉa bớt vườn, và người thuê giúp ông già phòng chống bão, xới mảnh vườn, và thu dọn nhà để xe. Anh mua một túi hai mươi lăm ký ngũ cốc vụn và đóng một cái máng ăn bằng gỗ đỏ. Cái máng trên bệ cửa sổ sẽ đủ chỗ cho tất cả mười tám con chim cút, dù phải đóng cửa sổ.
Bầy chim đủ khoẻ mạnh khi mùa đông đến. Anh bảo nàng rằng các con chim sẽ qua một mùa đông dễ dàng với bắp vụn, và nói chúng sẽ ở gần chỗ thức ăn. Các con chim non đã lớn, chúng được nuôi đầy đủ, bộ lông mới trưởng thành óng mượt. Tám con lúc đầu tròn trĩnh, mập mạp nhờ bắp hồi mùa hè. Anh trấn an nàng rằng các con chim sẽ khoẻ mạnh qua mùa đông.
Khi lá rụng và lại có sương giá, họ đóng cửa sổ nhà bếp. Nàng không thể cho chim mái ăn vụn bánh, nhưng bây giờ họ có thể nói chuyện mà không làm các con chim sợ. Họ nói về mùa hè có chim cút thức họ dậy sớm. Anh bảo nàng rằng anh đã từng ước mong cả đời mình sẽ có ngày như mùa hè đó.
Khi có sương đá và những buổi mai lạnh, họ nấn ná trong giường, thức giấc, ấm áp bên nhau, nghĩ về chim cút, nghĩ về sự ấm áp.
oOo
Buổi sáng sau trận tuyết đầu, chim cút không thấy nữa. Anh quét tuyết ra khỏi máng ăn và thay thế chỗ bắp ướt. Tối đó bầy chim không trở lại, và sáng hôm sau không thấy đụng đến bắp. Anh bảo nàng rằng trong mùa đông chim cút có thể đến những ngọn đồi bên ngoài thị trấn. Anh bảo nàng rằng đồi núi có chỗ ẩn nấp tốt hơn và mùa săn đã hết, vì thế chúng sẽ an toàn. Anh bảo nàng rằng các con chim sẽ trở lại vào mùa xuân và mọi chuyện lại giống như trước.
oOo
Người thuê nhà và vợ anh ngủ trễ và say giấc suốt mùa đông. Mùa đông khô ráo, ảm đạm, và lạnh lẽo. Người ta nói về hạn hán khi mùa hè đến, người chủ nhà trữ nước cho mảnh vườn của ông bằng cách chứa trong những phuy dầu cũ.
Người thuê nhà thay bắp thường xuyên, rải một ít trên mặt đất giá băng. Nhưng chim cút không trở lại, và lũ chim sẻ và chim giẻ ăn hạt bắp. Vợ anh nói nàng biết chim cút sẽ trở lại trong mùa xuân và mọi chuyện lại giống như trước.
oOo
Khi mặt đất tan băng và có mùi bùn đất bên ngoài, người thuê nhà thấy chủ nhà dọn nhà để xe nên đến giúp. Khi anh thấy cái túi nhựa đựng đầy lông xám và nâu: lông tơ, lông cánh, một số dính những mẩu da khô; khi anh thấy cái túi đó và cái bẫy lưới lồng gà lớn trước đó không có trong nhà xe, anh hỏi người chủ nhà làm sao ông bắt được cả bầy chim cùng một lúc. Người chủ nhà nói đó là ý kiến của vợ ông. Họ đã đợi đến khi có trận bão tuyết đầu tiên và bẫy lũ chim khi chúng túm tụm vào nhau. Ông nói thịt chim ăn ngon lắm.
Người thuê nhà không nói với vợ về cái túi hay cái bẫy nhưng dường như nàng biết. Sau một thời gian anh thôi không rải bắp ra nữa, và khi cái túi hai mươi lăm ký bắt đầu mục, anh ném nó vào thùng rác.
Y Cựu dịch