vhnt, số 157
6 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Nước sông Thương .....................................Hoàng Cầm
2 - Vô danh ..............................................Trần Thái Vân
3 - Vết thương xưa buồn vẫn hôm nay .............Phạm Ngọc Dũng
4 - Những lá thư không gửi ............................Phan Lê Dũng
5 - Rong rêu ......................................................Cỏ Nhớ
D i ễn Ð à n V ă n H ọc :
6 - Tôi mê truyện Kiều ....................................Hoài Chân
7 - Phỏng vấn nhà thơ Ý Nhi: Paris không xa lạ ......Ngô T Kim Cúc
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Ðường Tăng ...................................Trương Quốc Dũng
9 - Chuyện của người khảo cổ ...............................Vũ Quý
"con người ... ôi sao khó quá! (thở dài)"
Tây phương có câu cách ngôn: "không phải thiên thần không phải thú vật" để nói về con người. Không phải chờ đến triết học hiện đại, khoa học nhân văn, hay văn chương cao siêu thời nay người ta mới tìm hiểu về hai mặt thiện ác của con người. Thì con người vẫn là sinh vật đầy mâu thuẫn và bất toàn, mà ngay cả trong văn chương cũng không thể dong thứ hay che dấu bản chất. Một nhân vật có thể chẳng tốt đẹp chi ngoài đời, nhưng dưới con mắt "bao dung", "thương xót", "thông cảm" của nhà văn, dưới góc độ phân tích tâm lý, hay dẫn dắt tâm lý tình cảm người đọc, nhân vật có vẻ gần gũi, không đến nỗi nào trong câu chuyện. Hoặc có thể nhân vật chính của ta (protagonist) luôn luôn là những anh hùng, những người bao giờ cũng kêu gọi sự đồng minh của người đọc bằng những lời lẽ tâm sự có vẻ như nói với chính mình nhưng thật ra đang trình bày rủ rê dẫn dắt người đọc về phe của mình một cách khéo léo tài tình, như đang trổ tài thuyết phục lập trường suy tư của mình trước số đông khán giả khiếm diện. Bằng cách dùng ngôi thứ nhất (xưng tôi), hay ngôi thứ ba (chàng, nàng, nó, hắn...) cũng không ngoài mục đích kéo người đọc đồng cảm với tâm trạng, tâm lý, suy nghĩ của nhân vật chính, là người được người viết ưu tiên dành cho chỗ đứng quan trọng nhất trong bố cục câu chuyện.
Hư cấu hay không hư cấu, không thể tránh khỏi nhân vật chính của ta phần nào dành được "cảm tình" của người đọc. Nhà văn họ rất khôn khéo, họ đưa người đọc vào cái mê hồn trận kéo dài từ năm mười phút cho tới vài ba ngày, vài ba năm (hay ám ảnh mãi mãi) bởi ngòi bút của họ. Ðọc xong, có khi ta ngậm ngùi, có khi ta cười xòa, có khi ta bực tức, có khi ta bâng khuâng, có khi ta nhói trong lòng, loay hoay với cái ấn tượng để lại. Mớ tâm trạng ngổn ngang của người-viết và nhân-vật có ảnh hưởng lâu dài tới người đọc, thì nhà văn phần nào đã thành công với nhiệm vụ ngòi bút của mình. Cũng có khi nhà văn tự tạo cho mình một thiên chức có trách nhiệm cảm hóa người đọc, một thiên chức nặng như là đưa ra một con đường làm lý tưởng cho đời sống. Cũng có những nhà văn vô tư vô tình viết chỉ để viết, ai thấy hợp thì khen hay, còn không thì bị bỏ quên... Nhưng có thật nhà văn vô tư vô tình không muốn có "đồng minh" trong lúc đọc tác phẩm của mình không? Cụ Nguyễn Du viết nguyên một thiên truyện Kiều dài vậy mà cụ ý nhị dí dỏm khiêm nhường nói: "mua vui cũng được một vài trống canh", thì đúng là một câu khôi hài có chất lượng. Trống canh của Truyện Kiều đã kéo dài thâu đêm, qua đến ngày, cho đến trăm năm sau vẫn còn có người được cụ mua vui. Một câu nói dí dỏm rất dễ thương!
Chỉ nguyên đề tài tìm hiểu con người mà đã khiến con người vất vả tìm hiểu qua bao nhiêu thời đại, qua bao nhiêu triết lý và những nền văn hóa. Chỉ ở trong hai mặt thiện-ác, thiên thần và thú vật mà khoa học hay văn học cũng chưa tìm hiểu hết nổi, thì hòng chi ta hiểu nổi đất trời và những vì sao?
Con người, ôi sao khó quá ... (thở dài)!
oOo
Chúc một ngày đơn giản và yên vui :)
thân ái,
PCL/vhnt
Giới Thiệu Thơ Hoàng Cầm:
Nước Sông Thương
Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương
Mắt tròn cối xay
Chẳng bao giờ ngủ trước sao mai
Ngày Chị bảo Em quên
Tranh tố nữ long hồ gián nhấm
mất chân đi
má đội tổ tò vò
Cuốn chiếu xa rồi
thơ thẩn vách chiêm bao
Ngày Chị bảo Em quên
Con bạc má lại về cành chanh
thương Em hay giận Em chả biết
Ngày Chị bảo Em quên
Tắm sông Thương không mát
Lên ngọn Kỳ Cùng vục nước rửa chân
không mát
Về đuôi mắt xưa nước suối Cam Lồ
không mát
Ngày Chị bảo Em quên
Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ
Tha cho Em
Tha Em
"Sông Thương nước chảy đôi dòng ..."
Hoàng Cầm
Vô Danh
Ðề tặng hương hồn anh Trần Văn Thương
và những người trong một thời ly loạn
Anh đi từ độ đông năm ấy
Túi nặng, thân gầy, áo bạc vai
Cha đứng nhìn theo đưa tay vẫy
Quan san tiễn biệt vạn dặm dài
Không trống ngũ liên, không lời hịch
Chẳng bờ sông Dịch, chẳng Yên Ðan
Kẻ ở, người đi lòng u tịch
Lời nói chưa xong lệ tuôn tràn
Anh đã hai lần xa gia quyến
Xuân thì chưa quá tuổi đôi mươi
Mộ mẹ bên kia bờ vĩ tuyến
Khói hương lạnh lẽo vắng chân đồi
Cha khóc âm thầm, tim tê tái
Nửa đêm vọng mắt ngóng chờ con
Bụi chuối bên nhà đau kết trái
Cha đau trong chờ đợi mỏi mòn
Anh đi vạn nẻo đường non nước
Núi rừng đất đỏ bụi mờ bay
Cha ở hậu phương mong với ước
Anh trở về đây có một ngày
Mười mấy mùa xuân mai thắm nở
Nhạn vẫn chưa về, én biệt tăm
Chiến trận mỗi ngày thêm rộng mở
Ðoàn viên ảo mộng quá xa xăm
Cha chờ cho đến ngày cỡi hạc
Suối vàng, thác bạc rụng thời gian
Một mảnh trăng xưa buồn đến nhạt
Mắt lão còn đâu ngóng mây ngàn ?
Anh chết vô danh không bia mộ
Không anh hùng, đại nghĩa xa xôi
Anh chết: một người trai vô tội,
"Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi"?
Trần Thái Vân
Vết Thương Xưa Buồn Vẫn Hôm Nay
Tình yêu mọc răng để cắn lưỡi
Ta ban phép lành cho em
(thơ Trần Nghi Hoàng)
Tình một thoáng đã thành huyền thoại
Khoảng thiên đàng vừa hé vụt tan
Ðêm vang tiếng ru đời hoang vắng
Giữa con tim - hạnh phúc hanh vàng
Mái tóc xõa dài theo nhịp thở
Quyện vào nhau, từng sợi buồn nhau
Êm rụng xuống căn phần hư ảo
Thoáng nhìn nhau tình đã qua mau
Răng lặng nghiến bờ môi nén tiếng
Bặt tên em, từng giọt hồng rơi
Mắt không lệ, nhưng lòng nhỏ lệ
Ðong linh hồn, thương nhớ đầy vơi
Ngước mắt lên hứng từng giọt nắng
Ngày vút theo từng cánh chim bay
Nhìn lại mình, đời như bến vắng
Vết thương xưa. Buồn. Vẫn. Hôm nay.
Phạm Ngọc Duy
2/16/96
Những Lá Thư Không Gửi
cho anh Phát
Những lá thư không gửi
Những câu chuyện không tên
Những ước vọng không lời
Thiên trường ca: IM LẶNG.
Nét viễn phương xa vời
Dấu chấm lửng buông xuôi
Những con đường bất tận
Tự hư vô xa xôi.
Những con thuyền đi lạc
Bờ đá cũ xanh rêu
Phúc âm nào vang vọng
Bên hồi chuông xa xôi?
Nước đưa con thuyền bé
Về dĩ vãng xa mờ
Ngày mưa buồn xào xạc
Khơi mạch sầu chơi vơi
Câu hát nào chưa hát
Xin gửi những đám mây
Uẩn khúc nào chưa tỏ
Xin xem cùng con nước
Những lá thư không gửi
Những câu chuyện không tên
Những ước vọng không lời
Thiên trường ca: IM LẶNG.
Phan Lê Dũng
Rong Rêu
Bây giờ ngày tháng rong rêu (*)
em đi, tôi ở chín chiều ruột đau
2 bờ biển rộng trông nhau
à ơi ...ai phổ nhạc vào tình tôi
tình ơi xứ lạ quê người
đêm đêm thức, tỉnh ngậm ngùi không em
bây giờ 2 chữ tình duyên
ngoài tầm tay với biết tìm nhau đâu
à ơi... ai phổ tình sầu
nghe như nức nở tình đầu tôi mang
nhả đầy tay khói thuốc vàng
đành buồn nhưng chẳng đành trang thư buồn.
Mai em vọng biển cố hương
gió đưa tiếng hát vô thường tìm nhau .
Cỏ Nhớ
(*) nhạc Nguyễn Tâm
Tôi Mê Truyện Kiều
Nhân kỷ niệm 230 năm năm sinh Nguyễn Du (1765-1995)
Tôi mê "Truyện Kiều" từ hồi nhỏ qua lời ru của mẹ tôi và giọng ngâm Kiều của cha tôi. Không biết từ bao giờ trong nhà cha mẹ tôi có một quyển Kiều chữ quốc ngữ và một bản Kiều chữ nôm. Từ khi biết đọc chữ quốc ngữ, hầu như ngày nào tôi cũng đọc "Truyện Kiều". Cho đến khoảng mười lăm tuổi thì tôi đã thuộc lòng cả quyển truyện.
Năm tôi lên tám tuổi, mẹ tôi mất, tôi đã làm một bài văn tế tập Kiều khóc mẹ tôi, thật ra chỉ là một bài tập hợp vài chục câu Kiều nã nuột nhất.
Giữa năm 1931 tôi bị bắt và giam ở nhà lao Vinh vì tham gia phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ở trong tù niềm vui duy nhất của tôi là ngâm Kiều.
Cuối năm 1932, ra tù, tôi vào Huế sống với anh tôi là Hoài Thanh. Giữa lúc ấy phong trào Thơ mới ra đời. Thơ mới hợp với tâm trạng đau buồn của chúng tôi trước thời cuộc, chúng tôi liền mê theo thơ mới. Nhưng "càng âu duyên mới càng đào tình xưa", mê thơ mới tôi càng mê "Truyện Kiều". Trong lời "Nhỏ to" cuối quyển "Thi nhân Việt Nam" chúng tôi đã viết : "Một quyê"n sách nói về thơ Việt mà mở ra không nhắc đến Nguyễn Du tôi thấy như một sự bội bạc". Nghĩ thế chúng tôi đã tìm được một câu Kiều để in lên đầu sách: "Của tin gọi một chút này làm ghi".
Mê "Truyện Kiều" tôi cũng chỉ thích một số bài thơ vịnh Kiều, nhất là bài "Tựa tập thơ Thanh Tâm Tài Nhân" của Chu Mạnh Trinh (1). Ðọc bài này, ta thấy Chu Mạnh Trinh không chỉ mê "Truyện Kiều", mê văn chương "Truyện Kiều" mà chính là mê nàng Kiều y như mê một giai nhân có thật. Chu Mạnh Trinh ca ngợi đạo đức Thuý Kiều :"người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa", ca ngợi tài sắc Thuý Kiều:"Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh, vậy nên khách đa tình say chuyện phong lưu trăm năm cũ còn ghi tên tuổi hão; người chép sách tiếc vì tài sắc nghìn thu sau còn nhặt phấn hương thừa". Chu Mạnh Trinh mơ tưởng mượn cỏ thơm gọi hồn Kiều về, rồi như thấy bóng Kiều hiện về đâu đó:"Hỡi ơi! Hồn còn biết hay chăng? Bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc phố". Tôi rất thích bài này vì cũng như Chu Mạnh Trinh, tôi cũng "nòi tình, thương người đồng điệu" và cũng như Chu Mạnh Trinh, tôi không chỉ mê "Truyện Kiều" mà mê cả nàng
Kiều.
Rất thương Kiều nên tôi giận Nguyễn Công Trứ đã dõng dạc lên án Thuý Kiều:
Bạc mệnh chẳng làm điều tiết nghĩa
Ðoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!
Ai tà dâm? Người con gái phải bán mình chuộc cha, hay người khách làng chơi đi tìm thú vui bất chính? Nguyễn Công Trứ cũng là người thường đi lại chốn Bình Khang đáng lẽ nên dè dặt mới phải.
Càng về già-năm nay tôi đã tám mươi mốt tuổi-tôi càng mê "Truyện Kiều". Những năm gần đây, nhiều đêm trước khi ngủ, tôi tự ru mình bằng mấy câu Kiều, có khi cả một đoạn dài như đoạn Kim Kiều tái hợp. Nhiều đêm tôi mê thấy Kiều. Có một đêm, cách đây vài năm, tôi mơ thấy Kiều nhảy xuống sông Tiền Ðường, thương Kiều quá đỗi quá tôi cũng nhảy... từ trên giường xuống nền nhà miệng kêu:
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
Mê "Truyện Kiều", tôi buồn khi thấy số người mê "Truyện Kiều" ngày càng ít. Tôi sực nhớ hai câu thơ Nguyễn Du:
Ba trăm năm nữa mơ màng
Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như (2)
Tố Như mất mới có một trăm bảy mươi lăm năm mà số người khóc Tố Như chẳng còn bao nhiêu, nói chi đến ba trăm năm nữa! Nhưng tôi lại nghĩ "số người khóc Nguyễn Du hiện nay không nhiều, nhưng số người nhớ Nguyễn Du, thích "Truyện Kiều" thì còn hàng triệu. Và tôi vẫn tin với Tố Hữu:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày...
Hoài Chân
(1) Nguyên văn chữ Hán của Chu Mạnh Trinh-Ðoàn Tư Thuật dịch
(2) Xuân Diệu dịch hai câu trong bài thơ chữ Hán "Ðộc Tiểu Thanh ký" của Nguyễn Du: Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Paris Không Xa Lạ
Trò chuyện với nhà thơ Ý Nhi sau chuyến đi thăm Pháp một tháng theo lời mời của đại sứ quán Pháp tại Việt Nam.
Ý Nhi: Một tháng là thời gian rất ngắn, nên xen kẽ giữa các buổi làm việc, tôi không thể không đến các bảo tàng Louvre, Orsay, Picasso, Rodin, vườn Luxembourg, điện Versailles, sông Seine, khu Montmartre, nhà thờ Notre Damễ. Có tới 370 khu vườn và vô số những ngôi nhà, ngõ phố nên xem ở Paris.
- Còn với tư cách của một cán bộ xuất bản, chị đã làm gì?
Ý Nhi: Chủ yếu, tôi muốn tìm hiểu cung cách làm việc của họ. Có đến hơn 2000 nhà xuất bản ở Pháp, trong đó khoảng 600 nhà nổi tiếng. Nhà Gallimard chúng tôi có đến ba lần, còn với các nhà Minuit, Arléa, Philippe Piequier, còn gặp Christophe Bataille, nhà văn trẻ viết tiểu thuyết Annam, đang phụ trách việc bán sách cho một nhà xuất bản lớn là Bernard Grasset. Chúng tôi còn đến thăm hai toà soạn báo Le Monde và L'Express. Nhà Gallimard có 250 nhân viên, mỗi năm in 500 đầu sách mới, trong khi nhà Minuit chỉ có mười nhân viên và mỗi năm chỉ in 20 đầu sách. Nhưng cả hai nhà đều có chung ý thức và khả năng nuôi dưỡng tài năng, nhờ vào những biên tập viên kỳ cựu, trình độ cao, tinh tường trong việc phát hiện tài năng. Một tác giả trẻ có tài sẽ được họ nhận in ngay và liên tiếp cả năm tác phẩm tiếp theo, nếu bản thảo được đánh giá cao. Nhiều tác giả được hai nhà này giới thiệu lần đầu nay đã trở thành những nhà văn lớn của Pháp. Ngược lại, những nhà văn này, với số bản in và lần tái bản cao, cũng đóng góp cho uy tín và tài chính của nhà xuất bản.
Một ấn phẩm đáng chú ý nữa là tờ báo chuyên về sách, ra vào thứsáu tuần cuối tháng của tơ Le Monde. Tờ này có tám nhân viên và 30 cộng tác viên, để đọc khoảng 250-300 cuốn sách nhằm giới thiệu chừng 15-20 cuốn mỗi tháng. Các nhà xuất bản gửi sách đến ba tuần trước, dưới dạng bản bông, để kịp giới thiệi khi sách ra mắt. Tờ báo này là người hướng dẫn tuyệt vời cho người đọc ở một thị trường sách lớn như nước Pháp.
- Chị có thể kể gì về những gặp gỡ với rất đông văn nghệ sĩ, trí thức VN đang sống ở Pháp?
Ý Nhi: Trước hết là gặp gỡ với hai nhà văn Pháp lai Việt đều là những nhà văn đang có tên tuổi ở Pháp: Kim Lefèvre và Philippe Francini. P. Francini nói giọng Nam bộ, còn bà Kim nói giọng Bắc. Họ chỉ sống thuần tuý bằng ngòi bút và cho biết rằng ở Pháp, để sống bằng nghề viết cũng rất khó khăn. Tôi cũng gặp giáo sư Hoàng Xuân Hãn, đã 88 tuổi, mắt đã kém nhưng vẫn còn làm việc rất nhiều. Hôm tôi đến, ông đang đọc "Gương sáng trời Nam" của chị Hoàng Thị Ngọ ở Viện Hán Nôm. Ông ghi chú đầy trong bản thảo, và cho biết ông phải đọc kỹ càng, vì sợ sau này không có người đọc đúng, cái sai cứ dắt từ đời này sang đời khác. Ông cũng đang hoàn tất bản Kiều gần với bản chính nhất, mà ông coi là công việc của cả đời mình. Tôi cũng đến thăm hoạ sĩ Thái Tuấn, đã 77 tuổi nhưng còn rất linh hoạt, dí dỏm, và vẫn tiếp tục vẽ tranh về những thiếu nữ lặng lẽ giữa một không gian yên bình. Năm 1996, ông sẽ tổ chức triển lãm ở Mỹ và ông hi vọng vào 1997, ông có thể về triển lãm tranh ở VN.
Với James Burnet và Christian Hoche, hai phóng viên của tờ L'Express từng làm việc ở Sài Gòn trước năm 1975, thì VN vẫn là nỗi ám ảnh nơi họ. Trong những lần gặp gỡ, chuyện trò, họ luôn tranh luận với nhau về vấn đề VN. Và như một nhà lãng mạn, James cứ lo rằng Sài Gòn có thể sẽ phát triển giống như Bangkok, và như thế, anh sẽ không còn lý do để trở lại VN.
- Văn học VN vẫn ít được biết tới ở Pháp. Chị có làm gì để góp phần cải thiện tình hình này?
Ý Nhi: Tại hai cuộc gặp gỡ với các ông Yves Mabin-phó giám đốc về sách của Bộ Ngoại giao Pháp, và ông Pierre Chartier-phó hiệu trưởng phụ trách đối ngoại của Ðại Học Paris 7, tôi đều nói về việc đào tạo người dịch văn học và việc giới thiệu văn học VN một cách khoa học, đúng với thực chất hiện nay. Ông P. Chartier sẵn sàng nhận đào tạo người dịch. Ðại học Paris 7 có ban Việt học do các anh Ðặng Tiến và Phú Phong phụ trách. Ông Y. Mabin thì hứa sẽ lưu tâm đến vấn đề này. Tôi nghĩ, những người có trách nhiệm của VN hoàn toàn có cơ sở để tiến hành các công việc này với phía Pháp.
Ngô Thị Kim Cúc thực hiện
(TTCN số 43-95)
Đường Tăng
Ðêm cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật. Ðường Tăng trằn trọc không sao ngủ được. Suốt cuộc đời tăm nguyện tới cõi này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt.
Nhiều ngày nay, thân thể Ðường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mỵ, tay biếng lần tràng hạt. Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần cuối qua tim, cứa vào quá khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tinh cha, huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một lần nhắc nhở.
Chặng đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. Ông đã quá nhiều lần phải lạy lục, cầu khẩn các thần thánh lớn bé, đã quá nhiều lần giẫm đạp lên xác máu yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích: mau thành chính quả. Ông thương người. Nhưng đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu ra cội rẽ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài.
Nhiều lần Ðường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ với con người.
Ông trở mình, thở dài: không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào chốn ấy biết rồi thành Phật hay ma?
Ðường Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẻ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đệ tử đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như không ngủ.
Ðường Tăng thở hắt: "Không sao đâu. Ta chỉ chợt nhớ tới ngày xưa". Nói rồi lại nhắm mắt.
Nghe tiếng Ngộ Không: "Xin thầy đừng tự dối lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người." Ðường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không quá u uất "Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần thánh yêu ma, chỉ mong được thành người. Thầy đang làm người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Ðêm nay sao khỏi xót xa!"
Bát Giới cười khẻ: "Làm người có gì vui. Chúng ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng biết bao nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc".
Sa Tăng an ủi: "Thầy trò mình sắp hóa Phật mang đạo xuống khai sáng cho loài người. Công quả vĩ đại lắm".
Ðường Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt trào ra ấm nóng lạị Rồi như trăng trối: "Ta ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi! Một đời con mong được thành người thì bị bắt ép phải theo ta để thành Phật. Bát Giới tự dối mình giác ngộ thật ra chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoan tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn ta? Không còn là người, không phải là người thì làm sao đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con người".
Ngộ Không sụp xuống nắm tay thầy nghẹn ngào: "Thầy đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi".
Trên đường về. Qua sông. Thiên sứ cười và chỉ cho Ðường Tăng thấy thân xác ông đang trôi dạt dưới cầu.
Nhưng Ðường Tăng đã không nghe thấy gì nữa. Ðôi mắt vô hồn.
Trương Quốc Dũng
oOo
Lời bàn của Lê Ngọc Trà:
"Ðường Tăng" không phải là chuyện về sự lựa chọn giữa Phật và đời, giữa tâm linh và vô thần, duy vật. Tác giả chỉ mượn cốt truyện xưa để gửi vào đó một điều mình suy nghĩ, vì vậy ở đây Phật chỉ có ý nghĩa như một điển tích, một hình ảnh. Cái hay là người viết đã tạo ra được một tác phẩm vừa đầy chất ngụ ý, tượng trưng, vừa đầy âm điệu tình cảm, với những tính cách phát họa hết sức đơn sơ nhưng rất có hồn. Ðặc biệt là nhân vật Ðường Tăng. Ðó là sáng tạo độc đáo của tác giả. Khác trong "Tây Du Ký", ở đây Ðường Tăng người hơn, đời hơn, và dễ thương hơn. Cũng là nhại truyện Tây Du, nhưng đến phần cuối, tác giả bất ngờ rẽ sang lối khác để cho Ðường Tăng "ngộ" ra không phải cái thuộc về Ðạo mà là cái thuộc về Ðời - cái chân lý về giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của sự hy sinh và con đường "cứu vớt con người". "Con từ đá sinh ra.". Hóa ra cái kiếp người dẫu lầm than và buồn chán bao nhiêu vẫn là một kiếp sống, một sự sống trên cõi đời này. Ðược sống, được làm người vẫn là điều quý giá nhất. Những gì cho dù thiêng liêng, đẹp đẽ bao nhiêu mà xa lạ với con người, không mang lại hạnh phúc cho con người thì cũng điều vô ích.
Truyện "Ðường Tăng" đầy những câu ngắn có hồn. Chữ ít nhưng dường như chữ nào cũng sống, cũng có một âm điệu tình cảm, một không gian...
Chuyện Của Người Khảo Cổ
Ðêm thứ ba người bạn làm nghề khảo cổ kể cho tôi: Trên con đường rừng chạy từ Cốc So tới Mừng Ú, từ Mừng Ú nghe đâu con đường chạy đến một khu nghỉ mát nào đó mãi tận Khẩu Phình. Dân Cốc So cũng không biết được. Từ Cốc So đi Mừng Ú nếu không có ngựa cũng chịu. Giữa độ đường, chẳng ai để ý nơi nghỉ cho ngựa uống nước, dưới bóng núi, cách chừng con dao quăng có một con đường mòn nhỏ như cổ tay. Theo con đường này là khoảng ngày đường có một bản nhỏ tên là Nà Luông.
Tên bản có tự bao giờ chẳng ai biết, đến cả những người già nhất cũng không biết. Dân bản cũng chẳng giống dân tộc nào. Họ biết thổi kèn như người Mèo, lại biết chơi nhạc sanh tiền như người Thu Lao. Ðàn thì vừa giống như đàn chẩu văn của người Kinh lại vừa giống như đàn tính tẩu của người Tây. Có lẽ họ là dân tứ phương tụ lại.
Mỗi người nhập vào bản đều từ một nỗi oan khiên hoặc một tội lỗi nào đó. Họ cũng ít kể cho nhau nghe vì nỗi oan khiên thì không thể kể bằng lời. Muốn biết thì cứ nhìn trên khuôn mặt, nó đầy đủ cả. Chỉ biết họ thương yêu nhau lắm - những con thú bị thương thường âu yếm liếm sạch máu cho nhau, có lẽ nỗi khổ đau đã buộc họ lại như những dây leo.
Bản Nà Luông quanh năm mát mẻ cây cối xanh tốt kỳ lạ. Những con suối cũng hiền lành ngay cả trong mùa lũ. Nước suối trong vắt nhìn rõ cả những viên sỏi trắng tận đáy. Những con cá ở suối hình như cũng bơi duyên dáng hơn ở những nơi khác. Lội dọc suối vào những ngày hè, ăn quả trứng cua, quả có vị mát dễ chịu. Ai ăn quả này dù chỉ một lần sẽ nhớ suốt đời.
Năm ấy được mùa, bản Nà Luông mở hội múa xòe, uống rượu cần suốt ba ngày đêm, đến khuya mới đi ngủ. Họ ngủ say sưa trong niềm vui, hồn vẫn bay theo tiếng nhạc, tiếng sáo dập dìu. Gần sáng tiếng chó trong bản sủa dữ dội như muốn đứt xích hướng về phía rừng. Dân bản đốt đuốc theo tiếng chó sủa, tìm thấy một bé gái đỏ hỏn quấn trong một chiếc váy thêu sạch sẽ. Cũng trong đêm đó trời mưa to lắm làm ngọn núi Luông nứt toác sập mật một nửa, ngờ đâu núi lấp xuống đầm lầy làm nổi lên một cánh đồng mỡ mầu. Nửa quả núi còn lại đá trắng phau, đem đến tỏa ra ánh sáng mờ ảo như ánh trăng non. Hôm sau trời trong xanh ngắt, mây bồng bềnh trắng nõn, có lẽ vì thế mà dân Nà Luông đặt tên cho cô bé là Mây.
Năm mười sáu tuổi Mây đẹp lắm. Không biết có phải vì sắc đẹp của nàng không mà trai bản xứ ai cũng vui vẻ và hào hiệp hơn. Cả những chàng lù rù quanh năm không nói cũng lẩm nhẩm hát khi đi qua nhà nàng. Người ta bảo những năm đó thanh bình lắm, nhà nào lúa cũng đầy cót, ngô cũng đầy loỏng. Tết đến hoa đào nở rộ in hình lên núi Luông trắng. Những đàn chim hút mật bay về, những con chim lông đỏ, chỉ to bằng quả gắm, trứng như những hạt đậu trắng đẻ trong ổ mềm nhỏ xíu kết bằng tơ nhện vàng. Thịt chim hút mật chẳng được là bao, với lại chả ai ở Na Luông lại nghĩ đến chuyện ăn thịt những tiếng hót. Ðêm xuân dưới ánh trăng mờ ảo tỏa ra từ vách núi Luông trắng, trai gái từng cặp dập dìu. Những con chim hút mật cũng bay liệng hót suốt đêm để từ đó sinh ra những trai bản, gái bản khỏe mạnh và tâm hồn như ánh sáng núi. Ngày xuân người già quay mặt về phía núi Luông cúng trời tạ ơn.
Nhưng cũng như tất cả mọi thứ trên đời đều rất mong manh, đầu tháng hai năm ấy trời rét như cắt thịt. Một con hổ trắng về bản bắt đi một người. Cuối tháng lại bốn người nữa. Lạ sao cả năm lần đều bắt đi những người nằm giữa, có lẽ kẻ tranh phần nằm giữa là những kẻ ranh ma. Nhưng dân bản có ai nghĩ đến điều đó, họ chỉ tập trung vào việc tìm cách giết chết bằng được con hổ dữ.
Trai bản chia ra làm hai cánh khép chặt rừng Nà Luông. Một cánh trưởng bản giao cho Pả, chàng là người khỏe nhất trong các cuộc thử sức, cây to không đổ nếu thiếu lưỡi búa của chàng. Những con ngựa nóng nảy nhất cũng phải tuân theo ý chàng. Cánh kia giao cho Núng - chàng có đôi mắt sáng và đôi tay khéo léo, người bao giờ cũng tìm ra cách tốt nhất trong săn bẫy thú dữ, trong các cuộc thi mũi tên của chàng bao giờ cũng trúng hồng tâm. Nhưng Núng là con người khó hiểu, khuôn mặt sáng sủa nhưng lạnh lùng và luôn phảng phất nỗi buồn, việc làm của chàng cũng khó hiểu: Bẫy hươu nhưng lại đắp thuốc cho con hươu sa bẫy rồi thả lại rừng. Tiếng sáo của chàng lúc vui lúc buồn, lúc lửng lơ réo rắt mơ màng.
Cả Pả và Núng đều muốn có nàng Mây. Và Mây cũng mến cả hai chàng. Nàng chăm sóc Pả như mẹ chăm con. Thậm chí cả con ngựa của Pả cũng được nàng chăm bằng cỏ non do tay hàng hái. Mắt nàng long lanh khi Pả hạ được con sơn dương hay con lợn rừng. Với Núng thì lại khác, tiếng sáo của Núng làm nàng cảm thấy bâng khuâng. Có lúc theo tiếng sáo nàng thấy mình như lơ lửng lên cao, lên cao mãi, cao mãi tới tận vành trăng lưỡi liềm. Không hiểu sao không đêm nào nàng không mơ thấy Núng
Ôi ở đời trời sinh ra những người mạnh như Pả và phù du như Núng để làm gì? Có phải là hạnh phúc không? Và biết đâu chả là kết cục chua xót.
Sau hai ngày đêm vây ráp, con hổ lại cướp thêm một người nữa. Con thằng Léng trong cánh săn của Pả trượt chân lân xuống vực bị hổ vồ. Pả giật được Léng ra giữa lúc con hổ quặp lấy nạn nhân. Chân tay mặt mũi mọi người tứa máu vì gai sắc, đá nhọn. Ðến nửa đêm con hổ bị bắn chết, nhưng trong nhiều mũi tên trong xác hổ chỉ có một mũi tên trúng tim. "Ai là người có mũi tên này! Có hạnh phúc này!"
Người thì bảo mũi tên đó của Pả. Người thì bảo mũi tên đó của Núng. Chỉ có một người biết mũi tên này là của Núng, đó là nàng Mây. Vì nàng là người chuốt tên và buộc cánh tên cho cả hai chàng. Người ta bàn cãi rất lâu, cuối cùng thằng Léng láu lỉnh chứng minh mũi tên là của Pả. Dân làng khiêng xác hổ và công kênh Pả về bản trong tiếng reo vui, tiếng thanh la như vỡ trời.
Trưởng bản cho Pả được chọn phần thưởng cao nhất. Và tất nhiên Pả không quên điều ao ước: "Nàng Mây". Mây giật nảy người xin trưởng bản xét lại vì mũi tên nàng biết là của Núng chứ không phải của Pả. Nhưng lời Mây có nghĩa lý gì trong thác vui mê muội của toàn bản.
Trưởng bản hỏi Núng, Núng chỉ nói: "Tao bắn con hổ này tao sai rồi đấy !". Trưởng bản chồm lên hất đổ bát rượu, dậm chân, mặt tái ngắt: "Thằng điên! Thằng điên!". Trưởng bản ra lệnh đuổi Núng ra khỏi bản. Thậm chí còn tuyên bố trao quyền trưởng bản cho Pả.
Ðám cưới vợ cho trưởng bản Pả lập tức được chuẩn bị, chỉ còn chờ làm xong chiếc vòng cho chàng rể, phải lấy từ lông của hai nghìn con chim hút mật.
Còn Núng chẳng cần xua đuổi, chàng mang một ít vật dụng và cây sáo theo đường mòn ra đi. Nét mặt chàng vừa thanh thản vừa buồn bã. Chàng nhìn rất lâu lại phía nhà Mây, đôi mắt buồn như khói chiều. Chàng nhặt một viên sỏi dưới chân ném xuống suối, mặt trời chiều trong lòng suối tan ra thành trăm mảnh rồi dần dần gom lại đỏ lựng trơ trẽn.
Ðêm hôm ấy, trời càng khuya càng ấm. Ánh trăng quầng lờ mờ hư ảo. Mây không tài nào ngủ được. Nàng như mơ hồ nghe thấy tiếng sáo, không ! mà tiếng sáo thất. Mây bật dậy gói tất cả bạc trắng chạy theo tiếng sáo cô đơn. Vượt ba con suối nàng gặp Núng. Nàng không còn thẹn thùng chạy tới ôm chặt lấy chàng. Họ quấn chặt lấy nhau trong cơn xoáy lốc khát khao mong đợi. Mặt trăng quầng chao đảo, cả ngọn núi Luông cũng chao đảo nghiêng ngả. Ðến tận lúc có tiếng gà eo óc từ bản vọng đến, cả hai đều mệt lả. Núng giục Mây quay về:
"Mây phải quay về, không theo được Núng đâu, cái đói Mây không chịu được, cái rét Mây không chịu được!"
Mây vẫn vòng tay níu lấy cổ Núng
"Không! Mây có con, con của Núng đấy."
"Không, Mây phải về, còn bản Nà Luông. Mây không về bản Nà Luông sẽ tan mất".
Núng chắp tay hướng lên trời sao lẩm nhẩm hồi lâu rồi lặng lẽ bảo Mây:
"Trời bảo chúng mình sẽ có con trai tên là Páo đấy".
Gà bản gáy xao xác lần thứ ba, trời vẫn còn tối. Trong một bụi cây đứng như chết, thằng Léng nằm im nín thở. Nó đã nghe thấy hết, nhìn thấy hết - Những con rắn cũng nằm trong các bụi cây im như vậy. Nó nhìn thấy cái cây Núng hái bảy lá đưa cho Mây giấu vào ngực áo. Nó lấy mắt đánh dấu cây ấy.
Ðám cưới Pả và Mây tưng bừng. Cả bản đều tắm trong rượu. Ai cũng thỏa thuê. Có Mây mặt Pả lúc nào cũng như buổi sáng, Pả vui vẻ với tất cả mọi người, Pả bế trẻ con hôn hít. Pả cùng ngồi ăn xiên thịt nướng uống rượu với trai bản. Pả cùng dựng nhà cho các người già. Không đám cưới nào Pả không đến mừng. Không đám ma nào Pả không đến vái rồi cùng ngậm ngùi. Léng luôn bên Pả giúp việc, bàn bạc xây dựng bản. Còn hơn cả Pả, Léng biếng cả bảy chiếc lá mết Mây giấu trong gối.
Trong vòng ôm của dãy núi Luông, người ta tự dệt lấy vải, tự nuôi dê, nuôi heo, trồng lúa, trồng bắp. Chỉ thỉnh thoảng mới cho người đi ngựa đến chợ Cốc So đổi bạc lấy vật dụng cần thiết. Con đường mòn vào bản vẫn bé như cổ tay ít dấu chân người.
Ở Nà Luông công của người làm được tính bằng những thẻ tre to bằng những quân bài. Mỗi thẻ có in vân ngón tay trỏ của trưởng bản Pả. Mây làm thẻ, số thẻ tính theo số lúa số bắp của bản. Năm ấy mỗi thẻ lấy được một mủng lúa, mười thẻ đổi được một nén bạc. Cũng năm ấy Mây đẻ con trai, một mực xin Pả đặt tên con là Páo. Pả hôn lên thằng bé "Páo con của ta, con sẽ là trưởng bản". Tối hôm ấy chờ lúc Pả ra ngoài, Mây lấy bảy chiếc lá mết nhai rồi nuốt đi. Nàng biết từ nay nàng sẽ không sinh nở được nữa. Mây đẻ được hai ngày, Léng đến mừng. Gặp lúc Pả đi vắng, nó nói: "Tao biết mày nuốt lá trong gối rồi đấy." Mây tái mặt ôm chặt lấy con. Nàng giật lùi giật lùi ép lưng vào phên vách, tay lần theo phên nơi ấy có giắt một con dao nhọn. Léng cười, nhảy phốc tới chộp lấy tay nàng giật mạnh, cướp lấy con dao. Mây ngã chúi, tóc buông ra xõa xượi. Léng ngửa mặt lên trời cao cười sằng sặc, vung tay, con dao bay qua đầu Mây cắm vào cột, chuôi dao rung rung.
"Tao nói thằng Pả biết, Páo là con của thằng Núng, nó xé thằng Páo con, hiểu chưa, hiểu chưa !"
Nó chồm tới ôm chặt lấy Mây, Mây chống cự cào cấu vào mặt Léng. Cuộc vật lộn hồi lâu cuối cùng Mây phải nghiến răng chịu đựng - thằng Léng đã thỏa mãn điều nó mong muốn.
Trời đã xế chiều. Có tiếng nhạc ngựa. Léng vội chạy ra đón cương ngựa cho trưởng bản Pả, dẫn ngựa vào tàu. Nó vuốt vuốt lưng con ngựa, đến vùng hông nó lấy ngón tay cái bấm mạnh. Con vật uốn cong lưng phì mạnh một cái, nó khen:
"Con ngựa của cái trưởng bản tốt đấy, đáng một trăm nén bạc đấy".
Rồi mọi sự theo thời gian dần dần qua đi. Mỗi năm nhớ ngày Núng ra đi Mây lại lấy dao chém vào cột một vết đánh dấu. Léng lúc nào cũng bên Pả, giúp Pả nhiều việc. Công việc trưởng bản bận rộn. Pả đi suốt ngày, về đến nhà mệt bã, nhưng Pả vẫn dành thời gian làm cho thằng Páo một chiếc nỏ con con, một con dao bằng gỗ. Pả rất sung sướng ngồi bên vợ nhìn con tập phi ngựa.
Lúc vắng mặt Pả, thằng Léng lại lấy chiếc lá mết ra xoay xoay trước mặt Mây, Mây chỉ bặm môi chẳng dám nói gì. Lúc có mặt Pả, Léng lại dạy thằng Páo làm bẫy bắn cung, tập đếm theo những vết dao trên cột.
"Thằng Páo nó sáng cái đầu đấy ! Nó đếm được vết dao trên cột đấy !".
Pả cười sung sướng biết ơn.
Một hôm Léng bảo thương Mây và Pả lắm. Nó đưa vợ nó đến làm thẻ đỡ Mây, còn bảo:
"Cái trưởng bản vất vả lắm, mệt cứ ngủ đi".
Pả ngủ để bàn tay ra ngoài chăn cho nó cầm ngón tay trỏ in thẻ. Nó in rất nhanh, hôm nào cũng tận gà gáy mới về. Pả ngủ rất say - lúc tin tưởng và thỏa mãn bao giờ người ta cũng ngủ rất say. Mây nhìn Pả ngủ hiền lành, nước mắt lén rơi lã chã. Năm ấy hai trăm thẻ mới được một mủng lúa. Pả hỏi, Léng bảo dân khổ lắm, phải in nhiều cái thẻ cho người già, để đổi bạc, mua cuốc sắt, mua hạt muối cho dân chứ! Nhà Léng càng ngày càng giầu, bạc nén tìm thấy lẫn cả trong đất ngoài vườn. Lái buôn trâu, buôn muối, ăn ngủ, rượu chè suốt tháng ở nhà Léng. Lái buôn muối còn cho Léng cả giống chó to như con bê. Lạ, giống chó chỉ biết ăn thịt. Người ta bảo giống chó của nhà Léng còn ăn ngon hơn cả người dân làm nương. Léng cho người đổi thẻ lấy lúa, rồi lại đổi lúa lấy bạc trắng và bao giờ nó cũng trả thừa. Người làm nương cầm nắm thẻ chỉ đổi được cân muối hoặc vài chiếc kim, mặt cứ ngơ ngác như người bị mất cắp.
Những năm ấy dân đói lắm, trộm cắp như rươi. Chưa tối mà nhà nhà đã cài then cửa. Con gà cũng phải để cạnh chỗ người nằm. Nhà Léng thuê người giữ, có chó, Léng lại đưa xương rồng trăn về trồng quanh nhà. Giống xương rồng này to như con trăn đất, da sần sùi như mụn cóc, nhựa mủ rất độc, chạm phải thối da, thịt sùi ra mủn tới tận xương chỉ sau một tuần là chết. Ðói ăn, nhiều người đi đào củ nâu củ mài.
Trong rừng quạ khoang bay xao xác. Dân bản nhặt được nhiều xác hài nhi. Pả cho chôn cất, ông khóc, tay run run thắp hương. Gái bản chửa hoang vị phạt. Những tên trộm cướp Léng cho đổ nhựa xương rồng vào tai nhưng vẫn không dẹp được.
Chập tối không ai dám ra đường. Có người bảo Léng biết những tên trùm cướp nhưng không bắt, để nó giúp bảo vệ nhà mình. Tiếng thì thầm nhỏ to trong âm âm trong bản nhưng không ai dám nói gì. Léng đem xương rồng trăn về trồng ở nương để tiện lấy nhựa. Nó bảo : "Ðể bảo vệ cái nương cho bản đấy !"
Xương rồng trăn lớn nhanh kỳ lạ, lan kín hết cả nương xa ruộng gần. Pả, Léng, dân bản quyết định diệt nạn xương rồng. Nhiều người chết, nhiều người sợ. Pả nghiến răng chém, mồ hôi đổ ròng ròng căm giận, nhưng chém một nhát nó lại đâm rễ mọc thành hai. Pả hoa mắt, lảo đảo gục xuống tay bám đất. Ông cào được một nắm đất, nghiến răng riết chặt, tay rung lên bần bật, bỗng buông ra, đất khô xác tan lả tả lọt qua kẽ tay gân guốc. Ông run run đứng lên ngơ ngác tìm phía mặt trời. Trời đã xế chiều, ông định chạy theo về phía đó. Nhưng tai ông ong ong, như có hàng vạn tiếng ve sầu. Một ý nghĩ buồn bã thoáng qua trong đầu ông:
"Có lẽ mình đã già rồi !"
Nửa đêm lại có tin Mây và Páo trốn đi mất. Pả ngã gục xuống đất. Ông bị mê sảng.
Ðến tháng chín ông bị lẫn, vừa cho ăn đã kêu đói. Léng luôn bên cạnh hầu hạ. Nó đi vòng quanh cái cột đếm được mười vết dao. Tay nó gõ gõ vào trán gật gật đầu. Nó đến ngồi cạnh Pả. Mắt Pả gà gà đờ đẫn rồi bất chợt loé lên, lông mày dựng ngược. Ông quát như xé lồng ngực:
"Ðứa nào trồng xương rồng trăn! Ðứa nào!".
Nó đỡ ông nằm xuống vuốt ngực ông, nói: "Thằng Núng" và đem chuyện chiếc lá mết ra kể hết. Pả chẳng còn hiểu gì được nữa, ông đã kiệt sức chỉ còn thở dốc. Ông đuối đi nhịp thở, yếu dần, yếu dần.
Ánh nắng chiều tà xiên qua phên nứa. Ông mơ hồ nhận thấy những hạt nắng vàng nhấp nháy. Ông mơ: ông mơ thấy thằng Páo cỡi ngựa trong rừng hoa vàng, và cạnh nó một người ông hơi quen mặt. Một mũi tên quay quay trước mặt, người đó chộp lấy mũi tên bẻ gẫy đôi ném ngay xuống dưới chân. Ông nhận ra người đó là Núng. Cạnh Núng là một con hổ trắng, con hổ há miệng lè ra một đàn mối. Ðàn mối rào rào ăn xương rồng trăn. Ông lại thấy Mây, áo dài mỏng, tóc bay uốn lượn như dải lụa. Nàng nhìn ông mắt buồn và lạnh lùng.
Thằng Páo phi ngựa qua cười rất giòn gọi mẹ:
"Mẹ ơi! Ði thôi".
Ông chới với gọi:
"Páo ơi ! Páo ơ...ơi !"
Ông chạy theo nhưng ngã vật xuống. Và giật mình thoát khỏi cơn mơ, ông hỏi giọng mê hoảng hồn dờn dờn đứt quãng:
"Pa ...Pa ...áo, Páo đâu ?"
Léng kéo con nó đến cầm tay ông đặt lên vai con nó. Tay ông rũ rượi không còn nắm vai nó được nữa. Cánh tay ông rơi thõng xuống. Dân bản chạy vào ngơ ngác đỡ cánh tay còn đang đu đưa ủ vào chăn rồi vuốt mắt cho ông.
Ðưa ma ông, cả bản khóc như mưa. Léng cho người tạc tượng ông đạt trên gò đất to giữa bản - Dân Nà Luông kính trọng và thương ông ...
oOo
Anh Ðàm, người kể chuyện này dừng lại như thể lấy hơi.
Tôi hỏi:
- Thế con của thằng Léng làm trưởng bản à?
Ðàm không nói gì, anh mồi một điếu thuốc lào châm lửa rít một hơi rất mạnh, từ từ phả khói. Anh liếc nhìn tôi bỗng cười khành khạch, làm tôi càng nghi ngờ câu chuyện như huyền hoặc của anh:
- Câu chuyện ông bịa ra đấy à?
Anh vẫn không trả lời, chỉ từ từ đứng lên đi đến chiếc cột, gỡ xuống một chiếc ống tăm cũ kỹ bằng gỗ đưa cho tôi xem. Trên chiếc ống tăm có khắc nổi ba con khỉ rất sinh động: một con hai tay bịt miệng, một con hai tay bịt mắt, một con hai tay nút chặt lỗ tai. Tôi chẳng hiểu gì, anh giải thích:
- Một ông già bản Nà Luông cho tôi đấy.
- Thế chuyện có thật à ?
- Câu chuyện tôi cũng nghe ông già ấy kể lại. Ông ấy kể cũng có vẻ huyền thoại như thế đấy. Ông của ông ấy trong cánh săn của Núng và là người tạc tượng Pả. Ðó là người để lại cái ống tăm này đấy.
- Bố ơi, thế Núng có về không ?
Con anh ngồi hóng chuyện hỏi xen vào. Anh xua tay gạt câu hỏi của con, nói với tôi:
- Hồi ấy tôi đang làm dở cái đề tài văn hóa dân gian thì vết thương Khe Sanh tái phát lại bị sốt rét rừng phải bỏ về. Tôi không kịp nghe ông già kể tiếp nữa.
Chị Ðàm bưng lên một nồi cháo hến nấu với thì là. Lúc đó đã mười hai giờ đêm. Chúng tôi ăn xong rồi lên giường. Chị Ðàm vặn nhỏ đèn cài cửa, chặn thêm cái ghế, lại cài lên trên mấy cái vung xoong. Ngoài trời gió rét thổi ù ù. Tôi kéo chăn trùm kín đầu, trằn trọc mãi không sao ngủ được. Bên tôi anh Ðàm đã ngáy đều đều. Lát sau anh cựa mình nói ú ớ trong mơ.
Vũ Quý
Yên Bái - Nam Ðịnh
1991-1992
Truyện ngắn dự thi, báo Văn Nghệ, tháng 6, 1995