vhnt, số 177
24 April 1996
Trong số này:
thư VHNT ................................................... PCL
T h ơ :
1 - Nguyên thủy ...........................................Trần Thái Vân
2 - Những ngày trước tháng tư ...................Huỳnh Ngọc Phước
3 - Ðám đông .....................................................Cỏ Mây
4 - Ðêm sương mong manh ...........................Thu-Hồng/Hoài Việt
5 - Dấu đá hằn .................................Nguyễn Hiện Nghiệp
B i ê n K h ả o / G i ớ i T h i ệu S á c h :
6 - Chữ quốc ngữ ...................................Trần Thiện Ðạt
7 - Giới thiệu sách mới ..............................Dung Nguyễn p/t
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Ngày xưa, ngày xưa ... ..................................Phạm Chi Lan
9 - Cái võng .................................................Phan Lê Dũng
Bạn đọc thân mến,
Thay cho thư vhnt số này, xin gửi đến bạn bài thơ của Herman Melville do anh Phan Lê Dũng chuyển ng Melville dùng biểu tượng kiến trúc Hy Lạp để nói về cái mạnh mẽ của văn học độc lập, là một cấu trúc hòa hợp của mọi tinh hoa con người - trong sáng, gần gũi, chân thật và tự nhiên phát xuất từ lòng yêu mến văn hóa chính là bản thể con ngườị
vhnt mong là một diễn đàn độc lập kết tụ nhiều tinh hoa, những sáng tác biểu hiện cho lòng quí mến văn chương, nét đơn sơ nhưng hòa hợp những khao khát khỏa lấp sự phát triển nội tâm và làm của ăn cho tinh thần.
thân ái,
PCL/vhnt
oOo
Not magnitude, not lavishness
But Form - the Site.
Not innovating willfulness.
But reverence for the Archetype.
Herman Melville, 1891
Kiến Trúc Hy Lạp
Không đồ sộ, chẳng kiêu kỳ
Vẫn hòa hợp dựng thành - Nền tảng.
Chẳng phát nguyên từ khát vọng sáng tạo thoát thai
Nét tinh hoa phản ảnh lòng thành cùng Nguyên Thể
Phan Lê Dũng
Nguyên Thủy
Thôi ta trở lại thời hoang dã
Vui với dòng thơ, hát giữa trời
Ðêm nằm nghe gió muà trăn trở
Mơ một cánh buồm ra biển khơi
Sóng vỗ ngàn năm đầu đã bạc
Cung nhạc thăng trầm vẫn chưa thôi
Bên bồi, bên lỡ thủy triều lạc
Chiều gió dâng lên luống ngậm ngùi
Bãi cát óng vàng như vô tận
Dã tràng xây mộng biến thành không
Sóng trắng lở dòng thương hay hận
Xua tan một giấc chửa say nồng
Hàng sậy cao ngoèo run trước gió
Hoang vu một cõi ánh tà buông
Hoa lạc dặm dài, hoa trắng có
Gây loài trên mảnh đá tha hương?
Mặt trời đỏ thẫm dần dừ đứng
Kẻ chài kéo lưới, rách giọng hô
Gân guốc dạn dày gương mặt nám
Hư huyễn như con cá chết đờ
Một ánh trăng già chênh chếch ngã
Trắng ngần, mặt biển tím màu than
Một đêm huyền thoại từ ghềnh đá
Thần rước quân vương máu lệ tràn
Hay màu tím đục vang tiếng khóc
Nhân tình chẳng đặng biển chia tay
Tóc xoả hàng dương, mây xoả bóng
Sóng vỗ vào không mắt ai cay
Hoặc màu tím nhạt niềm thương nhớ
Ước hẹn trời non chuyện lứa đôi
Biển lạnh mong chờ cơn mưa mở
Nhớ về rừng ấm, núi xa xôi
Ðêm xuống hoang vu màu bàng bạc
Ì ầm tiếng sóng vỗ từ khơi
Canh ba thức giấc mơ hoàng hạc
Một tiếng chim rơi giữa cuộc đời
Mơ tiếng cha ông từ xứ thượng
Theo mẹ xuôi dòng dựng nước non
Ðứng ngẫn nhìn trời, mây ngũ phướng
Vó ngưạ ngàn năm văng vẵng còn
Ta hát, một lần thôi, khản giọng
Bình minh thâm nhập đỏ vừng đông
Rong rêu trên bến nằm bất động
Chẳng còn thương nhớ, chỉ chờ mong
Ðã bảo rong đừng chơi với sóng
Dã tràng đừng giỡn cát vàng khô
Dương liễu đừng nhìn theo gió, ngóng
Thì đâu thiên biến để hững hờ
Với biển có muôn ngàn ý nghĩ
Với đời chỉ một bóng chim di
ặm dài, dặm ngắn, dầu thiên lý
Nhớ về, trong hoang dại, từ khi
Ta mơ, giấc ngủ mơ ngày tháng
Tháng ngày mơ, nhạt bóng thời gian
Thời gian mơ, biển nào hoang vắng
Biển vắng mơ, một kiếp dã tràng
Khởi đầu là thế, ôi nguyên thủy
Khi đất còn mềm nhũn một mình
Biển đã là bao la hùng vĩ
Khi nhân gian chưa biết tự tình
Ta cúi bốc một nạm cát óng
Cát chảy dài đo lượng thời gian
Mặt trời lên gần trưa nghiêng bóng
Bóng nhân gian ngã ngửa đen ngòm
Màu đen quá thấy gì đâu nhỉ
Tội không ghi, lẩn trốn vô hình
Sóng vỗ tan dã tràng mộng mỵ
Bóng nguyên hình, tội lỗi nguyên sinh
trần thái vân
Những Ngày Trước Tháng Tư
Tháng ba sấm gầm nắng quái
Thành phố bình yên chợt rú rừng
Những con én hết mùa nhìn nhau bỡ ngỡ
Về một màu đỏ rực cuối xuân
Những hàng rào kẽm gai bâng khuâng
Chiếc áo trận màu xanh tơi tả
Người lính Ðịa Phương Quân quần cháo lòng hối hả
Giông tố trùng trùng đàn kiến chạy quanh
Màu đất đỏ máu khô nhanh
Tay run run lật ngược xác người
Sình căng ngày đứng ngọ
Môi run run mếu máo gượng cười
Không phải Ba! Không phải Ảnh! Không phải Nó!
Tháng ba đi qua hàng cà phê đứng bóng
Gió mùa chưa rát mặt, lửa hừng hực chung quanh
Tháng ba nắng hanh bước chân trần ray rứt
Tự Do, đôi dép đã bị tướt mất đêm hôm
(Ôi đêm tối hắt hơi những khung trời kỷ niệm
Ánh mắt nào lần cuối hồn nhiên)
Tháng ba đi qua những cột hàng cây số
Về Ðức Lập, Khánh Dương rải rác xác người
Ðường Số Một em-bé-mắt-sâu tay ghì bình nước cạn
Mẹ em vẫn ngũ từ đêm qua
Người vẫn lặng lẽ cúi đầu lê bước
Ðịa ngục sau lưng địa ngục phía trước
Những viên đạn M16, AK47 hối hả ngược xuôi
Mở toang lồng ngực
Xoáy nát lưng cong
Tháng ba trở về ngôi nhà hương hỏa
Con chó già nằm ngủ thiên thu
Minô, Minô gốc ổi vàng yên giấc
Chiếc võng buồn tênh
Không người đưa
Trang sách nằm im. Nằm im
Ðôi-Mắt-Người-Sơn-Tây lặng lẽ
Bạn tôi ơi nói giùm nhau một tiếng
Ðể biết còn nhau trong đớn đau
Bàn ghế nằm im. Nằm im
Nơi đây khung cửa tuổi thơ ngồi
Tôi ơi nói giùm tôi một tiếng
Mai này có sống với đời câm
Tháng ba đi qua
Một mãnh đời đi qua
Huỳnh Ngọc Phước
Đám Đông
I.
Tôi ngồi đó
Nhìn dòng sông cuộn chảy
Nhìn cuộc sống cuồng trôi
Tôi ngồi đó
Giữa đám đông lạ lẫm
Ðám đông, đám đông và em.
Ðám đông, đám đông
Có mặt người, có mặt qủi, có em yêu
(Em là người hay qủi sứ, hở em)
Ðám đông, đám đông
Có lòng người, có cả dạ yêu tinh
Lửa định mệnh hỏa thiêu lời hứa hẹn
Tôi bỏ em một mình giữa đám đông
Tôi ngồi đó
Còn em đi mãi
Bến bờ xưa em còn nhớ không em
Tôi đổ rượu cho dòng sông thẫm lại
Ðể thuyền tôi dạt về bến xa xưa
II.
Tôi thấy em
Một cánh nhạn gầy
Em
Cất tiếng kêu thương, tiếng kêu tuyệt vọng
Rồi đâm đầu chết đuối giữa thinh không
Tôi lặng im
Vì tôi cũng tuyệt vọng
Ðã chết chìm dưới núi vinh quang
(Cõi người khước từ sự vinh quang
Nên tôi về tuyệt vọng).
Tôi thấy em
Một ánh sao băng
Không tiếng động không tay chào từ tạ
Lặng lẽ rời tôi
Tôi cúi người nhặt mảnh sao rơi
Mảnh thiên thể xanh xao
Ðã vụn nát trong tay tôi nắm chặt
Thành lớp bụi phủ hồn tôi mục rã
Che khuất em, che khuất tôi, che khuất lối về
(Tôi là người mang lòng dạ yêu tinh)
Tôi đổ rượu cho lòng chai cứng lại
Chờ lãng quên về trùm ngất tâm tư
Và em
Vì sao lạc
Lại một lần thêm tắt ngấm.
Cỏ May
Ðêm Sương Mong Manh
Sóng tình lạnh hạt đêm sương
Trời vương mây nhớ, buồn vương mắt buồn
Trăng soi bóng lặn sườn non
Hắt hiu gió chiếc, mỏi mòn tình xa...
Chừng mênh mang về qua mắt biếc
Lối xuân mòn nuối tiếc tuổi thanh
Số phần thương kiếp mong manh
Ngỡ chung đôi bóng, năm canh gối lòng
Hoài chi đã cách đôi dòng
Tìm trên men đắng, tìm trong tháng ngày
Tìm quên qua những cơn say
Quên người, quên cả đắng cay lụy tình
Ðêm nay sương lạnh hình như nhớ
Bút nghiên sầu một thuở xa xôi
Bỗng chừng nghe mặn bờ môi
Dấu sao được nỗi chơi vơi trong đờỉ
Chừng nghe xa cách mù khơi
Mong manh sương lạnh sao vơi nỗi sầu
Buồn này biết gởi nơi đâu
Cố nhân nào biết tình đau kín lời
(Ðêm nay buồn quá người ơi !!)
Thu-Hồng & Hoài Việt
dấu đá hằn
từ em
vãng phố hoa đào
gót hài
khua giấc mộng nào thoáng
qua
từ em
vắng phố đào hoa
dấu chân
trên cõi hồn ta
đá hằn
một ta đi
giữa
mùa trăng
ngàn hoa hồng nở
trên từng
mắt
môi
mùa xuân
cho mắt lệ
rơi
thương em
muốn nói
mà thôi
cũng thừa.
nguyễn hiện nghiệp
Chữ Quốc Ngữ
Bắt đầu từ thế kỷ 16, các đường giao thông trên mặt biển giữa Âu và Á được mở mang đã khiến cho người Tây Âu dong thuyền hướng về các nước Ðông Nam Á mỗi ngày một nhiều. Phần lớn là các lái buôn và các giáo sĩ đạo Thiên Chúa đi truyền đạo. Ðể tiếp xúc với dân bản xứ được dễ dàng hơn, các nhà truyền giáo đã có sáng kiến thay thế văn tự cổ truyền bản xứ bằng thứ chữ la tinh quen thuộc của họ.
Tại Nhật Bản, vào năm 1549, phái đoàn truyền giáo đã cho in cuốn giáo lý bằng thứ chữ Nhật la tinh (Romaji), rồi đến năm 1595 thì cuốn tự điển tam ngữ La-Bồ-Nhật được ấn hành tại đây. Ðến năm 1632, các nhà soạn giả dòng Ða Minh thuộc Bộ Truyền giáo La Mã đã cho ấn hành 3 quyển bằng Romaji: Phương pháp cáo tội xét mình, Tự điển Nhật ngữ và Văn phạm Nhật ngữ.
Tại Trung Hoa, vào khoảng năm 1584-1588, 2 giáo sĩ dòng Tên là Ruggieri và Matteo Ricci đã đi tiên phong trong việc soạn tập ngữ vựng Bồ-Hoa. Ðến năm 1598, Ricci cùng với giáo sĩ Cattanco chế ra các ký hiệu để chỉ các thanh. Rồi đến năm 1626, giáo sĩ Trigault cho xuất bản ở Hàng Châu bộ Âm vận Hoa ngữ được xếp theo mẫu tự la tinh với đầy đủ các thanh.
Ở VN, các nhà truyền giáo cũng đã áp dụng các phương pháp tại Nhật và Trung Hoa để thỏa mãn nhu cầu bành trướng đạo Gia-Tô tại đây. Hiện nay không ai biết đích xác chữ quốc Ngữ ở nước ta xuất hiện lần đầu tiên vào năm nào và người sáng chế đầu tiên là ai. Có điều chắc chắn là việc sáng chế không phải do cá nhân mà là cả một tập đoàn truyền giáo chung sức làm việc (gồm các giáo sĩ Ý, Pháp, Bồ Ðào Nha,...). Tài liệu sớm nhất viết vào khoảng 1625-1626 cho thấy một vài chữ quốc ngữ trong bức thư của vị giáo sĩ người Ý tên Buzomi nhưng các chữ này chưa có dấu. Vào năm 1631, trong cuốn "Ðiều trần về xứ Ðàng Trong" của giáo sĩ Ý Cristoforo Borri (ấn hành ở La Mã) thấy có nhiều câu Việt ngữ la tinh nhưng cũng chưa có dấu. Cách phiên âm còn chịu ảnh hưởng Ý ngữ vì các giáo sĩ trên đều là người Ý (Như XIN phiên âm là SCIN, CHẲNG phiên âm là CIAM, NHỎ phiên âm là GNOO).
Từ năm 1645, chữ quốc ngữ bắt đầu có dấu. Người ta nhận thấy trong một bài văn về Thánh lễ vào các năm trên có những dấu hỏi, huyền, ngã. Ðồng thời, cách phiên âm cũng không còn ảnh hưởng của Ý ngữ nữa mà lại ảnh hưởng của Bồ ngữ. Như bộ chữ SC thay bằng X, bộ GN thay bằng NH. Chủ trương cải cách này do các giáo sĩ Bồ Ðào Nha trong đó có Francisco de Pina, Gaspar de Amaral và Antonia Barbosa mà Alexandre de Rhodes đã đề cập đến trong bài tựa nơi cuốn tự điển của ông sau này.
Như vậy, trong thời kỳ này, chữ quốc ngữ được hình thành trong sự lộn xộn, chưa thống nhất được vì mỗi nhà truyền giáo chế ra một cách thức ghi âm riêng của mình, thường dựa theo cách đọc và cách viết của tiếng nước mình. Tuy vậy, từ từ đã có sự tiến bộ rõ rệt, đi từ không dấu đến có dấu, từ phức tạp (nhiều mẫu tự) đến đơn giản (bớt mẫu tự lại) trong sự phiên âm. Chúng ta cũng công nhận rằng các vị giáo sĩ người Bồ Ðào Nha đã đóng góp rất đắc lực trong công cuộc cải thiện chữ Quốc ngữ trong bước đầu của thời kỳ thành lập này. Trong số những người đóng góp quan trọng này, ta phải kể đến Alexandre de Rhodes, học trò của một vị giáo sĩ Bồ Ðào Nha, đã có công hệ thống hóa, điển chế hóa thứ chữ mới này trong các cuốn sách giá trị của ông. Ðiều đó khiến cho các nhà nghiên cứu Alexandre de Rhodes sau này, mỗi khi nói đến việc sáng chế và phát triển chữ Quốc ngữ, các vị ấy thường lấy Alexandre de Rhodes làm một cái mốc để đánh dấu một bước tiến vĩ đại mở đầu cho thời kỳ phát triển việc thành lập chữ quốc ngữ. Vì vậy không thể bỏ qua tiểu sử và thành tích lớn lao của vị giáo sĩ này, trước khi đi sâu vào nội dung của phần khảo luận.
Alexandre de Rhodes gốc người Pháp, sinh năm 1591, thuộc dòng Tên (Ordre des Jésuites). Năm 1624, ông được cử vào giáo đoàn Ðàng Trong (Nam Hà thuộc Chúa Nguyễn). Chỉ trong vòng 6 tháng, ông đã thông thạo tiếng Việt qua chữ quốc ngữ với vị Thầy là giáo sĩ Francisco de Pina gốc người Bồ và nói được tiếng Việt rất sỏỊ Nhờ đó, ông được cử ra Ðàng Ngoài (Bắc Hà thuộc Chúa Trịnh) để thành lập một giáo đoàn mớị Trong 3 năm lưu trú trên đất Bắc, ông đã truyền dụ được rất nhiều giáo đồ, nhưng sau đó bị Chúa Trịnh Tùng ra lệnh trục xuất qua Ma Cao. Trong thời gian ở Ma Cao, thỉnh thoảng ông vẫn đi đi lại lại nước ta nhiều lần cho đến năm 1645 ông mới rời hẳn VN để trở về Âu Châụ Ông đã viết cuốn "Sử Bắc Kỳ" bằng la tinh, cuốn sách giảng đạo "Phép Giảng Tám Ngày" bằng quốc ngữ, la tinh đối chiếu (song ngữ) và cuốn "Tự Ðiển" dịch tiếng Việt ra tiếng Bồ Ðào Nha và La tinh. 2 cuốn sách này được xem là sách quốc ngữ đầu tiên được in ở La Mã vào năm 1651 do Bộ Truyền giáo La Mã đúc chữ và ấn hành. 2 cuốn sách đầu tiên này là tài liệu xác thực nhất trong việc khai sinh ra chữ quốc ngữ. Trong cuốn tự điển, ngoài việc ấn định hình dạng và liệt kê các chữ, còn kèm theo một phần giảng qua về mẹo tiếng Việt, trong đó có đề cập đến các chữ cái, các âm thanh, dấu, giọng, các tự loại và đề ra các nguyên tắc về cú pháp... Do đó có thể nói đây là cuốn văn phạm đầu tiên của ta nữa.
Ngày nay, đọc lại các cuốn Tự Ðiển và sách Phép Giảng Tám Ngày của Alexandre de Rhodes, người ta nhận thấy chữ quốc ngữ có vài điểm khác biệt, nếu so thời đó với bây giờ:
1. Có nhiều phụ âm xưa và nay đọc khác:
b xưa, nay đọc ra v : bua (vua), bó ngựa (vó ngựa).
d xưa, nay đọc ra nh : dìn (nhìn), dè dẹ (nhè nhẹ).
2. Có nhiều phụ âm kép nay biến mất hoặc đổi khác:
bl nay chỉ còn là l : blúc blắc (lúc lắc).
ml nay chỉ còn là l : một mlát (một lát).
bl nay đổi là tr : con tlâu (con trâu).
3. Có những "khuôn vận" bây giờ đổi khác:
uân nay là uôn : muấn (muốn).
uâng nay là uông : luấng (luống).
ưâng nay là ương : tưầng (tường)
ũ nay là ung : cũ (cung)
4. Cách đánh dấu cũng đổi khác với khuôn vận như: Ũ nay là UNG. Khi muốn viết ÙNG người xưa chồng dấu huyền lên dấu ngã : ũ` = ùng; cũ` = cùng. Một khuôn vận có thể có 2 dấu thanh : ÓŨ nay là ỐNG : sóũ lâu (sống lâu).
Sở dĩ có một số khác biệt trong cách phiên âm giữa xưa và nay là vì công việc phiên âm của các nhà truyền giáo chưa được chính xác cho lắm, hoặc giả cách phát âm tiếng Việt hồi đó ở một số vùng khác với bây giỡ. Bằng chứng là người miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi phát âm khác với người miền Nam, miền Bắc. Ðừng nói chi đâu xa, ngay trong một tỉnh mà người miền biển phát âm còn khác với người miền núi huống chi người cách xa nhau hàng bao nhiêu tỉnh.
Người ta cũng nhận thấy rằng ngay trong sách Phép Giảng Tám Ngày của Alexandre de Rhodes phép chính tả cũng chưa được đồng nhất, có khi ngay trong một trang mà một chữ được viết làm nhiều cách khác nhau, như : giáng, giướng, giưấng; nguôn, nguên; buẩn, buản, bổn...
Sau Alexandre de Rhodes, chữ quốc ngữ hoàn chỉnh thêm một bước nữa về các tiếng phiên âm sai, cùng nhiều từ ngữ mới được thêm vào bởi công trình của giáo sĩ Pigneau de Behaine (Bá-Ða-Lộc, giám mục Ðàng Trong từ năm 1771, chết năm 1799). Ông đã nhuận sắc lại cuốn tự điển của Alexandre de Rhodes. Nhưng tiếc thay công trình to lớn này đã bị thiêu hủy vào năm 1778 trong một cuộc hỏa hoạn tại chủng viện Cà Mau. Tuy nhiên, nhờ có Taberd - người kế vị Pigneau de Behaine làm giám mục Ðàng Trong từ năm 1799 - pho tự điển đã bị hỏa tai trước đây được soạn sửa trở lại để rồi mấy chục năm sau cho đem in tại Serempor (Ấn Ðộ). Ðến năm 1838, giáo sĩ Taberd lại cho ra đời thêm 2 cuốn tự điển Annam - Latinh và Latinh - Annam nữa.
2 cuốn tự điển này tạo nên hình thức chữ Quốc ngữ mà chúng ta có ngày nay. 2 vị giáo sĩ có công lớn bổ khuyết một số từ ngữ thông dụng ở miền Bắc đó là Thereul và Leserteur, rồi cho tái bản lần đầu tiên tại Ninh Phú năm 1877 vừa đúng 14 năm sau khi Nam Kỳ bị rơi vào tay đô hộ của thực dân Pháp.
Kể từ thời gian này, chữ Quốc ngữ bắt đầu vươn lên để đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển nền học thuật ở nước ta. Chữ Quốc ngữ trở thành một phương tiện trong việc mở mang dân trí nước ta, có khả năng truyền bá sâu rộng những kiến thức phổ thông trong mọi tầng lớp dân chúng. 2 vị học giả đầu tiên ở nước ta đã có công sử dụng quốc ngữ cho nền quốc văn của ta có được khuôn mẫu mực thước và lan rộng khắp 6 tỉnh Nam Kỳ đó là Trương Vĩnh Ký (Pétrus Ký) và Huỳnh Tịnh Trai (Huỳnh Tịnh Của; Paulus Của).
Huỳnh Tịnh Trai (1834-1907) gốc người Bà Rịa, giỏi cả chữ Pháp lẫn chữ Hán. Ông đã soạn rất nhiều sách quốc ngữ và quan trọng hơn cả là cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895-1896) còn lưu hành đến bây giờ.
Trương Vĩnh Ký (1837-1898) thì tinh thông chữ Hán, chữ Pháp và nhiều thứ tiếng nước ngoài nữa. Ông là vị thông ngôn trong sứ bộ Phan Thanh Giản, từng làm giáo viên tại Trường Cai Trị (Collège des Stagiaires) và từng được Tổng Trú Sứ Bắc Trung Kỳ Paul Bert cử vào Huế giúp việc giao thiệp giữa Nam Triều và chính phủ Bảo hộ. Sau một thời gian, ông trở vào Nam chuyên việc trứ tác, dùng Quốc ngữ để dịch những sách chữ Nôm chữ Hán. Trong 35 năm trời, ông đã xuất bản không biết bao nhiêu tác phẩm, trong số đó quan trọng và công phu hơn hết là 2 quyển Pháp Việt Tự Ðiển và Việt Pháp Tự Ðiển. Ông là người tiên phong trong số học giả viết Quốc ngữ "trơn tuột như lời nói" và có công rất lớn trong việc xây dựng nền văn xuôi bằng tiếng nước ta. Chính nhờ những sách biên soạn bằng chữ quốc ngữ của ông mà nền văn hóa VN được phổ cập khắp nước.
Ở miền Bắc, 2 người có công lớn trong việc soạn sách quốc ngữ để dạy ở các trường học là ông Trần Văn Khanh và Trần Văn Thông. Chữ quốc ngữ ở miền Bắc vươn lên cùng với phong trào vận động duy tân do các sĩ phu yêu nước thực hiện, biến nó thành một thứ vũ khí sắc bén trong việc giác ngộ giới bình dân, mà chủ chốt là nhóm Ðông Kinh Nghĩa Thục. Nhóm này chủ trương :"Bỏ chữ Nôm, học chữ Quốc ngữ, mở các trường tân học, khuyến khích việc xuất dương du học, dịch thuật sách khoa học,..." đó cũng là những biện pháp duy tân được áp dụng vào khoảng 1907-1908 ở nước ta vậy.
Trong Ðăng Cổ Tùng Báo, số ra ngày 27/6/1907, đã có lời kêu gọi: "Các nhà trí thức hồi bấy giờ hiểu rằng muốn mở mang trí tuệ cho dân gian thì cái lợi khí chắc chắn và tiện lợi nhất là quốc văn và chữ quốc ngữ. Không thể cứ miệt mài mãi trong việc học chữ Hán như xưa kia được" (Vũ Bội Liêu).
Nhóm Ðông Kinh Nghĩa Thục dạy cả 3 thứ tiếng: Hán, Pháp và Việt nhưng phổ thông thì chuyên trọng về quốc văn (national literature) hơn cầ Các nhà chí sĩ ấy luôn luôn gắng sức biên soạn sách học không những cho học sinh dùng trong trường mà còn đem phổ biến phát không cho mọi người cùng đọc. Những bài ca ái quốc có tính cách tuyên truyền hồi ấy như bài Khuyên Thanh Niên, Á Tế Á, Chiêu Hồn Nước... không ai là không thuộc nằm lòng.
Mặc dù sau đó Phong trào Ðông Kinh Nghĩa Thục bị tan rã do sự khủng bố, đàn áp của thực dân Pháp nhưng chữ Quốc ngữ và nền Quốc văn của ta không ngừng phát triển. Các bộ môn biên khảo, tiểu thuyết, thi ca đồng loạt xuất hiện trên báo chí cũng như trên các sách được phát hành. Tờ báo đầu tiên là tờ Gia Ðịnh Báo viết bằng chữ quốc ngữ chào đời vào năm 1865 ở Nam Kỳ do chính phủ Bảo hộ xuất bản. Ngoài Bắc, tờ báo viết bằng quốc ngữ là tờ Nông Cổ Mín Ðàm (1900), Nhật Báo Tỉnh (1905), Ðại Việt Tân Báo (1907 - nửa Quốc ngữ, nửa chữ Hán), Ðăng Cổ Tùng Báo (1907) do các tư nhân thực hiện để thông tin và báo cáo các chỉ thị của chính phủ cho dân chúng được rõ.
Theo đà phát triển đó, các báo lần lượt đua nhau ra đời ở khắp cả 3 miền Bắc Trung Nam : Lục Tỉnh Tân Văn (Saigon, 1910), Trung Bắc Tân Văn (Hà Nội, 1915), Thực Nghiệp Dân Báo (Hà Nội, 1920), Khai Hóa (Hà Nội, 1921), Trung Lập (Saigon, 1923), Ðông Pháp (Hà Nội, 1925, Tiếng Dân (Huế, 1927), Hà Thành Ngọ Báo (Hà Nội, 1927), Thần Chung (Saigon, 1929), Phổ Thông Nhật Báo (Hà Nội, 1930), Ðiện Tín (Saigon, 1935),...
Những tờ báo vừa kể trên ngoài mục đích thông tin còn có các mục: xã thuyết, tiểu thuyết, thi ca, truyện ngắn, diễn đàn tự do để giải bày những quan niệm, chính kiến của dân chúng trong nước và thỉnh thoảng cũng có xảy ra vài cuộc bút chiến lẻ tẻ giữa các đồng nghiệp với nhau. Ngoài ra, việc phát triển chữ quốc ngữ cũng như quốc văn, ta còn phải kể đến các tạp chí đã đóng góp rất nhiều như: Ðông Dương Tạp Chí (1913), Nam Phong Tạp Chí (1917), Học Báo (1919), Hữu Thanh (1921), An Nam Tạp Chí (1926), Phụ Nữ Tân Văn (1929), Khoa Học Tạp Chí (1931), Văn Học Tạp Chí (1932), Khoa Học Phổ Thông (1934), Chớp Bóng (1932), Bảo An Y Báo (1934), ...
Trong số các tạp chí kể trên, 2 tạp chí đóng góp quan trọng nhất là Ðông Dương Tạp Chí, nhưng trội hơn hẳn phải nói là Nam Phong Tạp Chí do Phạm Quỳnh chủ bút. Ảnh hưởng tạp chí Nam Phong hồi đó rất lớn đối với quần chúng trong nước. Với một nội dung vô cùng phong phú, Nam Phong Tạp Chí đã hướng dẫn quần chúng mở mang kiến thức học thuật cổ, kim, Ðông, Tây với tính cách giản dị hóa và phổ thông hóa, khiến cho ai đọc Nam Phong cũng có thể lãnh hội được.
Việc phát triển quốc văn cũng như truyền bá chữ quốc ngữ không dừng ở đó mà cứ tiến mãi theo đà tiến hóa của dân tộc tạ Vào năm 1926, ở Hà Nội, có ông Nguyễn Khương Trực cùng một số người nhiệt tâm tổ chức học chữ quốc ngữ tại Trường Hàng Vôi miễn phí cho anh chị em lao động. Năm 1936-1937, khi Mặt Trận Bình Dân ở Pháp lên nắm chính quyền, ông Phan Thanh cùng một số bạn hữu đồng chí hướng đứng dậy cổ động hô hào thành lập Hội Truyền Bá Quốc Ngữ. Sau đó, thời cuộc dần dần biến chuyển, dân chúng cũng dần dần đón nhận chữ quốc ngữ và hãnh diện về nó như gia tài riêng của nền văn hóa mình. Từ đó, chữ quốc ngữ là phương tiện chung của dân chúng khắp trong nước. Chữ Hán và chữ Nôm chỉ còn là hình bóng mờ nhạt, dần dần lui vào quá khứ, nhường chỗ cho chữ quốc ngữ vươn mình đi tới, mở ra một tương lai đầy hứa hẹn cho nền quốc văn như chúng ta đã thấy ngày nay.
Ðể kết luận về chữ quốc ngữ, ta nhận thấy trong gần 3 thế kỷ dò dẩm đi từ phôi thai tới hình thức như ngày nay, thứ văn tự mới ấy đã có khả năng làm bật rể chữ Hán và chữ Nôm, đẩy chúng lui vào quá khứ và biến chúng thành thứ "cổ tự". Chữ Quốc ngữ đã xứng đáng là một phương tiện lợi hại trong việc phổ biến những giá trị đạo đức, khoa học, kiến thức, tình cảm... đủ sức nâng trình độ dân chúng trong nước ta mỗi ngày một lên cao. Sở dĩ chữ quốc ngữ mau lẹ đi vào quảng đại quần chúng như thế là nhờ những ưu điểm nổi bật: Học mau, viết dễ, giản dị, dễ nh Bên cạnh đó, có thêm được cái may mắn là cùng lúc chữ Quốc ngữ phát triển, nền văn minh phương Tây cũng vừa du nhập vào nước ta: ở đây chúng tôi muốn đề cập đến phương diện ấn loát và truyền bá do đó mà báo chí, sách vở,... đua nhau ra đời tạo cho Quốc ngữ có nơi chốn sinh sôi nẩy nở, phát triển dễ dàng và thuận lợi. Không ai trong chúng ta không đồng ý rằng chữ Quốc ngữ ngày nay là không có khuyết điểm. Một số học giả trong mấy chục năm qua đã lên tiếng đòi sửa đổi, thêm bớt để chữ Quốc ngữ mỗi ngày thêm giản dị hơn, như bỏ chữ PH thay bằng chữ F, bỏ GI thay bằng J, bỏ U trong QU...hoặc về sự phân biệt không cần thiết giữa C và Q, giữa I và Y. Có vài vị đề nghị bỏ hẳn các dấu mà nên thay vào một mẫu tự ở nơi tận cùng của một chữ.
Một điều nữa mà ai cũng nhận thấy là chữ Quốc ngữ chỉ ghi lại bằng các mẫu tự a, b, c... do đó các chữ đồng âm dị nghĩa khó phân biệt được. Nếu phát âm đúng thì còn có thể viết chính tả được nếu phát âm sai thì đành chịu, hoặc 2 chữ có cách viết giống hệt nhau nhưng nghĩa khác nhau, người ta phải tùy theo ý của cả câu mà đoán ra nghĩa. Ðiều này khác với chữ Hán hay chữ Nôm, vì chữ Hán hay chữ Nôm được cấu tạo bằng các phương pháp tượng thanh, hay tượng hình dựa vào các bộ nên dễ đoán nghĩạ Ví dụ chữ Quốc ngữ : đá = có 2 nghĩa: chỉ hòn đá mà cũng có nghĩa chỉ động tác dùng chân để đá, trong khi đó chữ Nôm viết khác nhau : chữ đá là hòn đá có bộ thạch, còn chữ đá kia thì có bộ túc.
Tuy nhiên một số đề nghị nêu trên vẫn được người ta ghi nhận nhưng chưa có điều kiện, hoàn cảnh để áp dụng, do đó, chữ Quốc ngữ ngày nay vẫn mang hình thái như xưa. Người ta chỉ dùng chữ Quốc ngữ để cải thiện cách hành văn, cú pháp...nói chung là làm cho nền quốc văn ngày càng thêm phong phú.
Trần Thiện Đạt
Giới Thiệu Sách Mới
EN TRAVERSANT LE FLEUVE, tuyển tập truyện ngắn do Phan Huy Ðường dịch ra Pháp ngữ & giới thiệu, bìa tranh sơn mài của Oân Bình(?). Nhà xuất bản Philippe Picquier. Giá 120F. Liên lạc: Éditions Philippe Picquier, Arles, France.
Gồm 11 truyện ngắn của các tác giả trong nước & hải ngoại: Nguyễn Quang Lập, Trần Thùy Mai, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Mai Nguyễn, Trần Vũ, Ðỗ Kh., Khánh Trường, Ngọc Khôi, Cung Tích Biền.
Phan Huy Ðường (tức Trần Ðạo, Ðơn Hành) hẳn không xa lạ với độc giả Hợp Lưu (Mỹ), Diễn Ðàn (Paris, Pháp). Ngoài lãnh vực chuyện môn: lý luận, phê bình, ông còn sáng tác truyện và là một dịch giả rất uy tín qua những tác phẩm tiếng Việt được chuyển sang Pháp ngữ, Anh ng Nhiều tác phẩm của các nhà văn trong nước như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh... đã được ông dịch và giới thiệu với độc giả năm châu. Tập truyện En Traversant Le Pleuve vừa phát hành là một trong vài tập truyện do ông tuyển dịch cho nhà xuất bản Philippe Picquier. Các dịch phẩm này rất được độc giả thông thạo Pháp ngữ trên toàn cầu ưa chuộng, lưu ý.
Dịch giả Phan Huy Ðường cho biết, trong thời gian tới, ông sẽ tiếp tục công việc đang làm, nghĩa là tiếp tục tuyển chọn, dịch và giới thiệu những áng văn chương tiêu biểu của văn học Việt Nam cùng độc giả thế giới.
KHÔNG BIÊN GIỚI, Hồi ký của Thanh Sung. Bìa Khánh Trường. Thanh Văn xuất bản. Giá 15MK. Liên lạc: Văn Nghệ, Westminster, CA 92683. USA.
Tác phẩm kể lại cuộc tình đầy gian truân, tràn ngập biến cố của một phụ nữ Việt Nam lấy chồng ngoại quốc. Qua tác phẩm, người đọc hiểu ra một điều: lấy chồng Mỹ cũng có nhiều động cơ. Với Thanh Sung, động cơ chính là tình yêu, một thứ tình yêu vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của chủng tộc, một thứ tình yêu "không biên giới". Và bà đã chứng minh điều đó, qua hơn ba trăm trang sách.
KHƠI MẠCH NGUỒN THƠ - THI SĨ SEAMUR HEANEY, GIẢI NOBEL VĂN CHƯƠNG 1995, của Phạm Công Thiện. Viện Triết Lý Việt Nam Và Triết Học Thế Giới xuất bản. Giá 8MK.
Phạm Công Thiện cho rằng Seamus Heaney là một trong số hai nhà thơ lạ thường và vĩ đại nhất của Ái Nhĩ Lan. Người Kia là William Butles Yeats. cả hai, giống như hai dòng sông giao hẹn nhau cùng nhập lưu tuôn chảy ra đại dương thi ca nhân loại.
Giống như tất cả các tác phẩm khác của Phạm Công Thiện, cuốn "Khơi Mạch Nguồn Thơ..." vẫn được viết bằng một văn phong rất mạnh, đầy đam mê và thi tính.
Nguyễn Thị Giáng Châu
Trích HỢP LƯU số 28 , 4&5/96
Ngày Xưa, Ngày Xưa...
Ngày xưa, hồi còn nhỏ khoảng lên năm, tôi nhớ ông tôi thường dắt tôi đi dạo bộ trên bờ đê, những buổi chiều trời trong và gió mềm như lụa. Chúng tôi sống trong một thôn nhỏ có những rặng tre rì rào, cánh đồng lúa thơm có tiếng chim rơi rớt ngoài mặt sông, vài cánh vạc bay vút vào khe núi mất hút. Tiếng ông tôi kể chuyện giọng hiền hòa, trầm ấm. Ông tôi đẹp quắc thước, trán hói cao, mái tóc bạc trắng. Ông nói về những chuyện thần tiên, về những con người lương thiện sống thuận hòa yêu thương nhau, che chở bảo bọc nhau trong một thế giới đại đồng (tôi chẳng hiểu thế giới đại đồng là thế giới gì, lúc đó không hiểu bây giờ cũng chẳng hiểu). Ông nắm chặt bàn tay nhỏ xíu của tôi, dắt đi dọc trên bờ sông.
Chúng tôi đi đến một chiếc cầu vắt qua giòng nước đục lờ, nước đặc sệt giống bùn không soi nổi sắc xanh của màn trời phía trên. Ông tôi chỉ cho tôi xem những đám bèo xám ngắt, có xác một con chim nổi lềnh bềnh lấp trong đám lá, bảo tôi kìa quà của trời. Có người vừa bắn chim nhưng không tìm thấy xác. Ông tôi thương lũ chim nhưng lại nghĩ đến một bữa thịt chim băm nhỏ với tiêu hành rau răm và thì là. Người thợ săn sẽ không bao giờ tìm thấy xác chim rơi nơi nào. Tôi không rõ cảm xúc của mình nhìn xác chim rơi từ trên trời rơi xuống, lúc đó và ngay cả bây giờ, nhưng nhìn vẻ mặt hân hoan của ông, tôi biết ông tôi rất mừng. Chim hiền lành vẫn có trong các câu chuyện ông kể, và chim cũng ngon lành trong bữa chả chim ông tôi diễn tả. Ðầu óc non nớt của tôi chỉ có thể hiểu rằng, những gì hiền lành đáng thương cũng có thể ngon lành bổ béo khi thèm khát. Thế giới đại đồng của ông tôi nhiều cái phản nghịch, mà ngày nay người ta có từ gọi là mâu thuẫn (tiếng này ngày xưa tôi chưa biết tới). Một bữa ăn có thịt chim lấy được của người thợ săn, khiến ông tôi sảng khoái thích thú, ông tôi lại kể nhiều chuyện về những con người và đời sống hiền lành, thương yêu đùm bọc nhau. Thế giới đại đồng là một thế giới tuyệt vời. Tôi bao giờ cũng thích nghe ông kể chuyện.
Người thợ săn không tìm thấy xác chim, đến nhà gây chuyện (có lẽ người này ngửi thấy mùi thơm từ bữa chả thịt chim). Ông tôi quát tháo to, mặt đỏ như gấc chín. Người thợ săn cũng giận dữ không kém. Họ gây chuyện lớn, dùng những tiếng tôi chưa nghe bao giờ. Rồi ông tôi cầm cây ba-toong quật túi bụi lên người thợ săn vu khống (tiếng này tôi còn nhớ). Người đàn ông ôm đầu tướm máu chạy về, thề sẽ trả thù chuyện xác chim. Những hôm sau ông tôi trầm ngâm ít kể chuyện hơn, và tôi lợm giọng mỗi khi nhớ đến mùi chả chim. Ngày qua ngày, mùi chả chim ám ảnh, và thế giới đại đồng của ông tôi mờ nhạt trong những chuyện kể. Lờ mờ tôi hiểu rằng thế giới đại đồng có những điều không đồng nhất, cả con người cũng vậy. Tôi rất thương ông tôi, tôi vẫn nhớ đến ông thường.
Chỉ có điều, tôi không bao giờ có người ông nào trong đời. Ông tôi mất ngoài miền Bắc, trước khi tôi được chào đời.
Phạm Chi Lan
Mar 96
Cái Võng
Duyệt nằm ngửa trên chiếc võng điều, đạp chân vào vách tường cho võng đong đưa rồi mỉm cười vu vơ. Bạn hắn mới gửi cho chiếc võng từ hai ngày trước. Viễn vẫn vậy. Lúc nào cũng kỳ kỳ, lúc nào cũng gàn gàn, bí ẩn. Viễn vượt biên Duyệt chẳng hề hay biết. Viễn ở đảo nào, làm gì, Duyệt cũng không biết. Rồi tự dưng hai ngày trước có chiếc võng điều vỏn vẹn tên Viễn. Chẳng có địa chỉ gì ngoài cái tên Viễn.
Một ngày, hai ngày, một tuần, hai tuần rồi hai năm... vẫn chẳng thư từ gì liên lạc thêm. Mới đầu Duyệt còn hy vọng. Hắn thử thách với thời gian, hắn ghiền gẫm với mong đợi. Hắn đoán đến cả trăm ngàn chuyện Viễn có thể làm với chiếc võng nhưng vô vọng. Viễn vẫn biệt tăm và chiếc võng vẫn giăng từ góc phòng bên này chéo tới góc phòng bên kia.
Duyệt đã bắt đầu chấp nhận. Có mẹ gì! Nó không muốn liên lạc thì thôi. Ðời khối gì chuyện vô lý. Chắc nó cũng đang ở một góc nào đó, thối thây, thối xác không biết làm gì? Muốn liên lạc với mình nhưng chẳng biết nói gì nên gởi chiếc võng gọi là nhớ mình vậy thôi. Nhưng Duyệt vẫn chắc mình sai. Ít nhất hắn tin là vậy. Thằng Viễn! Ai biết nó nghĩ gì. Suy nghĩ về Viễn đã từ từ biến dạng. Thôi thúc, hy vọng, mong chờ đã mất hết sự cuồng nhiệt ban đầu. Duyệt đã quên hẳn hoặc ít ra là bắt đầu quên hẳn. Hình ảnh Viễn chỉ thỉnh thoảng lóe lên trong những giấc mông mị chập chờn. Ban ngày Duyệt chỉ lo đi làm, ăn uống, trả tiền nhà cửa. Viễn đã đi vào quên lãng sau những ngày đầu tắt mặt tối. Sau những tuồng soap opera ở Tivi hàng tuần. Sau những liều thuốc an thần đăng đắng khi cần...
Duyệt bắt đầu mùa nghỉ bằng một giấc ngủ gần hai mươi bốn tiếng và thức dậy khi trời vừa chớm sáng. Hắn vẹo người, bắp thịt dãn ra, xương lưng kêu răng rắc. Có cái gì kéo Duyệt trằn về tư thế cũ. Hắn giật mình vùng mạnh, rồi chợt nhớ ra mình đang nằm võng nên để yên cho chiếc võng co về chiều hướng tự nhiên. Có mùi cà phê nồng nồng. Duyệt nhớ lại bình cà phê đầy ắp pha trước khi ngủ rồi với tay nhặt cái tách đổ xiên dưới sàn.
Tiếng tong tóc của cà phê khi chạm đáy tách làm Duyệt vui vui. Mãi rót, tách cà phê đầy rồi mà Duyệt không biết. Hắn rót vung cả ra nhấ Lúc nghiêng người để bình cà phê vào chỗ cũ chiếc võng chao đi. Duyệt vung mạnh "Bốp", chiếc tách cà phê vỡ vụn. Hắn thét to "Shit!" rồi xuýt xoa vì nóng. Chửi xong hắn lại thấy buồn cười. Ở đây cái gì cũng do thói quen. Ăn sáng thì phải từ 7 giờ đến 7 giờ 30, ăn trưa thì phải từ 12 giờ đến 1 gi Cà phê chỉ nên uống 3 lần một ngày và cũng không nên bỏ đường. Ăn khoai tây chiên thì phải có ketch-up. Mà chẳng ai gọi là khoai tây chiên nữa. "French fries!" Vừa nhanh, vừa tiện, vừa dễ gọi lại ai cũng hiểu. Cả đến chửi thề bây giờ cũng không càn chửi bằng tiếng tiếng mẹ đề "Shit!" nghe nó vừa ngắn lại vừa bộc lộ được sự tức giận nhất thời. "Tổ cha nó", dài quá mà lại không hợp thời.
Ở cái thời điện toán hóa vạn vật này nguời ta cần nhanh, gọn, tiện. "Maximize profits out of a given set of constraints!" Ðời người thì ngắn quá mà cơ hội hưởng thụ thì nhiều. Phải rút tỉa, phải tranh đua, phải tìm cho ra cách sống hữu hiệu nhất, phải sống sao cho có một cuộc sống bằng mười, bằng trăm, bằng nghìn hoặc bằng triệu cuộc sống khác. Phải vừa đi xe vừa nghe tin tức mà khi đến mục quảng cáo thì chỉ nghe nửa vời để biết món đồ mới, hoặc khỏi nghe nếu biết rồi, để còn vặn sang đài khác nghe nhạc. Phải biết hết, phải nghe hết. Tay phải điều chỉnh, tai phải lăng nghe, mắt phải trông ngóng, đầu óc phải vừa thâu, gạn, lọc vừa tính toán. Có thế mới là sống, có thế mới đáng sống! Lơ đễnh là tội nặng nhất. Còn mơ mộng ư? Tội trọng! Qui tắc sống chỉ vỏn vẹn: "Ngắn, tiện, thói quen". Ngắn, tiện? Ừ cũng được đi vì đời sống vốn giản dị. Nhưng còn thói quen? Ừ, tại sao thói quen? Vì nó cho người ta sống theo mọi người khác, khỏi cần suy nghĩ và như thế sẽ sản xuất ra hai yếu tố kia: "Sống gọn và sống đủ". Nhưng còn Descartes? "I think there for I am?" Hão, chỉ nên hỏi những câu đó ngay trong giờ triết học, ngay trong lớp. Ra khỏi lớp là hết giờ. Ra khỏi lớp là có nhiều chuyện khác quan trọng hơn. Nhưng còn Lý Bạch? "Bỉnh chúc duy tu ẩm. Ðầu can giã vị trị" Hão, giờ này mà buông câu, uống rượu! Trừ phi là điên hoặc gàn. Nhưng còn Nguyễn Bỉnh Kiêm? "Ta dại ta tìm nơi vắng vê" Không nhưng nhị gì cả, chỉ có hai đường: Sống hoặc nghĩ! Chọn đi!
Duyệt đã chọn. Hắn chọn sống. Ðúng ra hắn chưa chọn gì cả. Người ta đã chọn hộ hắn. Hắn đã ăn, đã uống, vậy hắn phải làm. Người ta đã cho hắn mượn tiền để đi học, giờ hắn phải trả. Chuyện chỉ giản dị có thế. Hắn cần ăn, cần uống, và người ta cần làm! Phương trình đời sống là do thói quen. Có ăn, có sống thì phải có làm. Ðời hắn là một cái vòng tuần hoàn luẩn quẩn. Hết ăn, làm lại đến làm rồi ăn. Vì ai cũng làm thế nên hắn cũng làm thế. Vì ai cũng làm thế nên đó phải là chân lý hiển nhiên.
Duyệt từ bỏ mộng mơ từ ngày con nước rẽ hai đưa hắn rời đảo tạm cư đến Mỹ. Học, học!... Hắn cần học. Biết, Biết... Biết. Hắn cần biết. Ðể thấu hiểu chuyện hàng ngày, để thích hợp với đời sống mới. Học xong thì hắn cần làm, làm,... làm! Quên hết đi để mà làm vì phải trả nợ. Rồi đôi khi rảnh rỗi hắn phải nghĩ là mình hạnh phúc vì hắn không được quyền nghĩ khác. Hắn là một phần nhỏ của bộ máy lớn và hắn đang được dùng. Hắn không bị lãng phí. Nhưng còn thời giờ cho riêng hắn? Thời giờ cho riêng? Không có thứ thời giờ cho riêng đó! Thứ thời giờ riêng cho hắn đã quên từ lâu.
Trước kia Duyệt cũng có vẽ vời vào những lúc rảnh rỗi. Hắn vẽ mãi cho đến những năm vào đại học và rồi bận quá nên bỏ luôn. Trong những bức tranh cũ hắn cũng chẳng sáng tác gì nhiều. Cũng vẫn chỉ là những khung cảnh, những ý nghĩ có sẵn từ trước, nhìn hoài một nét chán òm. Vả lại, sáng tác thì phải cần thời giờ riêng tư và tìm đâu ra thứ riêng tư kỳ quặc đó. Mùa nghỉ này là tích lũy của cả hai năm vacation. Hắn cần quét lại tường vì tường đã ố nhiều chỗ. Hắn cần thay thảm vì nhà dơ quá và cả trăn thứ đặc quánh đã dính vào thảm. Cái tủ lạnh cũng đang ù ù. Cái catsette cũng cần lau dầu...
Trời đã về chiều mà Duyệt vẫn nằm lặng trên chiếc võng. Mọi việc có thể đợi! Nhà không quét bây giờ sẽ được quét vào lúc khác. Tường có ố cũng chẳng chết chóc gì ai. Tủ lạnh đã ù ù từ bao lâu rồi và cái cassette dù không lau dầu cũng vẫn còn chạy được. Hắn ra tủ lạnh lấy xách bia uống liền hai chai rồi lại vật ra đạp võng đu đưa. Hắn sẽ làm sống lại thứ thời giờ riêng tư kia bằng cách vể Phải rồi! Chỉ có vể Mình cần một thứ gì đó diễn tả được mình. Một thứ gì đó làm mình khác với những hình tượng đi bằng thói quen, thở ra thói quen kia! Mình cần vẽ.
Duyệt kê lại cái bàn. Hắn ngẫm nghĩ mãi mà chẳng biết vẽ gì. Vẽ cây cối? Tại sao phải vẽ cây? Cây lúc nào cũng đơ ra hay ho chó gị Vẽ người? Người nào chẳng giống nhau? Vẽ người chẳng có gì là đặc thù cả. Mà diễn tả cái gì ở người? Hay vẽ cái máy sưởi? Nhưng hắn vội gạt phăng đi. Máy sưởi? Không có nó thì lạnh thật nhưng ai lại vẽ cái máy sưởi bao giợ Hắn suy nghĩ đến đờ đẫn rồi đầu óc lại tự trở về với cái nhà cần được thay thảm, cái máy cần được lau dầu. Ðã mấy lần hắn cố gạt bỏ mấy chi tiết lủng củng xung quanh nhưng đâu lại vào đấy. Biết đâu vì không khí trong nhà ứ đọng quá làm cho đầu óc mất nghệ thuật?
Duyệt mở cửa ra giữa trời tuyết giá. Gió tạt lạnh cắt làm hắn tỉnh người. Kéo cao cổ áo, quàng lại khăn choàng cổ, Duyệt thong thả dạo quanh khu chung cư. Cây cối trơ trụi, đen đủi. Gió thổi tuyết bay ào ạt mịt mù. Tuyết dưới chân Duyệt dày đến nửa thước. Hắn chỉ đi được chừng hết phiá trước rồi phải quay lại vì lạnh quá, vả lại trời cũng nhập nhằng chẳng thể thấy gì ngoài một màu lù mù ảm đạm. Lúc về Duyệt tiện tay mở hộp thư. Hắn cầm lá thư liếc về mé trái "Viễn!" Duyệt như nhảy tung lên. "Ha, ha... cuối cùng cũng lại mày. Phen này ông spend vacation đi thăm mày con ạ! Ðúng lúc! Mày gửi thư có chọn ngày đấy thằng ôn vật!..." Hắn tính xem ngay nhưng ráng nén nỗi vui mừng bước lên nhà.
Mở cửa nhìn thấy đôi mắt mình trong tấm gương đối diện hắn nghĩ ra luôn được đề tài vẽ. Ðôi mắt! Phải rồi cửa sổ của linh hồn mà lị!!! Gớm, sao mà dốt thế. Chỉ đôi mắt thôi cũng đủ để vẽ cả đời không xuể. Hắn quyết định táo bạo hơn. "Phải vẽ xong đôi mắt rồi mới được xem thư Viễn". Ðịa chỉ của Viễn phải đến như một phần thưởng cho đề tài của hắn! Duyệt loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu. Mí mắt? Lông mi? Khoé? Hắn nhủ thầm "Hay tại mình quá lo về địa chỉ của Viễn mà không vẽ được?" Hắn bồn chồn chốc vẽ, chốc lại vân vê bìa thư. Hắn uống bia liền miệng, vỏ vứt tùm lum dưới chân. Cuối cùng chịu không nổi hắn xé toạc bao thư.
"Sao chiếc võng điều êm chứ em trai? Mấy năm trước đây tao tấn công vào trại Kampuchea trộm được chiếc võng điều. Nghĩ mãi không biết làm gì. Bà già thì chết rồi. Bạn bè thì đéo có. Tự nhiên nghĩ đến mày đã qua Mỹ sung sướng hoàn toàn rồi nên tao gởi ké chiếc võng qua đường người quen chúc mừng mày cho trọn vui. Tao không đề địa chỉ vì đi bộ đội nay đây mai đó mày có viết thư cũng mất..." Ðọc đến đây hắn không nhịn nổi vội lật sang trang cuối cùng tìm địa chỉ Viễn. Vừa lật hắn vừa chửi "Tiên sư mày thằng ôn vật. Ðồ khốn nạn! Ðồ khốn nạn! Mày làm thế mà thánh không vật chết cha mày đi!" Run tay quá hắn làm rách cả thư. Lúc Duyệt lật đến trang cuối cùng mắt hắn lớn ra: "... Tao vẫn khoẻ, sẽ viết thư cho mày nếu rảnh. Tao vẫn ở Việt Nam. Ðời bộ đội chẳng kể là khổ vì tao lúc nào cũng có thể cười được. Ðịa chỉ không cần vì tao nay đây, mai đó..."
Duyệt ngồi lặng trên bàn vẽ. Hắn đã uống hết cả bia. Trên mảnh giấy vẽ chỉ có hai vòng tròn khô khốc, rời rạc.
Phan Lê Dũng