vhnt, số 202
3 July 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ trẻ SàiGòn ..................................Nguyễn T. Dũng p/t
- Viết lúc hoàng hôn ..................................Ngô Thị Ý Nhi
- Không đề ..............................................Hà Thiên Sơn
2 - Mai em về .............................................Trần Hoài Thư
3 - Như giấc mơ .........................................Tôn Thất Hưng
4 - Mong manh .............................................Ðặng Khánh Vân
5 - Ðêm thứ nhất .......................................Caroline N Phung
6 - Trên ngọn tình sầu ..............................Trần Nguyên Thảo
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Những người cuối cùng của phong trào thơ mới ..Lê Xuân Sơn
8 - Về thơ tương tác của Du Tử Lê .................Trần Thái Vân
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Lười ..................................................Bùi Thanh Liêm
10- Cánh sen cuối mùa ..(phần 1/2) ..........................Ðức Lưu
Việc xác định một quan niệm về thơ, về sáng tác, là để dẫn ta tìm đến với những tác phẩm hay theo một chiều hướng cá biệt. Một tác phẩm hay có thể định nghĩa theo kiểu... ba phải, là một tác phẩm mang cảm giác khác với tác phẩm tầm thường. Nhưng làm sao biết nó hay, làm sao lý trí và tình cảm có thể phối hợp phân tích, để cho ta biết một tác phẩm hay là tác phẩm có đủ cả hình thức và nội dung, hội đủ mọi điều kiện kỹ thuật hoàn hảo và tình cảm làm mình rung động? Tôi chỉ là một kẻ thưởng thức hạng xoàng, phân tích thơ ư? Điều này khiến tôi luôn bối rối, tôi chỉ có thể chỉ cho bạn xem một bài thơ khiến tôi có thể ôm mặt khóc, trong khi có thể người khác nhìn nó và dửng dưng, hoặc một đoạn văn khiến người ta đặt sách xuống bỏ đi tìm việc khác làm, trong khi tôi lại ôm nó vào lòng như mẹ ôm con. Tôi đã từng biết qua những cảm giác ấy. Khi chẳng còn ai bên cạnh có thể hiểu nổi mình, tôi đi tìm quyển sách.
Người ta có thể chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra trong cuộc đời, một biến cố lớn lao nào đó, gặp một người, đến một nơi chốn nào... việc đó có thể sẽ ảnh hưởng phần đời mình. Vậy thì một sinh hoạt tinh thần cần thiết, như là đọc sách, khi gặp một cuốn sách hay có thể làm thay đổi quan niệm, hay vĩ đại hơn có thể làm thay đổi cuộc đời của mình không? Tại sao không? Cuộc đời người ta có thể được/bị ảnh hưởng thay đổi bởi một biến cố nào đó do kẻ khác mang lại, thì tại sao một cuốn sách hay lại không thể thay đổi được con người ta? Một cuốn sách có cuộc đời của nó, từ lúc được thai nghén, cho đến lúc chào đời, giáp mặt với đời sống, với những kẻ đọc nó, nó cũng đã trải qua bao nhiêu biến động tình cảm như mình. Ở trong nó chất chứa nhiều điều muốn nói, muốn tìm hiểu ở đời sống, ở trong nó chuyên chở một cuộc sống. Và khi người đọc và nó gặp nhau, khi hai kẻ cô đơn đồng cảnh ngộ tương kiến, sự đồng cảm nảy nở.
Tôi thường thích lục tìm ở các vỉa hè bán sách, garage sale, nếu cơ may khiến tôi gặp một cuốn sách hay thì đó là một cảm giác hạnh phúc. Mặc dù chỉ phải bỏ ra vài đồng thay vì năm mươi dollars mua một cuốn sách best seller bày trong tiệm sách, cuốn sách được cứu vớt đó vẫn có giá trị đối với tôi. Cuốn sách bất hạnh bị sa thải ấy lọt vào tay kẻ đọc nó, như đứa con bỏ rơi tìm được người bảo trợ nuôi dưỡng.
Chúc bạn tìm được những cuốn sách hay qua những cơ duyên.
oOo
Xin thông báo với bạn đọc về ấn phẩm Văn Học Nghệ Thuật: tuyển tập đang trong thời gian layout, hy vọng sẽ phát hành khoảng giữa tháng tám. Các bài được chọn đăng được tuyển lại từ những bài đã xuất hiện trên VHNT. Nhóm chủ trương sẽ tiện phép trích đăng lại một số bài xuất sắc cho ấn phẩm. Tác giả các bài chọn đăng đã được thông báo và xin tiểu sử. Khi gửi bài cho diễn đàn VHNT trên liên mạng, các bài được đăng sẽ được lưu trữ trong hệ thống archives của Saomai.org, ấn phẩm tuyển tập này cũng chỉ là một hình thức lưu trữ các bài chọn đăng. Xin tác giả hiểu rõ về thể thức này. Nhóm chủ trương sẽ thông báo đến các bạn đã ủng hộ đặt trước ấn phẩm trong một thư sắp tới. Cám ơn thịnh tình bạn dành cho vhnt và tuyển tập. Mong ấn phẩm tuyển tập sẽ là một món quà kỷ niệm đẹp giữa chúng ta .
Chúc bạn một cuối tuần nghỉ lễ Ðộc Lập thoải mái.
thân ái,
PCL/vhnt
Viết Lúc Hoàng Hôn
Những câu thơ viết lúc hoàng hôn
Cũng tội nghiệp như tàu rời ga chuyến cuối
Trước mặt mình là bóng tối,
Vẫn ra đi...
Những câu thơ quay quắt điều chi
Mà vùng vẫy tận đáy lòng quặn thắt
Dòng chữ trào ra từ ngọn bút
Khao khát bừng lên nhịp thở riêng mình.
Những câu thơ cũng muốn mình xanh
Vậy mà gặp hoàng hôn
Hoàng hôn lại tím
Ðợi mãi một vầng trăng
Vầng trăng lỗi hẹn...
Nên buồn chên chếch sao hôm,
Buồn chênh chếch sao mai...
Viết lúc hoàng hôn
Câu thơ như vệt nắng cuối cùng còn sót lại
Hóa thân thành ngàn sao thao thức mãi
Ðợi ngày mai thắp sáng lại mặt trời
Ðơn giản như con nước đầy vơi
Tiếng sóng mải mê vỗ đôi bờ bát ngát
Bởi dòng sông không tìm ra tiếng hát
Sẽ kiệt lòng khi chưa tới biển xanh...
Ngô Thị Ý Nhi
Không Đề
Dáng của em đi có thể lẫn vào cây
Lời của em có thể lẫn vào gió
Màu áo của em có thể lẫn vào nắng
Tình yêu của em đừng bao giờ có thể
Dẫu một chút thôi đừng để lẫn bao giờ!
Hà Thiên Sơn
Mai Em Về
Mai em về trở lại quê hương
Buồn để lại trên những phòng những lớp
Ðã quá tuổi của tâm hồn mới lớn
Sao tôi còn xa vắng đến rưng rưng
Gặp một lần thì nhớ mãi trăm năm
Tôi đã có cả trăm lần để nhớ
Giờ học muộn, buồn lên con tính khó
Trang sách nào bận ngủ ở bờ vai
Mái tóc nào, mun, và óng mượt dài
Vầng trán dịu thơm tho thời tuổi trẻ
Em không biết, một thời, tôi sách vở
Một thời tôi, tội nghiệp chuyến xe lam
Một thời tôi, có áo trắng quần xanh
ngu ngơ lắm mà si tình cũng lắm
Khi Quốc học còn tương tư Ðồng Khánh
Khi em còn mực tím với pelure
Giấy phải hồng, hồng yêu dấu tình yêu
Tôi đã cất, vì ngày mai, chẳng biết
Em qua sông, tôi qua cầu, thảm thiết
Con sáo nội thành gọi mãi mùa đông
Thôi thì đành đổ hết chiến tranh
Làm tuổi trẻ tôi già hơn quả đất
Mai em về, giòng Hudson phải khóc
Chiều rụng rời, đèn Nữu Uớc chờ ai
Cầu Skyway hay là chiếc cầu Trời
Chim Ô thước biết đưa người trở lại?
Trần Hoài Thư
Stevens Tech. tháng 1, 1992
Như Giấc Mơ
Như giấc mơ bay vào cửa sổ
Căn phòng em, làm chồng sách ngẩn ngơ
Không ai cả, chỉ bóng mờ kỹ niệm
Còn mùi hương lẩn quẩn trong nhà.
Có nỗi buồn nằm sâu trong mắt
Có đôi chân xa lắc vọng về
Có những chiều chầm chậm lê thê
Em đâu đó. Một mình tôi đứng lặng.
Như mặt hồ gương trong quá vô tình
Không dám động sợ vỡ hàng trăm mảnh
Lẫn em thôi; Mất hút trong đời.
Như giấc mơ cứ đi tìm, lạc lối
Như con chim mùa đông tội nghiệp
Theo lối cũ một ngày về thăm bạn
Này người ơi còn đó hay đi rồi!
TTH.
Mong Manh
Khói thuốc ai, vướng tóc mình
Im nghe sợi tóc lặng thinh thở dài
Ngỡ rằng chỉ thoáng khói cay
Ngờ đâu vị đắng sầu vây cuộc đời
Cuộc đời,
mảnh vỡ
mảnh rơi
mảnh tan
mảnh đọng
mảnh đời mong manh!
DKV
6/96
Ðêm Thứ Nhất
Em muốn nói,
nhưng sao tim đau nghẹn
Cảnh trí mờ,
nước mắt vội tràn mi
Môi gượng cười,
nếm giọt đắng phân ly
Giơ tay vẫy,
che ngang đôi dòng lệ
Tiếng còi tàu
vang lên trong cơn nấc
Xé màn đêm
như xé cả nỗi lòng
Ðèn sân ga
vàng úa mộng trắng trong
Em chợt biết
đêm nay đêm thứ nhất
Caroline N. Phung
6/26/96
Trên Ngọn Tình Sầu
Anh muốn thắp lên ngọn tình sầu
Van trời đừng hạn, cứ mưa mau
Mưa bay mù xóa giăng mờ lối
Em chìm trong biển trắng mùa ngâu
Nghe lòng thổn thức với tim đau
Em đùa trên những ngọn tình sầu
Hẹn anh nơi cuối trời thương nhớ
Mới hay tình ấy chỉ không màu
Rồi biết về đâu, biết về đâu
Ðêm nay ai thức cho mắt sâu
Ngày mai ai viết bài thơ trắng
Cõi tình vô tận để yêu nhau...
Thương đời, thương những nhánh sông sâu
Chiều nao mây trắng nhẹ qua cầu
Hạ vàng nhung nhớ, em là phượng
Phượng nở trong lòng hay ở đâu?...
Biết lòng anh có những mùa ngâu
Tơ tình như những nhánh sông đầu
Tóc mai sợi ngắn thương tình cuối
Sợi dài thương mãi lúc quen nhau...
Ừ, trời không hạn, sẽ mưa mau
Thôi anh, không có ngọn tình sầu!
Nên tình sương cỏ hoài giăng mắc
Như dòng mưa lũ giữa mùa ngâu ...
trần nguyên thảo
6/07/96
NHỮNG NGƯỜI CUỐI CÙNG CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI
Tính đến xuân nay, sau khi "ông đồ" Vũ Ðình Liên ra đi, Thơ mới còn lại 13 vị tông đồ. 11 người đã yên vị trong "Thi nhân Việt Nam" là Huy Cận, Ðoàn Văn Cừ, Tế Hanh, Anh Thơ, Mộng Tuyết, Yến Lan, Phan Khắc Khoan, Mộng Huyền, Thái Can, Xuân Tâm, Ðỗ Huy Nhiệm và hai người vì lẽ nào đó không có tên trong cuốn sách giờ đây đã trở nên một tấm bia kỷ niệm kia là Nguyễn Xuân Sanh và Gia Ninh (và biết đâu cũng còn vị tông đồ thứ 15, người vẫn còn là câu hỏi huyền bí của thi đàn ngót sáu chục năm nay dưới cái tên T.T.Kh.).
Khi viết "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh - Hoài Chân không có một thông tin nào về cá nhân Ðoàn Văn Cừ, nhà thơ mà mấy mươi năm trước, "cứ mỗi lúc xuân về người lại gửi trên báo một chuỗi cười ngũ sắc." Hồi trung tuần tháng 12-1995 vừa qua, một chuyến xe con của Hội Văn nghệ Nam Hà đã chở nhà thơ của lễ hội và tết nông thôn lên dự cuộc họp mặt của những nhà Thơ mới tại nhà của Huy Cận ở 24 Ðiện Biên Phủ, Hà Nội. Người viết bài này tiếc là không gặp được ông, chỉ biết là ông đang sống tại quê ở Nam Hà, vẫn khoẻ mạnh và đầy nhiệt thành khi nói về Thơ mới. Cũng ở xa là nữ thi sĩ Mộng Tuyết, nghe đâu đã rời nhà ở TP. Hồ Chí Minh để về Hà Tiên chốn cũ. Tôi được nữ thi sĩ Anh Thơ cho xem một bức ảnh chụp cách đây không lâu, ngày câu lạc bộ thơ nữ Quỳnh Dao kỷ niệm "60 năm tình bạn-tình thơ Mộng Tuyết-Anh Thơ", trong đó người phụ nữ cao lớn, tóc bạc trắng chính là Mộng Tuyết. Ðâu đó ở Sài Gòn còn có Ðỗ Huy Nhiệm, rời Hà Nội vào từ sau 1975. Hồi kháng Pháp, họ Ðỗ ở lại thành, sau 1953 cũng không tham gia hoạt động văn học, sống mai danh ẩn tích. Yến Lan - nhà thơ của "Bến My Lăng" - vẫn ở Bình Ðịnh, đang chống chọi khổ sở với bệnh tật.
Huế, một thời quần tụ nhiều nhà Thơ mới giờ vắng bóng họ vì người cuối cùng là bác sĩ Thái Can đã sang sống ở Mỹ từ lâụ Tại Hà Nội, ở khu tập thể Trung Tự, có Nguyễn Xuân Huy, giờ đã 81 tuổi, từ lâu ưa sống lặng lẽ, ẩn dật, đóc sách Phật. Sau cách mạng 1945, ông vẫn sống và dạy học ở Hà Nội, không in thơ nữạ Cũng ở Hà Nội, nhà thơ Gia Ninh đang nghỉ hưu sau một thời gian làm việc ở báo Nhân Dân.
Trong số các nhà Thơ mới, Huy Cận còn rất khoẻ. Cách đây hai năm, đi cùng ông về dự đại hội văn nghệ một tỉnh, khi đám trẻ tuổi chúng tôi còn đang ngây ngây sao 300 cây số ô tô thì ông làm việc với tỉnh uỷ; ngay tối hôm đó, khi chúng tôi đi nằm sớm cho lại sức thì ông lại làm việc với tỉnh uỷ! Ở tuổi 77, ông còn gánh tới... ba việc: phó chủ tịch Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, uỷ viên đoàn chủ tịch trung ương Mặt trận Tổ quốc VN, phó chủ tịch hội đồng quốc gia chỉ đạo biên sọan "Tự điển bách khoa", kiêm phó tổng biên tập. Ấy là chưa kể việc làm thơ mà theo lời ông thì tuần nào cũng có đôi bài. Nhìn con người thể chất khoẻ mạnh ấy, tôi không thể hình dung được cái tâm hồn đã làm nên tập "Lửa thiêng" thuở nào. "Lửa thiêng" là tập thơ đắc ý của ông. Ông dẫn lời của một nhà phê bình nổi tiếng nói đó là "tập thơ toàn bích nhất của Thơ mới."
Về sức khoẻ và số lượng tập thơ in ra, Nguyễn Xuân Sanh không hề thua kém Huy Cận. Ông đã nghỉ hưu quãng một chục năm trước đây sau hơn 30 năm làm công tác lãnh đạo văn nghệ (Hội Văn nghệ và sau đó là Hội Nhà văn VN). Ông có lối nói chuyện nhỏ nhẹ, rầm rì, chất giọng Bình-Trị sau bao nhiêu năm dường như không đổị Nhìn lại đời thơ, ông nói ông thích nhất thời trai trẻ có nhiều tìm tòi về nghệ thuật cùng với nhóm Xuân Thu Nhã tập, giai đoạn mà ông viết được câu thơ nổi tiếng: Ðáy đĩa mùa đi nhịp hải hà. Giờ đây, ông đang thấy một nguồn cảm hứng mới do những thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội mang lại, "hằng ngày đều làm việc và hằng tuần đều có những bài thợ" Ông cũng đang viết một bộ hồi ký lớn.
Nữ thi sĩ Anh Thơ cũng đang tập trung viết hồi ký. Hôm tôi đến thăm bà ở khu tập thể Văn Chương, Hà Nội, bà đang sửa bản in thử của tập "Từ bến sông Thương." Bà suýt xoa tiếc vì nhà xuất bản cắt hẳn hàng chương trong đó vì sợ sách quá dày, không đủ tiền in. Hồi tưởng lại, bà thấy thích nhiều câu trong tập thơ "Bức tranh quê" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939, những câu mà sau này bà không tài nào viết được nữa, ví như: Mưa bay trăng nhè nhẹ dệt tơ vàng.
Anh Thơ hẳn là người có tài nhất trong các nữ thi sĩ của phong trào Thơ mớị Bà đã không đánh mất hồn thơ, dù trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp chuyên đi làm công tác phụ nữ, bình dân học vụ, có thời kỳ làm cả cấp dưỡng nấu ăn cho hàng trăm người. Giờ đây, bà còn nhiều dự định, trước hết là tập 3 của cuốn hồi ký mà bà cho là một tác phẩm quan trọng trong đời; sau đó là xuất bản tập thơ "Hương cuối mùa" như là tập thơ cuối đời.
Hai lần tôi đến căn phòng gác hai ở số 10 Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội, hé nhìn vào đều thấy Tế Hanh nằm nghiêng hướng ra phía cửa, đôi mắt mờ đục không hồn. Vậy mà ngày xưa, các tác giả của "Thi nhân Việt Nam" viết về đôi mắt ấy như thế này: "Nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt. Ðôi mắt nồng nàn lạ. Tôi nghĩ ở một người như thế, những điều cảm xúc, những nỗi đau xót sẽ quá mực thường và có khi khác thường." Con người của những cảm xúc "quá mực thường" ấy giờ đây có được cảm xúc, ý nghĩ nào đều phải nhờ vợ viết hộ ra giấy. Chính vì vậy mà ông ít viết. Là người ham mê bóng đá, giờ đây ông đành hài lòng với tiếng của người tường thuật. Cách đây hai năm, tôi gặp nhà thơ Xuân Tâm ở chỗ Tế Hanh, hai người đang nói về vụ bê bối của đội Olympique Marseille. Xuân Tâm cũng mê bóng đâ Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm giám đốc ngân khố Liên khu 5. Tập kết ra Bắc làm ở Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, Xuân Tâm không còn thời gian cho thơ và dần dần mất kỹ năng thơ. Có lần ông viết đưa cho Huy Cận xem, Huy Cận bật cười, thế là ông thôi hẳn. Mãi đến khi nghỉ hưu năm 1978, ông mới bỏ hai năm ra đọc lại thơ và học lại cách "các nhà thơ bây giờ làm thợ" Ông viết lại và đã xuất bản được "Giòng thời gian" gồm một số bài thơ viết trước năm 1945 và một số bài viết sau này.
Xuân Tâm còn khoẻ mạnh nên từ căn nhà tập thể phố Thụy Khuê của mình, ông năng đi lại thăm bạn bè Thơ mới. Ông có điều mãn nguyện là có tên trong "Thi nhân Việt Nam." Ông bảo khi chết, trong tin buồn hay điếu văn về thành tích văn học chỉ cần ghi câu đó là đủ. Qua trò chuyện tôi thấy cuốn "Thi nhân Viênt Nam" được hầu hết các nhà Thơ mới quí trọng và thừa nhận. Duy có một người không muốn nghe đến nó. Ðó là nhà thơ Phan Khắc Khoan. Hẳn ông không nhất trí với đánh giá của các tác giả về mình. Là người viết rất nhiều thơ, kịch thơ và dịch thuật, nhưng ông ít in và sau 1954 thì chỉ in được một hai tác phẩm dịch ở nhà xuất bản Ngoại văn (nay là Thế Giới) nên hầu như không được bạn đọc đại chúng biết tên. Giờ đây ông sống khá lặng lẽ ở phố Bảo Khánh, cạnh Hồ Gươm sau những thăng trầm cay đắng của cuộc đời.
Xin được kết thúc chuyến viếng thăm những người cuối cùng của phong trào Thơ mới tại căn phòng gác hai ở phố Hàng Bài, Hà Nội của Mộng Huyền. Cái tên thi nhân và câu bình trong "Thi nhân Việt Nam": "Trong lời thơ hắt hiu một linh hồn yểu điệu và buồn buồn..." làm tôi hình dung sai về ông, hoặc giả thời gian đã thay đổi tất cả: đó là một ông già thấp đậm, khoẻ mạnh, cởi mở, vui tươi, tuy rằng để nói chuyện với ta phải dùng bút và giấy. Mặc dù đã đeo máy tăng âm, ông vẫn chỉ nghe được những câu ngắn. Những người yêu thơ lớp sau này ít biết đến ông vì sau năm 1945 ông rất ít viết. Ông thú nhận :"Sau 1945 làm thơ khó hơn vì các nhà thơ viết "thơ tư tưởng", bản thân bình thường đã khó viết nên ít viết. Thơ bây giờ cũng chỉ hiểu được một số bàị" Từ năm 1955, ông làm cán bộ trao đổi văn hóa với nước ngoài rồi về Thông tấn xã làm việc cho đến khi nghỉ hưu năm 1979. Trong thời gian đó, ông dịch một số truyện cho nhà xuất bản Kim Ðồng.
Lê Xuân Sơn
Dũng Nguyễn sưu tầmXin được kết thúc chuyến viếng thăm những người cuối cùng của phong trào Thơ mới tại căn phòng gác hai ở phố Hàng Bài, Hà Nội của Mộng Huyền. Cái tên thi nhân và câu bình trong "Thi nhân Việt Nam": "Trong lời thơ hắt hiu một linh hồn yểu điệu và buồn buồn..." làm tôi hình dung sai về ông, hoặc giả thời gian đã thay đổi tất cả: đó là một ông già thấp đậm, khoẻ mạnh, cởi mở, vui tươi, tuy rằng để nói chuyện với ta phải dùng bút và giấy. Mặc dù đã đeo máy tăng âm, ông vẫn chỉ nghe được những câu ngắn. Những người yêu thơ lớp sau này ít biết đến ông vì sau năm 1945 ông rất ít viết. Ông thú nhận :"Sau 1945 làm thơ khó hơn vì các nhà thơ viết "thơ tư tưởng", bản thân bình thường đã khó viết nên ít viết. Thơ bây giờ cũng chỉ hiểu được một số bàị" Từ năm 1955, ông làm cán bộ trao đổi văn hóa với nước ngoài rồi về Thông tấn xã làm việc cho đến khi nghỉ hưu năm 1979. Trong thời gian đó, ông dịch một số truyện cho nhà xuất bản Kim Ðồng.
Lê Xuân Sơn
Dũng Nguyễn sưu tầm
VỀ THƠ TƯƠNG TÁC CỦA DU TỬ LÊ
Một vấn đề suy nghĩ
Vào ngày 15/06/1996 nhà thơ Du Tử Lê đến nói chuyện trong buổi lễ phát phần thưởng Young Leaders Award do hội Liên Hãng ở Dallas/Fort Worth tổ chức. Bài nói chuyện xoay quanh những nỗ lực mới của ông trong vấn đề làm mới văn hoá. Ðặc biệt là thêm cách dùng dấu gạch tới "/" vào trong thơ để cho người đọc có thể tự ý sắp xếp những chữ trong câu thơ theo ý mình và tạo nên những ý tưởng mới. Nôm na thì có thể gọi nỗ lực này là "thơ tương tác" ("interactive poetry"). Gọi là tương tác vì, theo ý của thi sĩ Du Tử Lê, người viết chỉ là một sự sáng tác bắt đầu, và người đọc sẽ tiếp tục sáng tác sau khi hoặc trong khi đọc.
Sau đây là câu thơ Du Tử Lê đã dùng làm thí dụ:
Tôi/rừng/sâu/thở nốt chân trời
Với dấu gạch tới (/) như trên như trên đã trình bày, người đọc, nếu muốn, có thể biến câu thơ ra nhiều lối đọc và mang nhiều ý nghĩa khác nhau, như:
1. Rừng sâu, tôi thở nốt chân trời
2. Thở nốt chân trời rừng tôi sâu
3. Tôi sâu, rừng thở nốt chân trời
4. Sâu, rừng tôi thở nốt chân trời
v.v.
Theo ông, việc làm này có thể sẽ không được ai hưởng ứng cầ Nhưng điều đó không quan trọng. Chính cái nỗ lực đi tìm những con đường mới cho nghệ thuật mới là điều quan trọng. [1]
Quyền của người đọc
Thực ra, trong nền văn học hiện đại thì sự tự do ngắt câu là quyền tuyệt đối của người thưởng ngoạn. Xa hơn nữa, Maurice Blanchot đã viết: Khi tác phẩm đã được chào đời, tác phẩm đã thoát tầm tay tác giả. Ngụ ý của ông muốn nói là người đọc có quyền tự do tìm hiểu, huống chi một cách ngắt câu trong thơ. [2]
Khi đọc Kiều, người ta cảm thông với Kiều không phải vì Nguyễn Du tả Kiều cách nào thì người ta nghĩ cách ấy, mà vì người ta có thể dùng Kiều để bộc lộ, gởi gấm được cái hồn thơ của mình.
Bài thơ chẳng qua là một sự mời mọc không hưá hẹn. Không hứa hẹn bởi thơ ca là chủ quan, là cõi riêng, và là văn hoá (cultured). Khi nghĩ đến Octavio Paz, bài "Blanco" của ông rất phức tạp về cấu trúc. Bài thơ chia ra làm ba cột. Ðọc cột tay phải là một bài thơ, cột giữa là một bài khác, cột tay trái là một bài khác nữa, và nếu đọc chung thì là một bài thơ hoàn toàn khác. Vậy mà bài đoạt giải Nobel lại là bài "Piedra de Sol" đơn giản với 11 chữ mỗi câu. [3]
Trên thực tế, thường thì một bài thơ hay, ngay cả viết bởi những nhà thơ đó, chỉ là hay khi độc giả thấy hay, theo hai thử thách chính là không gian và thời gian. Và không hiếm hoi, người làm thơ nhiều khi chưa nhìn thấy hết cái đẹp của những lời thơ của mình bởi vì, trong lời thơ, đôi khi đã là một bí hiểm với người sáng tạo ra nó.
Có lẽ vì vậy, một thi sĩ nhiều khi chỉ làm được một bài thơ hay. Rồi thôi. Không thể nào làm bài thơ khác hay được nữa. Cái hồn thơ đến ngự trị người làm thơ. Và từ đó ngự trị độc giả. Mọi cố gắng đóng khung, giải thích, chỉ đến sau bởi các người đọc nhằm phô diễn sự cảm nhận của mình.
Trong thơ, luôn luôn có hai sự sáng tạo: người đã viết ra những giòng thơ, và người đọc. Không cần người làm thơ nói điều đó bằng cách này hay cách nọ. Ðọc thơ chứ không phải đọc cách dậy nấu ăn có nhiều cách pha "nhiệm ý" [4].
Những cơ chế mới trong Thơ
Thơ không thể cho vào những mẫu, những khung, những cái dấu gạch tới (/). Có nhiều nhà thơ khi đã nổi danh muốn luôn làm mới thơ. Ðiều này cũng tốt thôi, nhưng tự nó không có gì là mới cả. Từ ngàn năm trước đã có những ý muốn làm mới, và mai hậu cũng chẳng khác. Có điều có những phương pháp làm mới sẽ trở thành lỗi thời ngay sau khi đề nghị.
Theo thiển ý, những dấu gạch tới (/) mà Du thi sĩ cho vào một câu thơ có hai tác động dở và một tác động hay:
- cái hay trước, đây là một cách nhấn mạnh để độc giả chịu khó suy tưởng, tìm ý tưởng mới và sắp xếp các "ô chữ" cho hợp tình hợp ý mới của mình, như Du Tử Lê đã muốn.
- cái dở thứ nhất là làm máy móc hóa một vật không máy móc, đặt cho những "ô chữ" một chức năng quá nặng, biến thơ thành một trò chơi "ô chữ" thơ. Thay vì đọc thơ để rung cảm, người đọc sẽ "chơi thơ" như chơi ô chữ, tha hồ mà tranh luận về những ý và từ ngữ. Các nhà thơ chơi kiểu này không sao khi chữ chưa ra giấy, nhưng độc giả mà chơi trò này thì mệt cho thơ - chẳng hạn,
Thơ Vũ Hoàng Chương:
Em ơi, lửa tắt bình khô rượu
Ðời vắng em rồi, say với ai?
Và tự tương tác:
Khô bình rượu, em ơi tắt lửa
Vắng ai? Say với em. Rồi đời! [8]
- cái dở thứ hai là làm xấu phần hình thức với những dấu gạch tới (/). Và biết đâu chừng mai hậu sẽ có tác giả đề nghị, xin chỉ đổi chỗ những chữ nằm sau dấu "/", còn những chữ đứng sau dấu "\" thì bất di bất dịch!
Tôi không nghĩ là thi sĩ Du Tử Lê cần phải công thức hóa thơ. Hãy làm những câu thơ hay đi để chở những thông điệp mới, và để cho những người phê bình nhận định thơ mình, và độc giả thưởng thức và chia xẻ với nó.
"Lá Diêu Bông" của Hoàng Cầm, của Trần Tiến, và của Phạm Duy nào có giống nhau.
Sự cảm nhận Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương đã bước xa những nỗi lòng của Tản Ðà, mà chết một nỗi là cả hai nỗi cảm nhận đó đều đẹp, và đều là những sáng tạo sống, thật. [5]
Mới và Lạ
Sáng tạo - thơ, văn, nhạc, họa - có hai yếu tố: Hình thức và nội dung. Hình thức là chiều ngang. Nội dung là chiều sâu. Về hình thức, khi mà một thể thơ cũ quá gò bó thì người ta sẽ tìm tòi ra một thể thơ mới nào đo. Thơ Ðường Luật bị thay thế bởi phong trào Thơ Mới, và sau đó thì phong trào Thơ Tự Do xuất hiện nhằm mở rộng hơn nữa sự tự do sáng tạo. Nhưng thế nào là mới? Chúng ta hãy phân biệt giữa "mới" và "lạ". Mới, nói một cách nôm na là một bài nhạc của Từ Công Phụng mới sáng tác hôm qua. Lạ là khi mà Henry Chúc hát lại bài "Bây Giờ Tháng Mấy" của họ Từ bằng điệu nhạc Rap.
Từ khiá cạnh này, họ Du, với những dấu gạch tới (/), chưa hẳn là "mới" mà là "lạ" . Lạ bởi vì những dấu gạch tới đó vẫn nằm trong những bài Lục Bát, Tứ Tuyệt.
Nói cho cùng, một sáng tác hay là một hợp nhất tuyệt vời giữa hình thức và nội dung, giữa chiều sâu của tâm hồn và chiều ngang của kỹ thuật. Họ Du đã có những bài thơ như vậy. Và ông kêu gọi làm "thơ mới", thay vì làm "mới thơ".
Trong đời sống nói chung và thơ ca nói riêng, khai phá ra một hình thức mới là điều đáng khen, đáng phục. Nên làm. Cần phải làm. Nhưng nếu chúng ta chỉ khai phá những hình thức mới mà không khai phá chiều sâu của tâm linh là đáng tiếc vậy. [6]
Thời gian và thử thách
Thật ra thì bất cứ lãnh vực nghệ thuật nào cũng đòi hỏi phải có sự "sáng tạo". Thời gian là mức cân đo trung thành nhất của nghệ thuật. Có những bài thơ đã sống qua vài ngàn năm, có những bài thơ chỉ sống qua vài giây phút ngắn ngủi. Nói cho cùng, chúng ta không nên phản đối việc hô hào "phong trào" thơ tương tác. Giá trị của nó sẽ có thời gian định đoạt. Nếu chúng ta phản đối những nỗ lực làm mới tức là đã đi ngược với sự tự do của công việc làm văn học, nghệ thuật. [7]
Tóm lược, ghi lại, và "tự diễn" ("interacted") từ những trao đổi qua điện thư trên diễn đàn Ô-Thước, nhóm tin thảo luận văn học trên internet, diễn đàn riêng của nhóm chủ trương và thân hữu báo mạng Văn Học Nghệ Thuật.
Trần Thái Vân
Ghi chú:
[1] Ian Bui, "Interactive Poetry," Ô Thước, 16/06/1996
[2] Lê Tất Luyện, "Về Interactive Poetry," Ô Thước, 18/06/1996
[3] Trần Thái Vân, "Lại Bàn Interactive Poetry," Ô Thước, 18/06/1996
[4] Phạm Thế Ðịnh, "Bàn Thêm Về Interactive Poetry," Ô Thước, 19/06/1996
[5] ibid
[6] Nguyễn Phước Nguyên, "Góp Ý Về Interactive Poetry," Ô Thước, 20/06/1996
[7] Ian Bui, thư riêng cho người viết, 01/07/1996
[8] Bùi Thanh Liêm, "Lại Chuyện Interactive Poetry," Ô Thước, 19/06/1996 & 20/06/1996.
Lười
Nên năm hai mốt tuổi, tôi đi vào quân đội, mà lòng thì chưa hề yêu ai...
Mỗi lần nghe bài hát đó là An chỉ muốn chửi thề một câu cho bỏ ghét:
- Ðù má nó! Hăm mốt tuổi mà chưa hề yêu ai thì có gì là lạ mà phải than thở ỉ ôi như vậy. Như tao đây, đã băm bảy tuổi đời mà vẫn chưa có một mối tình để bỏ túi, vậy mà tụi bay thấy tao có bao giờ lên tiếng kêu than.
An vẫn từng tâm sự như vậy với bạn bè. Kể cũng lạ, con người như gã có đui què sứt mẻ gì đâu, nếu không nói là đẹp trai, lại có công ăn việc làm khá vững chắc. Vậy mà cho đến hôm nay, tuổi đã gần bốn bó mà vẫn còn ế vợ. Có nhiều tin đồn tại sao cho đến hôm nay ván vẫn chưa đóng hòm.
Có người cho là tại gã chưa muốn lấy vợ. Tin này không đúng cho lắm, là vì gã có lần tâm sự với bạn bè là gã không thích sau này lâm vào hoàn cảnh "cha già, con mọn", sợ dắt mấy đứa con đi bát phố thiên hạ tưởng là cháu chắt của gã. Gã còn ao ước có thằng con trai để dẫn đi nhậu, lỡ bị bạn bè ép uống, nhờ nó uống cứu bồ. Muốn có con, thì điều tất nhiên là gã phải có vợ trước tiên.
Nguồn tin thứ hai cho rằng tại gã nhát gái. Nguồn tin này sai bét, bạn bè của gã có thể xác minh được điều này. Cái chữ nhát này nếu hiểu là "chết nhát" thì sai, phải nói là nhát theo cái nghĩ dọa dẫm người khác thì đúng hơn. Nói nào ngay, hồi mới lớn thì gã cũng có nhát gái thật, gặp con gái tự dưng gã trở thành phái yếu, nhưng rồi đến một lứa tuổi nào đó, như bất cứ thằng con trai nào khác trên đời, An bắt đầu trở nên lì lợm và dạn gái hẳn ra. Năm nay, mặc dù đã qua cái tuổi "dê xồm" ngót hơn 2 năm rồi, nhưng cái tính 35 này vẫn còn tồn tại trong gẩ Tuy nhiên gã chỉ muốn thả dê mỏng mỏng thôi, gã đối xử với các em đều công bình. Gã muốn tất cả là của gã và gã là của tất cầ Gã không bao giờ muốn tỏ ra thiên vị với bất cứ ai, vì lý do đó mà gã chưa nếm được mùi vị của cái thú đau thương. An chính là một bằng chứng hùng hồn của cái hiện tượng: "Lắm mối tối nằm không".
Còn có tin là tại gã kén quâ Tin này cũng sai tuốt, vì gã đã từng tuyên bố là già trẻ không thành vấn đề, miễn có chút nhan sắc hoặc bên ngoài có vẻ giàu sang là được. Ðối tượng như vậy bên Mỹ rất dễ tìm. Chuyện nhan sắc bên này đã có các thẩm mỹ viện chăm sóc, xấu cỡ Chung Vô Diệm qua tay bà Hạnh Phước hay Bích Ngọc thì cũng sẽ trở thành Tây Thi. Còn chuyện sang hèn, định nghĩa theo Việt Nam mình thì bên này ai cũng giàu có, cũng nhà lầu, xe hơi, ti-vi, tủ lạnh đầy đủ cả.
Nguồn tin quái ác nhất là gã bị bệnh pê-đê, có nghĩa là gã thuộc loại bóng loại cái, đồng tình luyến ái, chỉ biết yêu người cùng phái. Thoạt đầu mới nghe tin này, An giận đỏ mặt tía tai, gã biết rõ người đi tung tin đồn này nếu không phải là những thằng bạn độc thân, tình địch của gã thì cũng là mấy em bị gã cho ra rìa hoặc không để ý tới. Dần dần về sau An bất cần, mặc kệ bọn nó muốn nói gì thì nói, miễn là gã biết chính gã là được rồi. Gã thừa biết gã còn đầy đủ đàn ông tính, bằng chứng là gã vẫn còn mê gái đẹp và thú tính trong người vẫn trổi dậy mảnh liệt mỗi lần xem phim con heo.
Thế tại sao gã vẫn còn một thân côi cút ở luống tuổi quá nửa đời người này?
Câu trả lời rất là đơn giản: bởi vì gã lười. Ðúng vậy, chỉ vì lười biếng mà An không muốn mạo hiểm lao mình vào còn đường tình ái. Hồi còn ở Việt Nam, nhà An ở gần trường đua Phú Thọ, gã vẫn nghe bạn bè rêu rao hát:
Ðường vào trường đua
Có trăm lần thua, có một lần huề
Qua bên này, gã lại nghe thiên hạ bảo nhau rằng:
Ðường vào tình yêu
Có trăm lần tiêu, có một lần chề
Chữ "chề" họ muốn ám chỉ "ê chề". Yêu đương gì mà chỉ thấy tiêu điều với ê chề, làm gã chẳng muốn bỏ công xây dựng. Vả lại, An vốn dĩ thuộc loại lười có hạng. Hồi gã còn bé, thầy tướng số nhìn qua cái lưng dài của gã, ông đã cam đoan rằng thằng bé này thuộc loại lười chảy thây. Lời tiên đoán này, hơn 30 năm sau, đã trở thành hiện thực. Bản thân An rất muốn có vợ, nhưng gã lại lười bỏ thời giờ ra để đi tìm kiếm ý trung nhân. Gã ước gì người tình trong mộng sẽ tìm đến gã để xin nâng khăn sửa túi cho gẩ Và chỉ vì mang ý nghĩ đó mà An cứ nằm mãi ở đó mà chờ sung rụng.
Ðêm đã khuya, An đã chìm đắm trong giấc điệp. Một luồng gió thoảng mùa hè xuyên qua khe hở của cửa sổ tạt vào trong phòng, làm An chợt giật mình. Gã cảm thấy gai gai lạnh. Gã ôm chiếc gối ôm, kẹp giữa cặp đùi lông lâ An chợt nhớ ra hình như có thiếu một cái gì. Gã mở mắt thao láo, suy nghĩ mông lung. Gã nghĩ thầm: "Ừ, hình như có chuyện bất ổn, hình như thiếu sót điều gì".
Sau một hồi động não, gã cũng nhớ ra là tối nay trước khi đi ngủ gã quên hút thuốc lá. "Hèn gì!" An buột miệng nói thầm. Cái thói quen thường nhật trước khi lên giường mà gã lại quên tuốt, hèn gì gã cứ cảm thấy bất an nãy gi An liếc nhìn gói Marlboro đang để trên bàn gần đó. Gã định chồm dậy đánh lửa để mồi hút, nhưng nghĩ sao đó gã lại nằm xuống giường, tiếp tục ngủ. Trong cơn mơ, gã thấy có người mồi thuốc giùm cho gã.
Hai mắt An nhắm nghiền lại, miệng của gã nhếch lên một nụ cười sung mãn, trong niềm sung sướng, hoan lạc, tuyệt vời.
Bùi Thanh Liêm
tháng 6, 96
Cánh Sen Cuối Mùa
Ðồng hồ gõ giòn bảy tiếng. Lan từ từ trở mình. Vừa dụi mắt, nàng vừa há to miệng ngáp dài một tiếng chẳng buồn bụm tay che lấy đôi hàm răng trắng đều như bắp. Im lặng một chút, nàng chống tay uể oải ngồi dậy, xỏ đôi dép, rồi lững thững tiến lại phiá gương. Lan lúc nào cũng vậy, vẫn thường ngắm qua diện mạo nàng mỗi khi tỉnh giấc, cái thói quen nhiễm phải từ khi nàng trở thành bà chủ quán tiệm cà phê Cây Lý. Cái thói quen cần có để tìm lại con người thật của nàng sau những lớp phấn dày cộm, những làn kem nhờn nhớp, và những vệt son đỏ thẫm mà thời gian, bất chấp sự cự tuyệt, kháng cự thế nào đi nữa của con người ta, vẫn cứ mặc nhiên bôi trát lên, nguỵ tạo, che đậy, hòng làm biến dạng đi cái hình thể nguyên thuỷ ngày nào của nó.
Ngắm nghía một vài giây, Lan mỉm cười, nụ cười tự mãn khi chợt thoáng tìm lại được một vài nét gì đó tinh khôi, trong trắng ngày nào. Một đôi mắt thật hiền, đôi mắt...Bụt mà lũ bạn học ngày nào vẫn thường trêu tặng, một đôi gò má hơi xương, một cặp môi hơi nhạt, và cả cái sóng mũi thon thon, duyên dáng... tất cả đã hài hoà một cách khéo giãn dị, có phần e ấp, nhưng vẫn đủ sức gợi lại trong Lan một khuôn mặt xinh xắn, dễ thương, dễ cảm dưới mái tóc mềm đen láy vẫn thường loà xoà chảy xuống tận lưng nàng.
Vuốt nhẹ đôi khoé mắt, Lan khe khẽ cười:
- Ừ, mày đấy! Con nhỏ hay buồn của Marie-Curie dạo nào!
Thở một tiếng dài, Lan buông thõng mái tóc, với lấy chiếc khăn lông, rồi thong thả đẩy cửa phòng tắm bước vào.
- Chà, bộ dì Sáu biết con đêm nào cũng nằm mơ thấy trứng chiên ăn với bánh mì ngán tận cổ hay sao mà hôm nay đổi món vậy dì Sáu?
Ngồi xuống bàn điểm tâm, vừa cười, Lan vừa xuýt xoa khen:
- Ái chà cha, sáng nay cháo đậu với giò quẩy, ngon hết sẩy hé!
- Tháng này hổng có ba mươi. Hăm chín rồi mùng Một cô hai hè, làm ơn nhớ dùm cái!
Bà Sáu vừa lau mấy chiếc muỗng canh, vừa cười, vừa ngó Lan, rồi tiếp:
- Thành thử phải chay kiêng nghen!
- Ô, chút nữa là con quên ti rồi, hèn chi...
Rồi Lan bỏ lửng câu nói, nhí nhảnh nguýt khéo bà Sáu. Cả hai cùng nhìn nhau, thầm cười, kéo ghế ngồi xuống dùng bữa cháo chay điểm tâm.
- Sao? Dì Sáu thấy sao? Chị Thoa làm có quen chưa dì?
- Cũng được lắm con à, dần dà rồi thì cũng phải quen thôi chứ biết làm sao. Hồi xưa nó cũng làm ở Sương-nguyệt-Anh rồi còn gì, khác chỗ đây là quán bia ôm, thì nói nào ngay, ai lại hổng ngại mấy chỗ như vậy lúc đầu!
- Con biết chớ dì, ai nghe mà hổng ớn, thì mình ở trỏng mới biết nó cũng nếp nang ra sao chứ. Con thì coi chỉ như người nhà mình rồi, đứng quày hàng thối tiền cho khách sướng chết, lại có thằng Dinh, thằng Sơn coi chừng, có thằng nào dám bốc hốt gì đâu hè.
Bà Sáu nhìn Lan vừa cười, vừa nói:
- Cũng may phước đâu lại gặp con, khổ quá rồi, ông Trời cũng có mắt. Bây giờ cuộc sống mình vậy rồi, còn mong cái gì nữa chớ!
- Hết cơn bỉ cực tới hồi thái lai mà dì. Lan cười thật tươi sau câu nói của mình.
Bà Sáu vừa ngoạm một miếng cháo-quẩy, thong thả ngó Lan, phân trần:
- Hổng gặp con, mẹ con dì cũng chẳng biết xoay sở ra sao.
- Có gì đâu dì, ai lại chẳng bôn ba lúc đầu. Con cũng vậy mờ. Rồi nàng nheo mắt tiếp:
- Có vậy đời sống mình mới cảm thấy có giá trị hơn, lắm lúc, con như cảm nhận được cái vĩ đại trong con đối với đời, với những gì con đã trải qua, chỉ cần mình...
Lan đang thao thao bất tuyệt, bà Sáu như đã thuộc lòng phần còn lại trong lối diễn thuyết của nàng, liền tiếp vào:
- Mình hổng có làm gì trái với lẽ sống là được rồi; thây kệ miệng đời, để ý họ thì sao sống nổi. Mình sống theo lý chứ đâu phải sống theo miệng đời kẻ khác." Có phải vậy... hông?
Cả hai dì cháu cùng phá lên cười. Những tiếng cười giòn tan từ hai khối óc đã thấu triệt nguồn triết lý sống ở đời vậy.
oOo
Bà Sáu người miệt Hậu-giang, tính tình đôn hậu, chất phác, vốn người ít nói. Ngặt nỗi ông Sáu, xưa làm Việt-gian trong vùng nên bà con chẳng mấy ai ưa gần gủi gia đình bà. Nước mất đâu chừng năm ba ngày chi đó, bà con trong làng chẳng ai còn gặp ông Sáu đâu nữa. Một số đồn đại rằng ông đã cao chạy xa bay, bỏ mặc bốn con bà sống chết ra sao tuỳ ý ông trời. Số khác thì lại to nhỏ xì xầm nghe đâu ông đã bị mấy tên cán-bộ xã dẫn đi thăm "ông bà ông vải" gì rồi, nên sẽ chẳng bao giờ về nữa. Hư thật thế nào không rõ, dù sao đi nữa bà Sáu cũng đã bỗng chốc trở nên goá bụa, sống cùng ba đứa con côi cút dưới cái chái lụp xụp lợp bằng vách nứa, một bầy gà giò, vài con vịt xiêm, một cặp heo mọi, cùng một đìa rau muống sau nhà mà mấy tên cán-bộ xã đã khoan hồng để lại cho bà.
Bị xiết hết tài sản, xuống dốc một cách đột ngột, cảnh nhà túng bấn, cô Thoa, cô con gái lớn của bà Sáu bỏ dở Trung- học, đi làm thuê quanh làng, phụ bà miếng cơm, tấm áo. Từ gánh nước tới bẻ cau, từ cắt rau tới coi trẻ, chẳng việc gì mà cô nệ hà cả.
Thằng Quân, đứa con trai kế của bà Sáu, thấy chị nó quá lam lũ , cực chẳng đã, nó cũng bỏ ngang lớp mười một trường huyện, đi tìm vài công việc hụ hợ trong làng hòng phụ chị nó một tay. Ông Trời cũng không đến nỗi khắt khe cho lắm nên kiếm đâu cho nó được cái xe tại xa cảng miền Tây, chạy tuyến đường Sài-gòn - Tiền Giang. Thấy con dần dà bỏ học, bà Sáu cũng rầu lắm, nhưng vì hoàn cảnh, bà biết làm sao hơn. Chỉ trơ trọi cái quán nước của bà thì sao kham nổi bốn miệng ăn. Ðó là gặp những lúc nắng ráo, ông Trời có thương thì còn có kẻ tạt qua nghỉ chân lai rai, chớ nhằm khi trái gió trở trời, mưa dầm mưa dề tèm nhẹp, thì mấy mẹ con húp cháo trắng qua bữa vẫn là chuyện thường nhật, lại nữa thằng Quân đang sức thanh niên, ăn uống kham khổ như thế thì làm sao chịu nổi. Không thương chúng nó thì thôi chớ, lẽ nào lại nỡ trách.
Cô Thoa thì phải đi từ chạng vạng sáng tới sụp tối mới về. Thằng Quân thì dăm ba ngày đi lơ lại tạt qua thăm bà một lần. Cảnh nhà vốn đã đơn chiếc, nay lại còn chiếc đơn, côi cút hơn nữa.
Có lẽ thấy mẹ vừa cực, vừa trơ trọi một mình, con Xuyến, đứa con gái út của bà Sáu, ngoài giờ học, sau khi qua loa việc nhà, nó lại chạy ra quán nước phụ bà một tay; lúc thì đập đá, khi lại châm trà cho khách. Những hôm xấu trời, mưa dầm, nó lại khoác chiếc áo mưa cũ kỹ ra tận mấy bờ đìa quanh xã đặt lờ, tát cá. Con nhỏ trông cũng tội nghiệp. Nó chẳng có bạn. Có thể đám trẻ cùng xóm, chẳng đứa nào thích chơi chung với con của kẻ đã từng làm Việt-gian, rồi làm nó đâm ra mặc cảm mà chẳng kết bạn với một ai, cũng có thể con Xuyến đã đủ lớn để nhận thấy cảnh sống lam lũ của gia đình nó, nên sau giờ học, bà con xã cũng chỉ thấy nó quanh quẩn, hụ hợ bên mẹ nó, tới khi trời sụp tối thì hai mẹ con lại gióng gánh về nhà.
Cuộc sống cũng coi như tạm thời ổn định sau cái mất tích của ông Sáu thì thằng Quân được lệnh đôn quân. Giấy gửi đi từ cấp huyện cho biết ngày đi khám sức khoẻ hẳn hòi. Bà Sáu buồn lắm. Là lơ xe thì ít ra một tuần dăm ngày nó còn tạt qua thăm bà một lần, lúc thì hộp trà, khi lại dăm ba miếng bánh... chớ đã làm lính thiên hạ rồi thì cái ngày bà mong được gặp mặt con nó còn viễn vông, xa xôi quá. Nghĩ đến xa con vĩnh viễn mà bà Sáu đứt từng khúc ruột; gia dĩ bà lại chỉ có một thằng con trai độc nhất, rủi nó có mệnh hệ gì thì ăn sao, nói sao với ông Sáu; ngặt nỗi cơm nhà còn phải chạy từng bữa, thì tiền đào đâu ra mà nghĩ đến chuyện đút lót cho mấy thằng cán-bộ xã. Những lúc ấy, bà chỉ biết thở dài mặc cho số mệnh đưa đẩy...
Cái sợ của người đàn bà goá ngoài năm mươi ấy đã trở thành sự thật. Thằng Quân nghe đâu đóng quân mãi tận bên Miên. Mấy tháng đầu thì thằng nhỏ thư từ thường xuyên, rồi dăm ba tháng một lá, rồi nửa năm, rồi một năm... bà dần dà bặt tin con.
Bà Sáu được tin thằng Quân lần cuối cùng vào một buổi chiều mưa. Trời vừa chạng vạng, ba mẹ con đang lặng lẽ dùng bữa cơm chiều thì có tiếng gõ cửa. Một tên cán-bộ xã bước vào, thong thả rút lấy hai phong bì tuy còn lấm tấm nước mưa, nhưng vẫn chưa đủ ướt để làm loen đi hai con mộc đen to tướng nằm lạnh lùng cận con tem. Một lá thư khen tặng danh trạng gia đình bà Sáu giờ là gia đình "Thương Binh Liệt Sĩ có công với Cách Mạng.", lá thứ hai, dĩ nhiên bà đã rõ mồn một như những gia đình không may khác đồng cảnh ngộ. Bà sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại thằng Quân nữa. Hôm đó con Xuyến đã khóc thật to, nó đòi tên cán bộ xã trả lại anh Ba cho nó; cô Thoa giằng nó ra mà mắt cô cũng cứ trào tuôn những lệ. Bà Sáu chẳng biết làm gì hơn, ngồi sững xuống cạnh giường, mưa đã vơi hạt, ngoài bờ ao, ềnh oang cứ thay phiên nhau trỗi dài những tiếng kêu nghẹn ngào, ưu uất...
Người ta vẫn nói: "Hoạ vô đơn chí, phước bất trùng lai", dịp may ít khi đến hai lần, mà cái rủi thì thường lại không tới một mình. Chẳng rõ kiếp trước bà Sáu ăn ở thế nào mà sao kiếp này, cái nghiệp gia đình bà quá nặng. Thằng Quân chết chưa đầy một năm thì con Xuyến lại bỏ mẹ và chị Hai của nó ra đi vĩnh viễn. Nó đạp mìn trong lúc đang hí hoáy đặt lờ bắt cá sau một buổi chiều mưa. Chạy ra bờ đìa, bà Sáu và cô Thoa chỉ kịp nhìn thấy xác con nhỏ nằm ướt sũng, bất động. Thịt nó một phần văng đi tung toé, máu lên láng, pha thẫm cả một góc đìa. Bà Sáu cúi xuống nghẹn ngào bế xác con, âm thầm trở về quanh những tia mắt thờ ơ, lạnh nhạt quanh làng. Cô Thoa nhìn bà rồi cũng nức nở than trách ông Trời cay nghiệt. Cũng như sau cái chết của thằng Quân, bà Sáu cũng chỉ ngồi sững sờnơi cạnh giường, mắt lại thẫn thờ trông ra song cửa.
Bà còn nhớ rõ lắm, hôm ấy, cũng một buổi chiều mưa vơi hạt, cũng những tiếng uềnh oang bất hạnh ngày nào cứ thay phiên nhau trỗi dài những tiếng kêu lạnh lùng, ai oán...
Cô Thoa thì mãi trách cứ sau ông Sáu không sống để thấy được ngày này, sao ông lại bắt mẹ con cô chịu gánh những hậu quả của những việc ông đã làm trước kia.
Bà Sáu thì ngược lại, bà bình tĩnh lắm, cái dáng dấp bên ngoài của người đàn bà goá trông nhỏ thó, tiều tuỵ thế ấy, nhưng cái suy nghĩ về lẽ sống bên trong của bà lại dạn dày, can đảm, và chín chắn biết dường nào. Am tường cái luật nhà Phật, bà chẳng hề một lời than thở, chỉ thay vào những tiếng thở dài não ruột. Có phải là "Cha ăn mặn, thì con khát nước" như một vài bà con trong xã vẫn thường xì xầm? Hoặc chăng bởi cái tính nhân đức, siêng ăn chay niệm Phật của bà, thành thử cái nghiệp tuy xa nhưng lại hoá ra gần, ông Trời cho phép bà trả trọn trong một kiếp này???
Thực hư thế nào đi nữa, bà vẫn cho đây ít ra cũng là một lối an ủi hữu hiệu để hai mẹ con bà còn mạnh dạn tiếp tục nối dài cái kiếp sống mang nặng nghiệp đời này. Chẳng còn gì lưu luyến nơi mảnh đất quá nhiều bi thương này, bà bán hết tài sản là tài sản nhưng cũng chỉ vỏn vẹn dăm con vịt xiêm, một bầy gà, một cặp heo mọi, và một vài vật liệu tư dụng trong nhà - trang trải nợ nần cho một số bà con xóm giềng tốt bụng trong làng đã đùm bọc, che chở gia đình bà trong những khi tối lửa tắt đèn, hai mẹ con dắt díu nhau lên Sài Gòn tìm đất sống. Cũng may phước, hai mẹ con dựng đâu được cái chòi nhỏ phía sau chợ Ðũi, gần rạp hát bóng Nam- Quang. Ông Trời cũng còn thương nên kiếm đâu cho cô Thoa được cái chân phụ giúp trong một quán cà-phê bình dân trên đường Sương-nguyệt-Anh, đối diện cổng sau khu Tao-Ðàn, Sài-gòn.
Bà Sáu thì ngày ngày quảy gánh bánh lọt đi vòng quanh bồn binh ngã Sáu SàiGòn kiếm thêm tiền hu hợ Hôm đó, bà lạc chân lên khu Ðồng khởi, xui xẻo sao lại bị công-an bố quá, bà lính quýnh thế nào không biết, vừa toan chạy thì té nhào ra đấy, bà nằm sóng soài ngay trước vỉa hè của quán cà-phê Cây Lý. Từ trong thúng, bánh lọt, nước đường, nước cốt dừa đổ văng tung toé. Lan ngó ra, gọi thằng Dinh chạy ra đỡ bà dậy, vừa lúc ấy hai gã công an cũng vừa ập tới, Lan xấn ra:
- Hổng thấy bà già té rồi sao mà còn làm dữ dậy mấy cha?
- Bà ấy buôn bán bất hợp pháp, không giấy phép, còn...
- Còn nấn chiếm nòng nề đường, cản trở giao thông, và nàm mất an ninh!!! Có phải không nào?
Lan vừa tuôn một chập, cướp lời mấy gã công-an, vừa nhại lời hắn. Rồi nàng cũng xuống giọng phân bua:
- Mấy chú ơi, bả là người của tui đó, chỗ quen biết mà, hôm nay thấy miệt dưới thưa khách tui gọi bả cho tiện chút vậy mà.
Gã thứ hai lên tiếng:
- Thế mà cô Lan không nói sớm! Rồi cả hai vừa nhìn nhau, vừa cười cười, gãi đầu.
- Sang ơi Sang, ra dẹp lẹ chỗ này cho chị nè cưng.
Lan nói vọng vào trong, rồi quay sang hai gã công-an, vừa cười, vừa nói khỉ:
- Ở đây còn mấy trăm nè, cầm đỡ đi uống cà-phê! À bữa nào quởn quởn, rủ ông Chánh thăm quán, uống bia một chầu nghen. Nhắn ổng tui hỏi thăm, bộ dạo này tu sao mà mất biệt hè!
- Giời ơi, cô Lan còn bày vẽ nữa Một tên nói.
Gã thứ hai cũng thêm vào:
- Cảm ơn cô Lan chu đáo thế, tụi này...không khách sáo đâu nhé!
- Thôi, mấy ông đi lẹ giùm, tui còn làm ăn nữa chớ! Vừa nói, Lan vừa cười rồi xua tay đuổi hai gã công-an như đuổi tà.
Đức Lưu
(còn tiếp phần 2)