vhnt, số 253
9 December 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ trẻ Sài Gòn: Ly Hoàng Ly ....................Nguyễn T Dũng p/t
- Ký họa làng / Hát đêm / Bướm ma .....................Ly Hoàng Ly
2 - Mưa khuya, nhớ người ...................................Trương Chi
3 - Cuối năm bên dòng Hudson ...........................Trần Hoài Thư
4 - Mặt trời đau .................................................Cỏ May
5 - Chị về ...............................................Trần Thái Vân
6 - Từ hôm ấy ................................................Tường Vi
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Tranh Việt Nam hôm nay ..................................Nguyệt Cầm
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Hoài cổ (tùy bút) .....................................Ðỗ D. Ðôn
9 - Hồi ký học trò xưa .......................................Võ Hồng
Sống, hay ít ra, một phần của sự sống, là trải qua sự thương nhớ và đau xót. Là thất vọng ngay cả trong lúc giấc mơ mới thành hình, khi tỉnh dậy vào lúc giữa đêm.
Viết, vả chăng là tự hủy, là hy sinh điều gì ở mình để tự cứu, để tìm gặp và giữ mãi một cảm giác. Là bình an, yên ổn, là điểm tựa của tinh thần.
Nuối tiếc, thương yêu, đau xót cho kỷ niệm, những cảm giác ngọt ngào dịu dàng, những thứ êm dịu chân thực đến từ tình cảm nở vội, thăng hoa, rực rỡ như một đóa hoa cuối mùa héo hắt bị ép nắng cả mùa đông, đến mùa chợt gặp một cơn nắng ấm, hoa chợt bừng nở rộ lên. Nồng nàn, ấm áp, chan hòa, trong sáng, và tinh khôi.
Những đóa hoa mới lớn, tâm hồn như những trẻ thơ, biết rung động lần đầu tiên... Ðó là cái đẹp chóng tàn của một đóa hoa hiếm hoi nở vội, trong sự xúc động diễm tuyệt, trong dạt dào thương xót. Nó vẫn còn và vẫn nở dù khô héo và đọa đày.
Cái đẹp của nhánh hoa khô tàn là cái đẹp vĩnh viễn. Vì sẽ chẳng có thời gian nào, sự tàn phá nào lấy đi mất sự tươi tắn và vẻ đẹp của nô Nó không là cái đẹp lúc đang nở mãn khai, nhưng là cái đẹp của một cành hoa khô đứng yên ở vị trí này, thời gian này... Giống như hình ảnh nhánh cây khô khép kín một hôm đem về từ bãi biển cắm vào trong bình ở nhà, nó sẽ vẫn mãi là cái đẹp rất riêng tư từ chính bản thân nó, không người chia sẻ hay trầm trồ hay đáp ứng, nhưng cái đẹp ở nó lặng lẽ và tự tại ...
Gửi đến bạn đọc một bó hoa mà những tác giả của chúng ta đã gieo hạt, ươm mầm, vun xới. Xin góp nhặt lại và trao cho người.
thân ái,
PCL/vhnt
LGT: Những bài thơ của một tác giả trẻ đang là sinh viên năm thứ III Ðại học Mỹ thuật TP.HCM. Một cái nhìn giản dị những vẫn ẩn giấu những mới mẻ về cuộc đời. Nhịp đi bình thản của ngọn sóng-sóng ngầm. Cô cũng là gương mặt đọat giải nhất cuộc thi Bút mới lần II (Ð.T.Q)
KÝ HỌA LÀNG
1.
Kìa là gạch hồng lót chân trâu ra đồng
Tường rêu âm ỉ sinh sôi
Kìa là cụ bà vấn khăn đen nhai trầu
Trầu ơi trầu đỏ môi bấ
Rạ vàng hường sân đỏ
Rêu xanh phả gạch hồng
Một già một trẻ bồng nhau trước sân
Bà cười nhăn nheo cháu cười ngặt nghẽo
Răng bà đen hơn mắt cháụ
Mắt bò trong như mắt gái đôi mươi
Vắt cái nhìn lên cho6`ng rơm vất vưởng
Ðuôi to te,
Quạt muỗi.
Con chó vàng xua đàn vịt
Vịt nhảy tùm xuống ao,
Rũ lông rũ cánh
Chó liếm bờ
Sủa gâu gâu
Tan từng mảnh bèọ
Lặc lè bầy lơn lặc lè
Nhao nhao chuồng
Dim dim đòi ăn
Lũ chim ríu ríu rít
Vịn chân cành mận to
Một quả trứng - bé tí nị
Rụng ra
Lá vàng rơi theo
Mong cho
Cả hai đều không vỡ.
À ơi,
À ơi bà ru cháu ngủ
Ðợi mẹ mày về cho mày bú
Nắng treo giữa cổng làng -chang chang
Cổng làng cũ nát héo hon
Ðứng mãi
2.
Kìa là gạch hồng lót chân trâu về làng
Nhịp chân khua rộn nơi nơi
Kìa là cụ bà vấn khăn đen nhai trầu
Trầu ơi trầu đỏ môi bấ
Cha gánh lúa
Mẹ khuân cày
Bóng chiều tràn lên bóng cây
Ðẫm mùi lúa mới.
Mâm cơm tròn réo gọi
Mảnh sân vuông đêm sập xuống rồi
Những khuôn mặt rạng rỡ niềm vui
Trong chuồng
Trâu bò cười
Tít mắt.
HÁT ÐÊM
Ta cứ thế, rong ruỗi lên đường
Kề vai bạn
Lẩm nhẩm hát
Và nghe bạn hát
Mà sao tiếng hát ở rất xa
Những vì sao cũng ở rất xa
Làm sao với tới được
Vắt qua mảnh trăng lưỡi liềm
Tiếng hát bay đi mất
Vắt ngang qua vồng trời
Những vì sao vụt tắt
Ðuổi không kịp
Thôi
Tôi không hát. Bạn cũng không hát nữa
Hai đứa lặng ngóng tiếng hát đã bay xa
Theo chân những vì sao
Vào vồng trời xanh thẳm
Mất hút rồi.
Ðể lại cô lặng nơi tâm hồn
Ðể lại bạn và tôi
Kề vai
Dõi nhìn nhau. Dõi tìm tiếng hát
Trăng lưỡi liềm mất mặt
Giá đừng khuya
Bạn đừng khuya.
BƯỚM MA
Con bướm ma nhả mình trước mặt tôi
Anh xanh mặt
Ðiềm chẳng lành.
Tôi vẽ những người mặt xanh áo chàm xanh
Người âm phủ
Miệt mài cây cọ tung tóe màu
Màu xanh nhuộm xanh con bướm mạ
Anh bảo bướm ma đem điềm gở
Tôi không tin vào duyên số
Tôi không muốn tin vào duyên số
Giữa anh và tôi
Ðã quá nhiều âu lo rồi
Hãy để cho lòng được bình yên
Hãy cứ nhìn cuộc đời thản nhiên
Tôi vẽ người âm phủ
Gọi bướm ma về nhập nhằng trước mặt tôi
Tôi nguệch ngọac bôi lên đầy mặt tôi
Mặt tôi đủ sắc màu
Râm ran sắc màu nhảy múa
Bướm ma sợ, Bay đi.
Ly Hoàng Ly
(TTCN 1 tháng 9/1996)
Mưa Khuya, Nhớ Người
(của KQ)
Mưa khuya
gõ những
âm hời
Giữa chăn chiếu cũ
Mong người
về thăm
Ðêm âm u
Lạnh chỗ nằm
Bước chân
Theo sóng
Biệt tăm nơi nào .
Trương Chi
5 tháng 12 1996
Cuối năm bên dòng Hudson
Trở lại dòng sông này mấy bận
Bên kia thành phố đã lên đèn
Cơn mưa nhoà nhạt hoàng hôn lạnh
Chiều cuối năm trời mau tối thêm
Mưa phủ trường giang không thấy bến
Nơi này, nơi ấy như hôm qua
Con sông vẫn một vùng sương khói
Vẫn buồn theo lau lách bờ xa
Sông vẫn hắt hiu con phà đậu
Vẫn bầy chim biển tiễn chiều đi
Sao sông không thấy con đò cũ
Chở người về bên nớ bên ni
Sông vẫn mênh mông và mênh mông
Ðây là đâu hay dòng sông Hương
Thèm ơi, một chuyến phà năm cũ
Một chuyến phà chở hết quê hương
Thèm ơi một chuyến phà qua lại
Chở những người thiếu nữ qua sông
Có bao cô gái qua Ðồng khánh
Ðể tôi còn đốt thuốc chờ mong
Thèm ơi một chỗ ngồi hiu quạnh
Trời đang hoàng hôn anh nhớ em
Nhà em bên ấy giòng sông lạnh
Bông cải mùa xuân vàng rộ sân
Ừ nhỉ, cuối năm nơi đất lạ
Mưa mênh mông và sông mênh mông
Ừ nhỉ, hình như lòng rướm lệ
Tiếng còi phà u uẩn hoàng hôn
Tiếng còi phà đã dục từ lâu
Phà ơi, phà ơi cho ta một góc
Ta sẽ đứng yên như người Từ Thức
Và cô đơn như cùng tận cô đơn
Như một người không có quê hương
Trần Hoài Thư
Mặt trời đau
của chị Lan
I.
Sóng ôm bờ
Vỡ
Vòng tay
Lận đận
Thầm thì một tiếng đau
Em vẫn đi, bước hoài trên bãi cát
Như con dã tràng nào
Mê mãi chạy vòng quanh
Ngỡ
tình yêu
cũng có ngọn nguồn
II.
Buổi sáng mờ
mặt trời đau
tóc trắng
Gió mong manh
Sóng xõa tóc Mỵ Châu
Biển ru hờ nỗi oan khiên Trọng Thủy
(Mỗi tình yêu là một mối oan khiên)
Anh làm sao biết được
Nỗi đau của Mỵ Châu
Anh làm sao biết được
Nỗi đau của mặt trời
Mặt trời đau, ô mặt trời đau
Ðau như em
Ðau như anh
Ðau nỗi đau không bao giờ còn gặp lại mặt trăng của một
mùa thanh xuân cũ
III.
Em vẫn đi, bước hoài trên bãi cát
Hỏi ngọn nguồn tình yêu
Dù anh không bao giờ hiểu
Vạn đại đời em là những mùa thu
Lá bay
Tóc bay
Mờ nước mắt
IV.
Có cánh hải âu gầy
Ngậm hạt tóc Mỵ Châu
Ðem gieo vào ký ức
Thành ngọn nguồn tình yêu ...
V.
Biển xám màu vô tận
Huyễn hoặc sóng tràn bờ
Và em về với cát
Thả lời thơ hoang đường.
CỏMay
Nov 1996
Chị Về
Mai chị về Vietnam
Sẽ mang theo chút lạnh mùa đông Bắc Mỹ
Mai ta hoài tưởng người xa xăm
Nắng nhiệt đới nửa đời ta nhớ kỹ
Có con đường nào quen như đường quê
Có con đường nào lạ như đường về chốn cũ
Ôi, những mầm cây non lú
Trong tuổi đời bé bỏng rất xanh
Ôi, màu áo ai xanh
Ngày trở lại có còn xanh không nhỉ?
Mai chị về con chim sắc trên đường thiên lý
Hoá cào cào một sớm tháng mười hai
Mai chị về những hoa bưởi, hoa lài
Có nở thắm dâng hương mừng người mới?
Những con đường đất bụi
Có làm mắt chị mờ cay?
Có những tháng ngày ta đếm trên ngón tay
Có những thời gian ta đếm bằng ký ức
Có chặng đời ta mãi nghe đau nhức
Như chứng bệnh kinh niên
Ơi, chị về nhớ mang lại chút thần tiên
Ơi, chị về nhớ mang lại tuổi thiếu niên...
trần thái vân
Từ Hôm Ấy
Từ hôm ấy em về dòng sông nhỏ
Thả tóc buồn đan sợi nhớ mênh mông
Anh có nhặt tình cờ trên lá đỏ
Một sợi thương cho lần ấy mặn nồng
Từ hôm ấy cuộc tình lên tiếng gọi
Dong thuyền theo ngày tháng mộng ra khơi
Tình thác lũ, chân đá mòn phủ khói
Bước tình nhân hoài quấn quít gọi mời
Từ hôm ấy tim ngập ngừng bối rối
Bóng chiều rơi, hồn sóng biển dâng cao
Dấu tình yêu, ai đưa đường chỉ lối
Lòng bước theo, ngàn lau lách xạc xào
Từ hôm ấy là những ngày nắng chói
Hồn viển vông theo ngày tháng đong đưa
Rồi chợt biết tình chỉ là mây khói
Lòng mù sương, trời se sắt ngày mưa
Từ hôm ấy em cúi đầu sám hối
Xin an nhiên về giữa cõi tình vời
Từ hôm ấy anh tim tràn bối rối
Xin một lần, tình yêu đến giữa đời ...
tường vi
8/10/96
TRANH VIỆT NAM HÔM NAY
Bốn trang báo trên tờ Time số đề ngày 26-8-1996 của tác giả Tim Larimer là một trong những bài giới thiệu quan trọng nhất về mỹ thuật Việt Nam ra với thế giới, bởi Time là là một tờ tuần báo lớn bậc nhất ở Mỹ, có số phát hành cao (hơn 4 triệu bản/tuần) và được đọc rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Thật ra, bài "Simple pleasures" (Những niềm vui dung dị) của Tim Larimer cũng chỉ mới khảo sát hội họa đương đại ở phía Bắc với các tác giả đang được giới sưu tập và có chuyên môn nước ngoài quan tâm; song cách nào đó tác giả cũng đã nhận diện được những nghệ sĩ tạo hình đáng chú ý nhất của hội họa VN hôm nay - những người mà nói như David Thomas, giám đốc Chương trình nghệ thuật Ðông Dương (Indochina Arts Project), người đã đứng ra tổ chức nhiều triển lãm mỹ thuật VN trên đất Mỹ, thì họ "đã kết hợp được một cách ngoạn mục cái bí ẩn của nghệ thuật phương Ðông với sự phổ quát của hội họa phương Tây."
Các họa sĩ đó khởi đầu từ Bùi Xuân Phái và người bạn cùng thời với ông là Nguyễn Tư Nghiêm, cho tới lớp trẻ ngoài ba mươi như Ðặng Xuân Hoà, Trần Lương, Lê Thiết Cương... và trẻ hơn nữa như nữ họa sĩ Ðinh Ý Nhi, 28 tuổi. Nếu như các bậc thầy Phái, Nghiêm đã phải vượt qua nhiều khó khăn để sáng tạo thì lớp trẻ ngày nay như lời Lê Thiết Cương: " Chúng tôi có thể vẽ thoải mái và có thể bán những gì mình vẽ được." Cách đây khoảng nămnăm, tranh Phái có thể mua với giá 100USD, song ngày nay giá tranh của ông đã tăng gấp nhiều lần. Một nhà sưu tập tại T. P. HCM, theo Tim Larimer cho biết, đã vừa bán một bức của ông cho một nhà sưu tập Hàn Quốc với giá 36000 USD. Có điều tranh giả của Phái cũng không ít trên thị trường. Theo Tim Larimer thì ở một gallery tại Hà Nội, cách nhà của Nguyễn Tư Nghiêm không bao xa, người ta cũng bày bán tranh giá của ông với giá 1000 USD/bức, đến độ chính nhà nghệ sĩ đã 74 tuổi này cũng phải kêu lên:" Tôi mong sao những kẻ kinh khủng ấy ngừng sao chép tranh tôị"
LêThiết Cương, 34 tuổi, là một hiện tượng của hội họa VN. Anh đã rời khỏi trường vì phong cách "không giống ai" của mình, vậy mà tranh của Cương hiện nay, theo Tim Larimer, đã có những bức được bán với giá 40000 USD.
Ðặng Xuân Hòa cũng là một trong những khuôn mặt được giới sưu tập tranh nước ngoài đánh giá cao. Tranh của Hòa khiến gợi nhớ tới Matisse, song anh lại sử dụng nhiều biểu tượng và truyền thuyết VN trong tác phẩm: những bình trà, mèo , cá hóa long... Hoà nói: "Tranh tôi có vẻ giống như là tranh phuơng Tây đối với người nước ngoài, nhưng một người Việt lại nhìn thấy nó là của VN." Truyền thống và hiện đại, đó là vấn đề muôn thuở của nghệ thuật, song như họa sĩ Trần Lưu Hân, khẳng định:" Khi vẽ, tôi chẳng quan tâm tới bản sắc hay đặc trưng dân tộc. Tâm hồn tôi là VN." Hay như Nguyễn Tư Nghiêm nói: "Nghệ thuật VN khi anh tìm thấy phong cách riêng của mình." Ðiều ông nói dường như đã được Ðinh Ý Nhi chứng thực. Là một trong không nhiều lắm các tác giả nữ nổi bật hiện nay, Ðinh Ý Nhi đã từ bỏ những cô gái mỹ miều mặc áo dài đi xe đạp để vẽ những hình nhân nữ lởn vởn trong một thế giới chỉ có hai màu đen vàxám mà qua những tác phẩm ấy cô đã đề cập tới những vấn đề lớn của nữ giới: bình đẳng với nam giới và sự thiếu thuỷ chung.
Nguyệt Cầm
ttcn, 1-9-1996
Hoài Cổ
Bạn bè bảo hắn là típ người hoài cổ. Mới đầu hắn cố cãi, tao cũng thích vài cái mới đương thời chứ, nếu không sao sống được ở xứ Mỹ nàỵ Sau hắn mặc kệ, nếu cái mới tao không thích thì sao bắt tao thích được. Hắn cũng ở trong cái tuổi trung niên, bề ngoài thì rất trẻ, nhưng tính tình thì bắt đầu hơi khó tính một chút, ít chịu được cái bực mình mà chắc hồi trẻ dễ bỏ qua. Lớp tuổi của hắn ở bên Mỹ này nhiều người thay đổi tính tình, làm những cái chưa bao giờ làm, họ gọi là "mid-life crisis". Hắn thì chưa có nhũng cái bất bình thường đó. Hắn cũng chưa có gia đình, sau một vài lần đổ vỡ hắn mất cái thú đi tìm tình yêu mới, quen sơ giao thì có nhưng bảo ký kết chung thân với ai thì chạy mất. Thực sự hắn cũng cô độc nhưng không buồn lắm, đầu óc hắn lúc rảnh rôĩ thì có cái thú nhớ lại những kỷ niệm cũ. Những kỷ niệm của riêng hắn, hay những ký ức của người khác nếu hay hay thì hắn vẫn nhớ, thấy thích thú trong các câu chuyện cũ đó.
Hắn cũng có nhiều bạn thân, có những bạn quen cả gần hai mươi năm thỉnh thoảng gặp. Gặp thì nhắc lại những ngày xưa đi học với nhau, đi lao động chung, chia nhau từng miếng cơm điếu thuốc. Bạn hắn đa số đã bỏ thuốc, nhưng cái câu chuyện cũ bao giờ cũng trong cái bối cảnh quán cóc bên đường, hay quán càphê chị Hai ở cổng trường Văn Khoa, ngồi rít từng hơi điếu thuốc Tam Ðảo hay Vàm Cỏ sao mà thật ngon, ly cà phê nhỏ hơn tách nước trà ở bên Mỹ uống hết thì đổ trà nóng vào ngồi thêm cả tiếng. Ðôi lúc có tiền mua hai điếu ba số năm International mà hắn gọi là ba số năm 'oanh tạc', đãi bạn bế Hay là sang hơn, những lần đó đếm không hết đầu ngón tay, mua một bao Cravena mười điếu hiệu con mèọ Nhũng lần đó thì trịnh trọng hơn, lựa một quán cà phê trong vila đẹp, có nhạc cổ điển hay ngoại quốc của the Carpenter để thưởng thức. Ðiếu Crevena có cái cán vàng, nhưng không phải là đầu lọc, hút thì phải hút ngược. Châm điếu thuốc từ đầu lọc, miệng ngậm đầu thường, bặp bặp nhìn phiá đầu lọc vàng cháy nhẩn nha loè chút ánh lửa, cái vị cháy của đầu lọc hơi khét khét, đậm đà hơn hút kiểu thường. Mỗi lần nghĩ đến chữ thuốc 'oanh tạc' hay Crevena, hắn cười một mình khoan khoái.
Ðám bạn hắn cũng thưởng thức không kém cái câu chuyện cũ. Hắn cũng nhớ cái cảnh hút thuốc rê ở trong tù, lần đầu tiên trong sà lim thấy mấy người dân địa phương ở Sóc Trăng xé một miếng giấy báo Công An hay Sài Gòn Giải Phóng vấn điếu thuốc bật lửa châm lên, cháy như cây đuốc, hắn nhìn không chớp mắt, ngồi nghĩ lại hắn cũng thấy vui. Ðầu óc hắn nhớ nhũng chi tiết nhỏ ít người để ý, nhưng hắn cho là những câu chuyện kể ra cho vui các buổi họp bạn.
Ðám bạn mới ở bên Mỹ hắn cũng có nhiều, nhưng hắn thích nhất là đám đã đi học tập vì có nhiều chuyện để kể. Hắn vẫn nhớ và thấy vui vui khi một người bạn kể lại lúc gia đình đi thăm nuôi, tuy khổ nhưng gia đình thế nào cũng gửi cho bộ quần aó lành lặn. Thế nhưng có tên trước khi ra gặp gia đình chạy đi mượn một cái quần rộng và rách rưới nhiều lỗ thủng nhất để mặc, thắt lưng thì lấy dây kẽm thòng vào để buộc cho thêm phần thiểu não. Chỉ tội cho gia đình đi thăm nuôi thấy chồng hay con mình gầy guộc lếch thếch trong cái quần tang thương đó ai cũng bật khóc như mưa như giô Tụi cán bộ quản giáo sau này cũng biết nên cấm không cho mặc quần áo rách để ra gặp, nhận đồ thăm nuôi của gia đình nữa. Hay là câu chuyện tên bạn nghèo kể gia đình quá nghèo cả năm không ai thăm nuôi, đói thê đói thảm. Mỗi lần có dịp thăm nuôi các tù nhân khác có đồ, không mở miệng xin bạn cho một miếng ruốc được, giả vờ đứng lảng vảng ở gần hy vọng có người mời ăn. Càng lúc càng đói vì không ai mời ăn mà cái mùi thơm của thịt cá nó cứ tấn công cái dạ dàỵ Ðêm đến lại càng khổ hơn, tụi ở giường bên cạnh lén ăn thêm các món đồ ngon. Trong im lặng nghe tiếng nhai, tiếng nuốt ực của các kẻ may mắn lại làm cái đói hành hạ hơn, ruột sôi cứ phải ngồi dậy lấy lon guigoz uống nước vào cho bụng bớt trống để quên đói.
Hắn cứ thích sưu tầm những câu chuyện như vậy để nhớ. Thơ văn nhạc thì đương nhiên hắn thích những cái thật xưa, thời tiền chiến. Hắn thì lớn lên không biết gì về thời kháng Pháp, thập niên 30, 40, 50 nhưng các bản nhạc thời đó hay những tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn thì hắn rất say mê. Mỗi lần nghe thì lại mê mẩn tưởng như sống thực sự trong các xóm làng quê bình dị, mối tình trai gái kín đáo, nhìn xóm dừa nhớ quê xưa, thấy ánh trăng lên hồi hộp chờ lúc gặp nhau bên đường... sung sướng sống và nhớ cái cảnh hoàng kim. Cảnh mà thực sự hắn chưa bao giờ biết đến. Lái xe đi làm mà thỉnh thoảng thấy hàng cây xanh hắn lại nghĩ tới cây dừa cây cau ở quê nhà, mà hắn lớn lên ở Sài Gòn chưa có đi chơi nhiều ở miền Nam, miền Trung thì làm gì có ký ức đó. Nhưng đầu óc nhớ nhà của hắn thì rưng rưng muốn về thăm xứ, đến tận gốc cau, cổng làng cho thoả cái lòng hoài hương.
Cái mơ mộng lẩn thẩn ảnh hưởng không ít vào sự hội nhập với đời sống mớị Ngày mới đi làm phải xã giao với các đồng nghiệp trẻ hơn hắn cả mười tuổi, hắn hãnh diện khoe các kiến thức về các nhà văn Hemingway, Joseph Conrad, D.H. Lawrence, Henry Miller mà hắn còn nhớ được ngày còn ở Văn Khoa, và các ban nhạc The Carpenter, the Shadow, the Platters, các ca sĩ Cliff Richard, Doris Day, Connis Francis... và cả Barbara Streisand hắn biết lúc vừa mới qua Mỹ, các đồng nghiệp khen lấy lệ, hắn không cảm thấy được cái nhíu mày kín đáo, hay mắt hơi trợn của các người đẹp tóc vàng hay các câu phê bình của một số người gia đen nói nhanh quá hắn không hiểụ Dần dần hắn cảm thấy hơi bị cô lập trong sở làm, đâm chán không nói về cái quá khứ cho ai nữa. Hắn vẫn có cái thú vui riêng lẻ lúc về nhà, đọc lại các chuyện cũ, nghe bản nhạc của Phạm Duy, Văn Cao là đã tìm được cái thời hoàng kim mà hắn nghĩ là đã mất rồi. Các truyện mới của các nhà văn hắn đã biết tên hắn đọc còn dễ dàng, nhưng các truyện của các nhà văn hắn chưa từng biết tên, dù là truyện cũ, hắn đọc rất lấy là khó khăn.
Cũng như một số các người Việt ở Mỹ, hắn thích về VN chơi để tìm lại cái cũ. Sài Gòn bây giờ đối với hắn đông quá sức tưởng tượng, nóng ngột ngạt, ẩm. Hắn đi qua các cổng trường cũ mắt quan sát các quán xá các bàn cà phê hồi xưa hay ngồi với các bạn bè. Toàn các em sinh viên còn trẻ, không thấy một người quen chạy ra vẫy gọi hắn vào uống nước. Các bạn bè cũ ai cũng bận và hình như các thú vui đã thay đổi, gắng rủ một đứa đi uống cà phê, nó lại đưa hắn vào một quán có máy lạnh, có mấy Tây 'ba lố và đám thương gia Ðại Hàn, Hồng Kông với một số con gái người Việt, không hiểu là thông dịch viên hay là cái gì khác nhưng hắn cảm thấy khó chịu, đòi đi ra. Bạn hắn nói "Từ ngày mày đi tao có uống cà phê lần nào nữa đâu, chỉ đi nhậu thôi, nhậu cho quên đời, mày bảo tao đi uống cà phê tao đâu biết dẫn đi quán nào đâu. Cà phê ôm thì mày không chịu, còn cà phê thường thì nóng với bụi sao tụi Việt Kiều tụi mày chịu được?".
"Thì mày dẫn tao đi thử coi!!"
Tên bạn phải miễn cưỡng chở hắn đi - "Vậy đi uống quán chị Hai ở cổng trường Văn Khoa, tao lái xe ngang vẫn thấy bả, chắc mày thích." Ðến vừa lúc tan trường đông nghẹt không có chỗ ngồi, người bạn đậu xe bên lề gọi: "Chị Hai ơi, có thằng này bên Mỹ về ghé thăm chị nè, hồi trước nó uống cà phê ký với chị hoài đó". Hắn vẫ nhận ra hai vợ chồng, chị Hai hơi khác, hình ảnh hồi trước hắn vẫn nhớ là ông chồng nhỏ con hơn vợ, bà vợ thì hình như lúc nào cũng có bầu. Mấy năm ở cổng trường uống lê la, không lúc nào thấy chị không có mang cái bầu trước bụng!! Hai vợ chồng ngỡ ngàng nhìn ra hai tên mập trắng ngồi trên xe đang cười với mình. Chị Hai già hơn trước, tóc đã hơi bạc và mất mấy cái răng cửa.
"Tụi em đó hả, mập quá chị nhận đâu có ra, nói tên chị mới nhớ, lâu quá rồi. Ðứa nào cũng thấy giầu, chắc làm nhiều tiền lắm. Cám ơn mấy em nhớ chị tới thăm nhe." Hai đứa lái xe đi, hắn ngoái lại, trong đám đông xe cộ, vẫ thoáng thấy nụ cười thiếu răng của chị chủ quán và ông chồng nhỏ con, để ria, hiền hậu ít nói nhìn theo. Lòng chợt vui.
Bạn cũ gặp nhau hay nói chuyện cũ, nhưng cái mới hơi khó chia xẻ hai cảnh sống khác nhau. Kể ra khó cảm được. Bạn hắn bây giờ là thương gia lớn làm ăn nói chuyện trăm ngàn đô la. Cảnh đời thay đổi, nhưng vẫn thân, có cái điều nói chuyện hiện tại khó có cái chung để hiểu. Hai đứa lái xe đi lang thang đến gần đường Minh Mạng khu Ðại Học Xá, tên bạn buột miệng chửi một câu "DM nó, cứ đi đến khúc này thấy hàng cây cao là thấy đói bụng". Hơi ngạc nhiên hắn hỏi tại sao, nó giải thích hồi còn đi học trọ ở Ký Túc Xá Minh Mạng, không có tiền chỉ trông vào cơm của Ký Túc Xá, không có ngày nào dám bỏ và mỗi lần trưa hay chiều đi xe đạp về thấy mấy hàng cây biết là sắp có ăn và bụng lại bắt đầu đói thêm. Ðến sau này đã no đủ rồi mà mỗi lần đi ngang lại cứ có cảm giác đói. Hắn nghe mà cảm thấy nó gần guĩ vô cùng, mát lòng mát dạ Thầm cảm ơn tên bạn đã nhắc lại những kỷ niệm quí báu đó.
Hồi hắn vượt biên ở tù ra, cũng những người bạn này tới thăm và kéo qua Ký Túc Xá nấu đãi một bữa cơm trắng với mắm quẹt ngon vô cùng. Từ đó đến nay hắn không ăn thêm mắm quẹt bao giờ nhưng cũng không ước vìbiếtchắc chắn sẽ làm mất ngon cái kỷ niệm lúc đang thiếu thốn có bạn tới hỏi thăm.
Hắn vẫn sống với tất cả các kỷ niệm đó, thâu lượm những chuyện cũ của người khác thành chuyện của mình. Hắn vui là lúc có bạn ngồi kể chuyện, nếu ai bàn chuyện hiện tại hăng say trong các thành công trên sự nghiệp, vợ con, nhà cửa hắn lơ đãng nghe và quên hết. Có những đám bạn vui, hoà nhập với đời sống hiện tại hắn từ từ lảng ra, ít liên lạc.
Ðôi lúc hắn tự hỏi rồi đời sống sẽ dẫ n về đâu. Hắn không có câu trả lời, nhưng không lo lắng. Bạn bè nói hắn mày bắt đầu gàn rồị Hắn cười, mặc kệ... Tao chọn con đường đi của tao, tao thoải mái trong cái đó. Hắn vẫn tìm được an bình. Trong các câu chuyện cũ.
Ðỗ D. Ðôn
12/6/96
HỒI KÝ HỌC TRÒ NGÀY XƯA
Tôi học lớp Ðồng ấu - nay gọi là lớp Một, ở một trường nhà quê. Có một trò chơi dành chung cho cả học trò con trai lẫn học trò con gái: đó là trò "đánh mạng". Hòn "mạng" là một mảnh ngói hình tròn, đường kính chừng 5-6cm. Muốn có được một hòn mạng, chúng tôi phải chọn một miếng ngói bể vứt rải rác đâu đó ở mép sân trường. Dùng một viên đá cầm tay để khẽ gọt mọi cạnh góc của mảnh ngói sao cho tròn trịạ Công phu lắm. Hể sốt ruột chọi mạnh một chút là viên ngói bể làm hai. Có đứa cẩn thận chịu khó ngồi mài cho bìa cạnh nhẵn nhụi. Giờ ra chơi luôn luôn nghe có đây đó tiếng đập, tiếng gõ, tiếng mài.
Sân chơi không cần rộng, nhưng cần phẳng phiu. Cái đích là một viên gạch dựng đứng. Phải đứng xa cỡ 3 hay 4 mét và ném hòn mạng cho trúng viên gạch. Ném trúng dưới nhiều tư thế. Bắt đầu đứng ném, gọi là "xáng mạng". Rồi đặt hòn mạng trên mặt đất và ngồi chồm hổm xuống, cung một ngón tay mà búng. Cho phép phải búng liên tiếp hai lần, nếu lần đầu không trúng đích. Tư thế đó gọi là "búng đất". Rồi tới "búng gối", nghĩa là đứng thẳng, cung một đầu gối đặt hòn mạng lên đầu gối và búng bằng ngón tay. Hết búng bằng ngón tay đến búng bằng ngón chân. Hết dùng hai bàn chân đến dùng một bàn. Bằng cách giữ gót chân cho đứng yên một chỗ làm điểm tựa, rồi xoay mạnh bàn chân để bẩy hòn gạch chạy tới, gọi là "thạch bàn." Rồi cũng bẩy hòn gạch đó nhưng để chân trái ra trước cho 2 chân tréo nhau, và gọi là "thạch tréọ" Tới nhảy lò cò một chân, còn chân kia hoặc quắp hòn mạng dưới ngón, hoặc kẹp hòn mạng nơi khuỷu, hoặc chỉ đặt hòn mạng trơ vơ trên bàn chân mà nhảy sao cho khỏi rơị Có khi lại vừa nhảy lò cò vừa keó lết hòn mạng dưới bàn chân kia, mà phải nhảy luị Khi đến gần đích thì phải tính toán sao để vừa thúc mạnh một cái là hòn mạng đập trúng nhằm ngay đích.
Lớn lên, mỗi khi nghĩ đến trò chơi "đánh mạng", tôi không ngăn cản được lòng khâm phục đối với người nào đã sáng chế ra nô Một trò chơi đã khéo vận động được gần hết các bắp thịt tay, chân, lưng, mông... Một trò chơi linh động bởi các tư thế biến chuyển liên tiếp. Một trò chơi phong phú như vậy mà đã bị lãng quên để hôm nay học sinh đô thị chỉ còn biết thọc bi-da, chơi bạc cắc... nhưng trò chơi nặng tính cờ bạc.
Tôi cũng lại tự đặt câu hỏi: Ai đã du nhập trò chơi ấy vào lớp học sinh chúng ta, du nhập vào hồi nào, bởi lẽ chúng tôi là lớp học sinh học Quốc ngữ đầu tiên của cả Huyện. Ở các thôn xóm xa, nhiều đứa trẻ bằng tuổi tôi còn đeo đuổi học chữ Nho, còn ê a Tam tự kinh rinh rã. Tụi nó chế nhạo chúng tôi là "học chữ cua bò" và cái ngòi viết nhọn bằng sắt mà chúng tôi gọi là "ngòi viết lá tre, ngòi viết lá liễu" bị làm đầu đề cho bao nhiêu lời phỉ báng. Chúng nó kêu là đồ "đâm heo lụi chó". Ngẫm nghĩ một chút, chúng tôi phải thầm công nhận là chúng nó nói đúng. Ờ, ngòi bút lông trông thật dịu dàng hiền hậu biết bao! Trước khi viết, có ngầu yếm đặt ngọn bút lên môi, mút nhẹ nhàng cho lông xếp thẳng. Khi cắm bút vào nghiên mực, người ta cầm nghiêng cán bút và lăn nhẹ ngọn bút cho thấm nhẹ thấm đềụ.. Mọi cử chỉ đều dịu dàng, đều hoà nhã, ung dung. Còn cái ngòi viết của bọn tôi thì rõ ràng là đồ thô lỗ, đâm đâu lủng đó, chạm vào tay ai là cào sướt da chảy máụ Khi chấm vaò hũ mực, có đứa cứ phóng thẳng cho ngòi viết mổ vào đáy hũ lốc cốc.
Hai phái chữ Nho, chữ Quốc ngữ mâu thuẫn nhau trên lề lối học, nhưng khi chuyển qua mục chơi thì chúng tôi hòa đồng. Học trò Nho thường có bốn môn chơi là "đánh trống", "đánh đáo", "đá bò", "u mọi". Chúng tôi sao y đem du nhập vào trường Quốc ng Môn "đánh mạng" chắc cũng là trò chơi của các trường Nho chuyển qua. Một trò chơi bình dân có nhiều tính chất thể dục như vậy, một trò chơi mang đậm sắc thái dân tộc như vậy nên được phục hồi ở các trường tiểu học hôm nay.
Còn một trò chơi dính dáng tới "hồn ma phách quế", đó là trò "khai roi". Bắt một người ngồi xuống, lấy khăn bịt chặt hai mắt hắn lại. Một cái roi dài được đặt vào bàn tay hắn. Một người đóng nhiệm vụ đọc thần chú, cầm một cây hương đốt cháy huơ nhiều vòng trước mặt hắn, miệng ê a:
Khai roi, ối hỡi khai roi!
Mày lên, mày đánh tao coi tối ngày
Khai roi, ối hỡi khai roi!
Mày lên, mày đánh tao coi tối ngày
Tên cầm roi lảo đảo cái đầu, càng lúc càng nhanh. Hồn ma nhập đấy! Chợt hắn đứng dậỵ Lũ bạn đang đứng quây quần xung quanh vội dang ra xạ Hắn bỗng quơ roi, vụt xung quanh một vòng. Lũ bạn chạy tán loạn vừa hò reo:
- Lại đây! Lại đánh tao đây!
Hắn chạy tới. Vòng người đứt quãng ra, tránh xa ngọn roi của hắn. Hắn quay luị Vòng người ở đàng sau bị tấn công bất ngờ, chạy tháo lui, có đứa vấp bụi cây mô đá sau lưng ngã dụị Hắn quay bên tầ Quay bên hữu. Ngọn roi vun vút xé không khí. Ban đầu thì hắn còn nhớ lắc lư cái đầu, một lát sau thì quên mất lắc lư. Chắc mãi lo việc vung roi và chọn xem nên đánh về phía nào, nhắm đứa nào đáng đánh.
Ngày nay, mỗi lần nhìn các em bé cắp sách đi học lớp mẫu giáo, lớp Năm, tôi không tìm thấy một nét ưu tư hay lo sợ nào nơi gương mặt các em hết. Tới lớp cũng vui như ở nhà, có khi còn vui hơn. Cô giáo hòa mình với các em, hay kể chuyện cho các em nghe, thỉnh thoảng cả lớp vỗ tay đánh nhịp cùng nhau cất cao giọng hát. Chuông rung ra chơi, các em chạy vù lại hàng bánh mì, hàng cà-rem, hàng chuối chiên...mua ăn tới tấp. Tan giờ học thì có cha mẹ hay anh chị hay người nhà đem xe tới đón. Mỗi ngày đi học một buổi, buổi ở nhà chạy chơi tha hồ. (những trường học ở VN not ở Mỹ!)
Thế hệ chúng tôi, tôi học lớp Năm năm 1930, đi học cực khổ hơn. Ở lớp Năm, nghĩa là lên 7-8 tuổi, có một giờ học mà chúng tôi sợ hơn cả, đó là giờ Pháp Văn. Hồi đó chúng tôi gọi là Langue Francais, chữ Pháp Văn chưa được đặt ra. Cứ tưởng rằng cả làng chỉ có độ 10 người biết đọc chữ Quốc ngữ, một hai người biết lõm bõm tiếng Pháp thì mới thấu hiểu nỗi khổ của những đứa học trò nhà quê học Pháp văn. Ðó là làng tôi thuộc loại làng tân tiến nhất Huyện. Ở miệt Ðồng Ké - Ðồng Nghệ, có làng không được một người biết đọc Quốc ngữ.
Chúng tôi có mỗi đứa một cuốn Langue Francais Cours Enfantin. Tác giả là hai ông Imbert và Carrê Ðoạn học vần làm chúng tôi lao khổ hơn hết. Phải vừa nghe thầy đọc để đọc theo, vừa chua giọng đọc bằng viết chì cho mau. Mà phải chua viết chì ở một nơi cuốn vở nào khác. Chua lên sách thì thầy phạt bởi lẽ hôm sau bắt đọc lại thì học trò sẽ chỉ đọc chữ chua bằng Quốc ngữ mà thôi. Mới học lớp Năm, thong thả ngồi nắn nót viết mà chữ còn ngòng ngoèo như cua bò huống chi là viết vội vàng vừa có ý dấu lén. Bởi thầy cứ muốn học sinh dồn tất cả chú ý vào cách đọc và nhớ liền tay, thuộc tại trận. Ông thầy giaó thật giống như bà mẹ chồng. Khi được làm thầy rồi thì cứ sẵn sàng quên cái thuở mình còn đi học. Cứ tưởng nói đâu là nhớ đô Cũng như khi được lên chức mẹ chồng rồi thì người đàn bà quên hết những nỗi cay đắng thuở mình làm dâu. Việc gì cũng cho là nhẹ, là dễ và cứ bắt con dâu phải làm cho nhiều hơn, mau hơn, tốt hơn, còn ăn và ngủ thì càng ít càng haỵ
Ôi, những nguyên âm, phụ âm kỳ quái! E phải đọc là É phải đọc là Ê... Thằng bạn tôi tên là Ðông phải chịu khổ hình liên miên bất tận vì môn chữ Pháp đáng nguyền rủa này. Nó như thách đố hết thảy, nó cứ đọc theo vần Việt Nam. Dẫu rằng chúng tôi đứa nào cũng hồi hộp lo sợ, nhưng khi nghe nó đọc sai một cách tỉnh táo, cả lớp chúng tôi cũng không khỏi bật cườị Có điều tiếng cười vừa phát ra là chết đứng liền, không kịp hạ xuống. Cả cái khối không khí trong lớp như cũng run run ngập ngừng.
Sang đến vần ien, oin, euil, euille, gnal... thì cả lớp biến thành những thằng Ðông hết. Mặc tình cho thầy chạy lên chạy xuống, chạy qua chạy lại để phân phát những cái cốc bằng thước kẻ lên mọi cái đầu. Chữ U ngó gọn gàng vậy mà cũng rắc rốị Thằng Tiến chỉ đọc được những âm láng giềng như UY như UỊ Thầy kêu nó lên bảng bắt nó nhìn theo miệng thầỵ Không biết nó nhình cách sao mà sửa chửa một hồi thì miệng của nó chu rồi lại rồi loe ra như cái mũi heo. Khi phát âm lên thì trời ơi, không còn UY còn UI nữa mà nó đã thành OE, xa lơ xa lắc. Bữa luyện giọng đó thật tai hại. Hôm sau đi học, hai bên mép đó được bôi đầy phẩm lục. Nguyên do nó có tật lở mép kinh niên, lúc nào cũng có nghệ bôi nơi mép. Sau một giờ hành hạ, chằng qua kéo lại, chỗ mép rách bị rách thêm. Củ nghệ không đủ sức để vá một đường rách quá khổ như vậy nên nó phải cầu cứu tới phương phẩm lục!
Lên lớp Tư thì đại khái những trở ngại lớn đã được vượt qua. Một hôm thằng Hoà mang tới lớp một cuốn từ điển Pháp - Việt mà tác giả là ông Barbier. Lần đầu tiên chúng tôi thấy một cuốn sách dày như vậy. Thằng Hoà có một ông cậu đi làm ăn ở Saigon, lục tỉnh. Nhân mẹ nó vô thăm, cậu nó gởi cho cuốn sách. Thầy cầm sách giở ra coi, đọc lên chữ Pháp và nghĩa chua ra tiếng Việt. Thật là mê man! Có được cuốn sách như vậy y như có một ông thầy trong nhà, hễ không biết chữ gì cứ lật ra mà tra. Thầy đọc tới chữ "Ananas: Quả thơm", chúng tôi khoái quá nhìn nhau cười. Bởi đó là chữ đã học rồi.
Thầy nói:
- Tụi bây mà có một cuốn như vầy thì cứ ngồi tra mà học chữ một. Học lâu phải giỏi.
Từ ngày thằng Hoà có cuốn tự điển, chúng tôi tới chơi nhà nó thường xuyên hơn. Ðứa nào cũng muốn được lật coi chữ và học kê Bởi vì đứa nào cũng thèm nên nó đặt lệ là không được coi riêng mà phải cùng học chung. Chúng tôi tuân lệnh nó răm rắp. Cứ nghêu ngao:
- Abaque là bàn toán... Abattoir là lò heo. Abeille là con ong...
Tới chữ "Cachalot" ông Barbier dịch là "Tên cá kia". Chúng tôi cứ sao y bản chánh rồi cả bọn nghêu ngao:
- Cachalot là tên cá kia. Cachalot là tên cá kia.
Ðố có hiểu nó là cái gì. Sau này lên trung học tôi mói biết "Cachalot" là tên của một loài cá biển. Những cuốn từ điển tốt ghi là "Cá nhà táng". Gặp những chữ không có trong ngôn ngữ VietNam thì người làm từ điển lấy chữ Trung Hoa thay vàọ Như "Bruyère" dịch là "Hoa thạch thảo", "Hortensia" dịch là "Tử dương hoa", "Ornithorynque" dịch là "Con áp chủy". Nhằm tay ông Barbier thì chúng tôi tha hồ được đọc là "Tên hoa kia... tên con vật kia... tên trái kia..."
Ðau khổ nhất là những anh học sinh làm bài dịch văn từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Lò mò lật từ điển ra tra để tìm chữ dịch thì rơi nhằm vào "tên cá kia". Chắc thế nào cũng có anh làm bài lật đật, không có thì giờ suy nghĩ và đọc lại nên đã viết những câu vô nghĩa. Chẳng hạn "Người thủy thủ đã bắt được một tên cá kia" hoặc "Nàng cúi xuống ngắt hai tên hoa kia".
Mới vào lớp Năm, chữ Pháp còn đang ú ớ ngọng nghịu những A, E, I, O, U, ... mà thầy đã bắt học trò kêu điểm bằng tiếng Pháp. Không phải trong giờ Pháp văn mà giờ nào cũng vậy. Thầy giảng sơ lược:
- Hễ 1 điểm thì nói "Re oong que". 2 điểm thì nói "Re đơ que". 5 điểm thì "Re xanh que". 9 điểm thì "Re nớp que".
Không biết lũ bạn diễn dịch câu tiếng Pháp ra cách nào, riêng tôi thì hiểu ngầm rằng đơ là 2, que là cái que, xanh là 5, que là cái quẹ "Re" thì chịu không đóan được. Nhưng chắc chẳng có chi quan hệ bởi câu nào cũng có "re". Tại sao tôi lại nghĩ đến cái quẻ Chẳng là lúc bấy giờ trong những trò chơi, chúng tôi có trò đánh chuyền. Dụng cụ chơi là một bó mười cái que bằng tre vót, nhỏ và ngắn hơn chiếc đũa, và một trái ổi, nhặt lên một que rồi bắt trái ổị Tung... nhặt từng quễ. cho đến que cuối. Ðoạn, tung... nhặt từng hai que cho đến hết bó. Rồi tung, nhặt từng ba quễ. cho đến que cuối, v.v... Bó que còn dùng để đếm khi làm toán. Ðứa nào không chơi chuyền thì đến giờ làm toán phải đếm bằng ngón tay. Que đã thành dụng cụ để đếm. Khi thầy phê con số 5 hay số 7 vào bài làm mình thì mình phải nói là có 5 que hay mình có 7 que.
Bao nhiêu sự diễn nghĩa âm thầm đó không hề được cải chính. Cứ tin như vậy. Phải tới lớp Ba - cho chính danh thì phải gọi là lớp Sơ Ðẳng - tôi mới biết là mình đã đoán sai. "Que" là cách phát âm sai, kiểu công tử nhà quê của chữ "Point". "Re" là cách phát âm sai của chữ "J'ai" có nghĩa là "Tôi có". Chữ "Point" được dịch là "điểm" và mãi khi người Việt được học tiếng Việt thì học sinh có quyền hô điểm một cách đơn giản là: 5 điểm, 7 điểm.
Ngẫm nghĩ cho cùng thì tuy là nghĩ bậy mà cái "que" cũng chẳng sai bao nhiêu so với cái "chấm" (Ðiểm nghĩa là chấm). Bởi vì cái chấm mà keó dài ra thì trở thành cái que. Tôi nghĩ rằng bao nhiêu người bạn tôi vì hoàn cảnh mà phải bỏ học sau lớp Năm hay lớp Tư, cho đến bây giờ chắc cũng chưa có dịp để hiểu rõ xem tiếng "que" mà mình dùng liên miên trong suốt niên khoá có nghĩa chính xác là gì.
Những hôm nào có giờ Pháp văn thì cường độ hăng hái chúng tôi dành cho các trò chơi bị giảm sút rõ rệt. Tên nào mặt mày cũng bần thần. Có trò chơi "phụ hồn ma" là trò chơi dễ mê say hơn hết, thế mà cũng không hấp dẫn nổi chúng tôi. Tuy nhiên có một hôm thằng Ðông đề nghị chơi phụ hồn mạ Nó kéo thằng Hiền bắt nằm dài xuống đất, nhắm mắt lạị Kéo luôn 7 đứa khác là thằng Hường, thằng Thìn, thằng Dung, thằng Bích, thằng Ngọc, thằng Tỵ, thằng Yến cùng với nó ngồi chồm hổm vây quanh thằng Hiền, mỗi bên 4 đứạ Mỗi đứa đặt một ngón tay trỏ, đứa thì đặt dưới đầu thằng Hiền, đứa thì đặt dưới lưng, đứa thì dưới mông, dưới chân. Thằng Ngọc lên tiếng trước, hỏi nhỏ thằng Thìn:
- Nặng nhẹ?
Thằng Thìn:
- Nhẹ
Trả lời xong, Thìn quay sang Bích hỏi:
- Nặng nhẹ?
Bích trả lời:
- Nhẹ
Và cuộc chơi cứ tiếp diễn bằng câu trả lời và câu hỏi đó, trả lời xoay vòng. Thông thường thì sau bốn hay năm vòng hỏi và trả lời như vậy, cả tám đứa cùng lặng lẽ từ từ đứng dậy và chỉ bằng tám ngón tay mà chúng nó nhấc bổng được tên nằm dài, nhấc cao có đến cả thước. Lần này kết quả cũng mỹ mãn như mọi lần. Nhưng khi thân mình thằng Hiền vừa nâng cao lên mới độ tám tấc thì chợt có đứa nào trong đám cử toạ bổng than thở:
- Lát nữa Langue Francaise tao chắc ăn đòn quá bay ơi!
Lời than não nùng làm tám ngón tay chợt bủn rủn. Kết quả xảy ra tức khắc: thằng Hiền bị rớt xuống đất một cái bịch!
Võ Hồng