vhnt, số 38
30 August 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ thư bạn đọc
+ post 1 - truyện thật ngắn, Những Giọt Nước Mắt Màu Đen, Vân Hà
+ post 2 - truyện ngắn dịch, Người Đập Dù Lên Đầu Tôi, PCL dịch
+ post 3 - thơ Luân Hồ Triệu
+ post 4 - biên khảo, Bình Ngô Đại Cáo, Dương Hùng
Bạn đọc vhnt thân mến,
Số này đặc biệt dành cho truyện ngắn và truyện thật ngắn, để... thay đổi không khí :)
Theo nhận xét của một vài bạn đọc, diễn đàn vhnt đến nay đã bắt đầu khởi sắc, với những bài gửi về có chất lượng về nghệ thuật và văn học, thật là một điều vui. Số đốc giả cũng gia tăng và đã dành ưu ái cho vhnt forum của chúng ta. Xin cám ơn các bạn đã đóng góp và khích lệ.
Chúc bạn đọc có được những phút nhẹ nhàng thanh thản trong ngày.
thân ái,
vhnt
oOo
Thân chào,
Xin duoc gop y ve viec bỏ dấu. Day la mot van de kha phuc tap vi khong phai ai cung se co nhu lieu de doc, va khong nhu lieu nao giong nhu lieu naọ Tinh trang thieu standard nay co le se con dài dài cho tới khi nao chung ta chọn duoc mot tieu chuan mớị Trong khi chờ đợi, toi nghi chung ta có thể phải đi "hàng hai" và để cho nguoi user quyet dinh xem standard nao dễ sử dụng nhất.
Ian
Mến gởi các anh chị, cô chú của vhnt,
Khi đọc lời yêu cầu của Van Ng~ xong quả thật là em rất lo sợ, sợ rằng một ngày gần đây vhnt sẽ viết văn, thơ mà không còn dấu nữa! Là độc giả của vhnt bấy lâu nay, em cảm thấy mình còn rất nhiều điều phải học hỏi nơi những ng` đi trước, mà trong đó có cả cách đánh vần và ghi dấu của tiếng VN. Có rất nhiều chữ em luôn luôn phải tự hỏi "không biết chữ đó là dấu hỏi hay dâú ngã, chữ đó là "gi" hay "d" ... ". Hơn nữa, em thấy nếu không có dấu thì đọc bài viết rất lâu, đôi lúc đọc xong một câu mình phải trở lại câu trước để đọc lại xem coi mình có hiểu lầm ý tác giả hay không. Có lần em đọc 1 đoạn ngắn mà thấy đầu óc căng thẳng vô cùng, sau đó thì em hầu như ... bỏ cuộc.
Không biết những độc giả khác nghĩ sao, nhưng em mong rằng vhnt sẽ giữ dấu của tiếng Việt mình. Đánh máy hay viết tay cũng đều phải bỏ dấu cả, có gì là khó đọc hay khó viết hơn? Hơn nữa, thiếu dấu thì tiếng Việt mình có khác gì các ngôn ngữ La-tinh đâu!
Mến,
Hoàng Mộc Linh
Kính gửi qúy bạn chủ trương VHNT,
Tôi xin ủng hộ ý kiến của bạn Van Nguyen trong việc tìm nhu liệu mới để đánh dấu chữ VN .
Ðó là cách hay nhứt để khuyến khích người viết.
Thân ái
Thai Van Vu
Những Giọt Nước Mắt Màu Đen
Nghe nghèn nghẹn nơi cổ, cay cay nơi mắt, tê tê nơi mũi, thiếu nữ khóc. Những giọt nước mắt cứ tuôn trào.. Chẳng kìm lại được. Xấu hổ nhưng kiêu hãnh với người đồng hành, cô chẳng sụt sùi, chẳng lau khô đi những lằn nước trên khuôn mặt. Nhiều thoáng cô nghĩ sao cô lại có thể khóc, và khóc trước mặt người khác như thế này. Ðã lâu rồi cô không khóc. Không còn nhỏ nữa để có thể khóc vì đòn đau. Cô cũng không khóc nữa cho những nhân vật của tiểu thuyết hay phim ảnh. Họ chẳng có chỗ trong cuộc sống quanh cô. Cô không khóc vì vui sướng, không khóc gặp người thân, càng không khóc khi xa cách. Mọi chuyện đã thế, nước mắt có thay đổi được gì đâu. Trong nhà, ngoài phố đôi khi cũng có những trái ngang, tội nghiệp. Cô cũng không khóc. Cô không khóc thương hại người khác bởi cô chẳng muốn ai thương hại mình.
Vậy mà bây giờ cô lại khóc. Khóc chẳng kìm lại được. Cái mềm yếu của cô như ào dậy. Cô khóc cho cô. Xe dừng. Cô bước nhanh hướng về "restroom" công cộng, "women". Vào bên trong, cô khóc òa thành tiếng, rút vội khăn giấy ập lên mặt, vào mắt. Nước mắt cô nhuộm chì kẻ, có màu đen. Cửa bỗng xịch mở, một người đàn bà lôi một bé gái khoảng sáu, bảy tuổi vào. Em bé khóc la thảm thiết. Thấy cô, em ngưng bặt, ngẩng lên nhìn. Trên khuôn mặt em còn đọng những giọt nước mắt. Những giọt nước mắt màu đen.
Vân Hà
8/95
Người Đập Dù Lên Đầu Tôi
Có một người chuyên môn đập dù lên đầu tôi. Cũng đã năm năm rồi từ ngày hắn ta làm cái việc kỳ cục này. Thật sự mới đầu thì tôi không thể chịu nổi, nhưng bây giờ tôi lại đâm nghiện "nó" mới lạ lùng.
Tôi không biết tên hắn ta. Ðó là một gã đàn ông trung bình mặc bộ đồ com-lê tầm thường mầu xám với khuôn mặt mông lung bí ẩn. Tôi gặp hắn lầu đầu vào một buổi sáng xui xẻo cách nay đúng năm năm. Lúc đó đang ngồi yên tịnh đọc báo trên một băng ghế trong công viên thì đột nhiên bị một cú quất vào đầu tá hỏa. Phải, đúng là gã, người đàn ông đó đã liên tục quật dù lên đầu tôi từ năm năm nay, bắt đầu từ buổi sáng hôm đó.
Lúc đó tôi nổi cục bổ dậy vì cái đau bị xúc phạm vô lý giữa chốn công cộng, nhất là giữa lúc tôi đang bình yên thoải mái đọc báo mà lại bị một người tự dưng đến phá đám làm một chuyện thật bất ngờ, bất công và bất thường hết sức. Hắn ta thì vẫn thản nhiên tiếp tục quất túi bụi lên đầu tôi mặc tôi phẫn nộ như thế nào. Tôi la lên ông này có điên không? Hắn làm thinh như không nghe tôi hỏi, tay vẫn đập liên tục đập dù lên đầu tôi. Tôi dọa gọi cảnh sát, hắn vẫn không thèm đếm xỉa gì. Sau một lúc chần chừ nghĩ không biết phải làm sao, vả thấy hắn ta không có vẻ bớt lại cái trò chơi kỳ cục này, tôi tức giận đứng lên thoi hắn một quả thật đẹp ngay giữa mặt. Thì ra hắn chỉ là một tên đàn ông yếu xìu mặc dù tôi đã kềm hãm cơn giận không dùng hết sức lực. Gã nằm ngay đơ dưới đất miệng rên ư ử, rồi lập tức cố vùng dậy và tiếp tục vung cán dù bổ lia lịa vào đầu tôi. Máu mũi hắn đổ ra đỏ lòm, không hiểu sao lúc đó tôi lại thấy thương xót hắn, lương tâm tôi chất vấn sao lại đục hắn mạnh tay đến như vậy, và cũng bởi vì sau đó cái dù quật lên đầu tôi cũng không đến nỗi mạnh gì, còn có vẻ nhẹ hều như những luồng gió. Mặc dù không thấy đau đớn gì, nhưng hình ảnh bị đập dù lên đầu trông thật khó coi như một người đang bị xúc phạm sỉ nhục, dĩ nhiên là tôi nổi sùng. Thật sự mà nói, cây dù vụt tới vụt lui với tốc độ bình thường không hẳn chạm vào đầu khiến tôi có cảm tưởng như có một con nhặng khổng lồ đang xoáy vù vù vào đầu thật khó chịu.
Dù thế nào đi nữa thì tôi cũng không thể chịu được con nhặng to tướng khốn kiếp này, nhủ lòng chắc hôm nay xui xẻo gặp một đứa khùng hết thuốc chữa, thôi thì tẩu là thượng sách. Tôi quyết định bỏ đi cho khỏi cái thứ hắc ám này. Hắn vẫn không buông tha tôi, hắn lẽo đẽo theo sau tay không ngừng bổ dù lên đầu tôi nhịp nhàng như con ruồi bám riết lấy mồi. Tôi co giò phóng chạy (cũng xin nói tôi là người chạy nhanh có hạng ít có ai chạy lại tôi). Hắn đuổi theo sát phía sau còn ráng quật được vài cú dù lên đầu tôi vớt vát. Tôi nghe hắn thở hồng hộc, hổn hển như sắp đứt hơi, cứ cái đà chạy đua này tên phá đám tôi có thể đứt mạch máu ngã vật xuống chết như chơi.
Vì nghĩ vậy mà tôi giảm tốc độ đi chậm lại như người đi bộ. Quay qua nhìn hắn, tôi thấy hắn không lộ vẻ gì cả trên khuôn mặt bình thản lạnh lùng, cũng không tỏ vẻ biết ơn tôi đã chạy chậm lại, hay tức giận với cuộc chạy đua đứt hơi vừa rồi, tay vẫn không ngừng bổ cây dù lên đầu tôi theo cái kiểu của con nhặng bám riết lấy người ta. Tôi nghĩ trong đầu có nên tìm đường đến trạm cảnh sát thưa với giới chức trách: "Thưa thầy đội, ông này khi không đập dù lên đầu tôi đây nè.". Thật là một trường hợp kiện tụng kỳ cục chẳng đầu đuôi thể thống gì, chắc chắn người ta sẽ nhìn tôi với cái nhìn nghi ngờ cho tôi là kẻ không bình thường không biết đang định giở trò gì đây, rồi xét hỏi giấy tờ đến là lôi thôi. Thế nào họ cũng hỏi tôi những câu hỏi sống sượng thật xấu hổ, rồi cuối cùng bắt nhốt tôi lại cũng không biết chừng.
Thôi, tốt hơn hết về nhà cho rồi. Tôi nhẩy vội lên chiếc xe bus số 67 đang trờ tới. Hắn cũng nhào lên theo tay không ngừng vung dù lên đầu tôi tới tấp. Tôi tìm được một chỗ trống ngồi xuống, gã cũng ngồi xuống ngay chỗ bên cạnh một tay bám vào chỗ vịn trong thành xe một tay vẫn vung tít cây dù. Mấy người trên xe bus trố mắt nhìn rồi len lén cười, gã tài xế nhìn trừng chúng tôi trong kính chiếu hậụ. Có tiếng thì thào cười khúc khích trong xe, họ quay sang rỉ tai nhau thì thầm rồi nhăn răng cười chế diễu tôi một cách trắng trợn. Người tôi nóng bừng lên vì cơn giận, còn hắn thì vẫn thản nhiên tiếp tục cái động tác ác ôn mà không mỏi tay ngừng nghỉ.
Tôi bước xuống xe - chúng tôi cùng bước xuống xe, ở trạm Puente Pacifico. Chúng tôi đi dọc theo đại lộ Santa Fe. Mọi người ngoái cổ nhìn chúng tôi một cách quái lạ. Tôi nhìn trừng lại họ: "Nhìn gì, bộ mấy người chưa bao giờ trông thấy ai cầm dù đập lên đầu người khác sao chớ!", rồi tôi lại nghĩ chắc họ chưa bao giờ trông thấy cái hoạt cảnh kỳ cục này. Năm bảy đứa con nít bắt đầu chạy theo chúng tôi hò reo chỉ trỏ như một lũ da đỏ quái ác man rợ đang bu quanh hành xử một con mồi.
Ngay lúc đó đầu tôi vừa nảy ra một sáng kiến. Tôi sẽ về nhà lách vội vào bên trong đóng ập ngay cánh cửa không cho gã vào theo, thế là thoát nợ, thật là đơn giản. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng tôi đã không làm được như dự liệu. Trước khi kịp đóng ập cánh cửa, bàn tay hắn đã giữ chặt lại rồi lách vào theo một cách dễ dàng.
Từ bấy giờ trở đi, hắn vẫn đều đặn tiếp tục quất cây dù lên đầu tôi không bao giờ ngừng. Dường như hắn không bao giờ ngủ hay biết mệt. H ắn chỉ biết có mỗi đập cây dù lên đầu tôi, ngoài ra không làm gì cả. Hắn bám sát theo tôi mọi nơi mọi lúc trong mọi hành động, chỉ làm một việc duy nhất đó. Tôi nhớ lúc đầu "cái dù quạt gió" đã làm cho tôi mất ngủ, nhưng về sau này thú thật không có nó tôi không tài nào ngủ được.
Liên hệ giữa tôi và hắn không phải lúc nào cũng êm đẹp. Ðã nhiều lần tôi tra gặng hắn với mọi thứ giọng điệu về lý do điều mà hắn đang làm hay cố moi ra một chi tiết nào về con người kỳ lạ của hắn, nhưng hắn vẫn ngậm tăm im lìm không bao giờ trả lời, tay vẫn không ngừng "quạt gió" trên đầu tôi. Một vài lần nổi điên lên, xin Chúa thương xót, tôi đá, tôi đạp, tôi tống hắn những cú đau điếng, ngay cả giật cây dù dọng lại lên đầu hắn, nhưng hắn vẫn im rơ chịu đựng, làm như những hành động của tôi chẳng có gì đáng kể. Ðiều làm tôi sợ nhất là cái vẻ im lìm trơ trơ cương quyết của hắn. Dường như hắn không biết thù hằn hay tức giận, chỉ im lìm như thóc. Nói tóm lại thái độ của hắn như kẻ kiên gan đang thi hành một công tác thiêng liêng, một mệnh lệnh quan trọng của đấng tối cao nào đó gửi đến.
Ngoài những nhu cầu thể lý mà hắn không cần đến, tôi biết hắn cũng có cảm xúc và biết đau mỗi khi tôi đánh đập hành hạ hắn. Tôi biết hắn yếu ớt, tôi biết hắn lì lợm và có khi tôi nghĩ chỉ cần một phát súng là tôi có thể thoát được hắn. Nhưng điều tôi không thể hiểu là khi cả hai chúng tôi đều ngủm rồi thì hắn có còn tiếp tục đập dù lên đầu tôi nữa thôi. Vả lại tôi cũng không biết viên đạn sẽ nhắm vào đầu tôi hay vào hắn để giải thoát cho chúng tôi. Ðiều giả sử nào thì cũng chẳng đi đến đâu. Tự trong thâm tâm, tôi hiểu rõ là tôi không thể giết hắn hay giết chính mình được.
Về một mặt khác, những lúc gần đây tôi lại cảm thấy không thể sống thiếu những "luồng gió" của cây dù hắn quạt trên đầu. Càng ngày tôi càng lậm sâu vào cái "đam mê" kỳ lạ này. Tôi cảm thấy vô cùng buồn chán và trống rỗng khủng khiếp nghĩ đến một ngày nào đó khi tôi cần hắn hơn bao giờ hết, thì hắn không còn nữa. Tôi sẽ khốn khổ vô cùng vì thiếu luồng gió nhẹ nhàng êm ái của cây dù dỗ tôi vào một giấc ngủ bình yên.
Fernando Sorantino
Phạm Chi Lan phỏng dịch
* Từ truyện ngắn "There's a man in the habit of striking me on the head with an umbrella" của Fernando Sorrentino. Mundus Artium, Vol. 20, University of Dallas, Texas, English Dept.
Sớm Mai
Sớm mai than với Chúa
Ðau thương đã mấy mùa
Súng đạn và nguyền rủa
Thơ nhạc chẳng người mua
Luân Hồ Triệu
English summary:
Nguyễn Trãi, the chief strategist for the Lam Sơn Uprising, wrote Binh Ngo Dai Cao ( The Declaration of the Defeat of Wu) in 1427 after the withdrawal of all Ming invaders. The declaration, in Han prose, oulines the history of Dai Viet (Great Viet), the famous victories over the Chinese invasion since the 10th century, and the sufffering of VNmese people under the Ming domination and the systematic genocide carried out by the Chinese since 1407.
Nguyễn Trãi summarizes the glorious military exploits of the VNmese resistance and the "Tâm Công" (winning people heart) strategy that leads the uprising to total victory. Tâm công is a war strategy as well as a peace visionary roadmap to rebuild the nation, to bring prosperity and happiness to the peoplẹ Warfare is just an undesirable mean to acheive virtue and harmony for the people (việc nhân nghĩa cốt ở yên dân).
The declaration is a litterary masterpiece, a valuable historical document and an insight to Nguyễn Trãi lost book Bình Ngô Sách (Strategy on Defeating the Wu). The modern VNmese version is the popular translation by Bùi Kỷ.
Dương Hùng
Fall 95
BÌNH NGÔ ÐẠI CÁO (1427)
Dương Hùng sưu tập
Sau khi Vương Thông chịu hoà và rút quân Minh về Tầu, Bình Định Vương Lê Lợi sai Nguyễn Trãi làm bài tuyên cáo trước nhân dân Ðại Việt. Nguyễn Trãi viết "Bình Ngô Ðại Cáo" bằng chữ nho theo thể văn xuôi. Bài văn là một áng văn chương tuyệt tác cuả cụ Nguyễn Trãi đồng thời cũng là một văn kiện lịch sử có một không hai.
Bài đại cáo tóm tắt lịch sử VN, duyệt lại hai trận Bạch Ðằng dưới đời Nhà Ngô và nhà Trần, cũng như cuộc Bắc phạt của Lý thường Kiệt. Khi quân Minh lấy cớ phục hồi cơ nghiệp nhà Trần qua xâm lấn Ðại Việt, chúng đầy đọa dân ta:
Nướng dân đen trên ngọnn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
trong khi đó bọn thống trị:
Kẻ há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán .
Bình Định Vương (BÐV) hết lòng vì nước "nằm gai nếm mật" chiêu dụ anh tài khởi nghĩa chống quân Minh. Trải qua bao thăng trầm, lúc hết lương, khi bị vây hãm một phần sống mười phần chết; vẫn một dạ:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo .
nên trời độ, dân giúp lật ngược thế cờ, phá tan giặc dữ, liên tiếp phục thù.
Khi quân chiếm đóng tan tành, Vua Minh sai Liễu Thăng cứu viện. Nhưng Liễu Thăng cũng phơi thây nơi núi Yên Ngựa còn ba quân thây chất đầy đồng, máu trôi đỏ nước. Giặc quị, nhưng Bình Ðịnh Vương không hiếu sát nên tha kẻ đầu hàng, cấp thuyền cho ngựa mà về Tầu. Vương cũng lo dưỡng quân và an dân dựng lại nước. Viết thay cho BÐV, Nguyễn Trãi cũng nêu rõ chiến lược "tâm công" kháng chiến chống Minh:
Ta đây mưu phạt tâm công,
chẳng đánh mà người chịu thua
Ðánh vào lòng người, dù là kẻ thù, thì lấy nhân nghĩa làm gốc, tư tưởng và viễn giác (vision) làm nền. Ðá chọi đá, đá thua thì tan vỡ đã đành, nhưng đá thắng cũng không khỏi rạn nứt, mẻ sứt. Viễn giác của ông là dân an lạc, nước thanh bình thịnh vượng , chứ không phải căm thù hiếu chiến, cởi mở chứ không mãi thắt chặt:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân;
Quân điếu phạt chỉ vì trừ bạo.
Dù mới đuổi xong giặc cướp nước, Nguyễn Trãi cũng nghĩ làm sao cho giang sơn nở mặt, xã tắc vững bền, hẳn cụ cũng đồng ý với lời Trần Hưng Ðạo khuyên vua trước khi mất:
"... phải nới lỏng sức dân để làm cái chước rễ sâu gốc vững. Ðó là phương sách giữ nước hay hơn cả."
Chiến thắng nơi trận mạc đã khó, thắng trận nhân văn, kinh tế khi hoà bình lại càng khó hơn.
Cụ Nguyễn Trãi viết văn rất xoáy động, lúc bi, lúc hùng, lúc sát phạt lúc khoan dung, gom 20 năm chinh chiến gọn trong một bài đại cáo. Cụ viết để nâng lòng dân, hưng thế nước dưng lại quê hương sau hai thập niên đồng hóa khốc liệt.
oOo
Cụ Bùi Kỷ dịch nguyên văn trong tập Hoàng Việt Văn Tuyển ra chữ quốc ngữ như sau:
(Tôi tìm được hai bản dịch Hán sang quốc ngữ; một bản của Trúc Khê, một bản của Bùi Kỷ. Bản Bùi Kỷ đươc trích dẫn nhiều và hay hơn. Nguyên bản Hán văn cũng như bản dịch đều là văn xuôi. Tôi mạn phép ngắt hàng cho dễ đọc và tiện ghi lên "Net". Nếu rủi sai lạc ý cũng như "typo" thì hoàn toàn lỗi nơi tôi; xin quý bạn chỉ rõ tôi xin sửa.)
Tượng mảng:
Việc nhân nghiã cốt ở yên dân;
quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.
Như nước Việt ta từ trước,
vốn xưng văn hiến đã lâu.
Sơn hà cương vực đã chia,
phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Ðinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập;
cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ mỗi phương.
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau song hào kiệt đời
nào cũng có
Vậy nên:
Lưu Cung (1) sợ uy mất viá,
Triệu Tiết (2) nghe tiếng giật mình,
cửa Hàm Tử giết tươi Toa Ðô, (3)
sông Bạch Ðằng bắt sống Ô Mã . (4)
Xét xem cổ tích đã có minh trưng. (5)
Vừa rồi:
Vì họ Hồ (6) chính sự phiền hà,
để trong nước nhân dân oán bạn.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, (7)
bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khoé,
ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân nghiã nát cả càn khôn,
nặng khoá liễm (8) vét không sơn trạch.
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu;
nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim chóc
Tàn hại cả côn trùng thảo mộc,
nheo nhóc thay ! quan quả diên liên. (9)
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán.
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa
Nặng nề về những nỗi phu phen,
bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Ðộc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; (10)
dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất tha cho; ai bảo thần nhân nhịn được.
Ta đây:
Lam Sơn dấy nghĩa; chốn hoang dã nương mình.
Ngắm non sông căm nỗi thế thù;
thề sống chết cùng quân nghịch tặc.
Ðau lòng nhức óc, chốc là mười mấy năm nắng mưa;
nếm mật nằm gai, há phải một hao sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghiã dấy lên,
chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần;
nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
Ðôi phen vùng vẫy , vẫn đăm đăm con mắt dục đông; (11)
mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. (12)
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt,
vẫn mịt mù như kẻ vọng dương;
thế mà tự ta, ta phải lo toan,
thêm vội vã như khi chửng nịch. (13)
Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
phần thì lo quốc bộ khó khăn.
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần;
khi Khôi huyện (14) quân không một lữ.
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng,
bắt trải qua bách chiết thiên ma,
cho nên ta cố gắng gan bền,
chấp hết cả nhất sinh thập tử . (15)
Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới,
ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ;
mở tiệc quân , chén rượu ngọt ngào,
khắp tướng sĩ một lòng phụ tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi;
quân giặc nhiều ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay :
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn;
lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Trận Bạch Ðằnng sấm vang sét dậy,
miền Trà Lân trúc phá tro bay.
Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ mất viá chạy tan;
Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh.
Ðánh Tây kinh, phá tan thế giặc;
lấy Ðông Ðô thu lại cõi xưa.
Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông,
bến Tụy Ðộng xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng; Lý Lương lại phơi thây,
Vương Thông hết cấp lo lường;
Mã Anh khôn đường cứu đỡ.
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao;
ta đây mưu phạt tâm công, (16)
chẳng đánh mà người chịu khuất.
Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui;
ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt.
Cậy mình là phải , chỉ quen đổ vạ cho người;
tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc.
Ðến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Dức (17),
nhằm võ không thôi;
lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng,
đem dầu chữa cháy.
Năm Dinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng tự Khâu Ôn tiến sang;
lại đến tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc quân;
ta lại sai tướng chẹn ngang,
để tuyệt đường lương đạọ
Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng,
hai mươi Liễu Thăng chết ở Mã Yên.
Hai mươi nhăm, Lương Minh trận vong,
hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn.
Lưỡi dao ta đương să'c; ngọn giáo giă.c phải lùi.
Lại thêm quân bốn mặt vây thành;
hẹn đến ră`m tháng mười diệt tặc.
Sĩ tốt ra oai tì hổ;
thần thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn;
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Ðánh một trận sạch không kình ngạc;
đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô;
tổ kiến hổng sụt toan đê cũ.
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi;
Hoàng Phúc tự trói để ra hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đồng;
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân cũng đổi;
Thảm đạm thay! sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân Nam ghẽn ở Le Hoa, sợ mà mất mặt;
quân Mộc Thạnh tan chưng Cầu Trạm, chạy để thoát thân.
Suối máu Lãnh Câu, nước sông rên rĩ;
thành xương Ðan Xá, cỏ nội đầm đìa.
Hai mặt cứu binh cắm đầu trốn chạy;
các thành cùng khấu, cỏi giáp xuông đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội;
thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho dăm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể không thôi trống ngực.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngưạ,
về đến Tầu còn đổ bồ hôi.
Nó đã sợ chết cầu hoà, ngỏ lòng thủ phục;
ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi. (18)
Thế mới là mưu kế thật khôn,
vả lại suốt xưa nay chưa có.
Giang san từ đây mở mă.t, xã tă'c từ đây vững nền.
Nhật nguyệt hối mà lại minh; (19)
Kiền khôn bỉ rồi lại tháị
Nền vạn thế xây nên chăn chắn,
thẹn ngnhìn thu rửa sạch lầu lầu.
Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở,
Giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảng nhung y, nên công đại định;
Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần; ngỏ cùng nghe biết ./.
(Dương Quảng Hàm, VN Văn Học Sử Yếu, trang 273-276)
Chú giải:
(1) Lưu Cung: Vua Nam Hán sai Thái tử Hoàng Thao sang đánh bị Ngô Quyền phá tan tại trận Bă.ch Ðă`ng năm 938. Hoàng Thao bị tử trận, Lưu Cung không giám vượt biên giới, bèn rút đại quân về nước.
(2)Vua Tống sai Quách Quỳ và Triệu Tiết đem quân sang đánh nước ta bị Lý thường Kiệt đánh bại tại Như Nguyệt (1076).
(3) Quân nhà Trần giết Toa Ðô nơi trận Hàm Tử (1285)
(4) Ô Mã Nhi bị bă't sống tại sông Bạch Ðằng (1287) khi quân Nguyên xâm chiếm Ðại Việt lần thứ bạ
(5) có minh trưng : có bă`ng chứng rõ rệt.
(6) Hồ Quý Ly soán ngôi NhàTrần lập Nhà Hồ (1400-1407). Lấy cớ phục Trần, quân Minh thôn tính Ðại Việt.
(7) tứ ngược+ = hết sức bạo ngược
(8) khóa liễm = thuế má
(9) quan= người goá vợ ; quả = người mất chồng; điên liên = người không nhà, không nơi nương tưạ
(10) trúc rừng = không đủ trúc để chẻ thanh đặng chép sử ( thanh sử = sử xanh)
(11) dục đông = tiến về hướng đông, Ðông Ðộ
(12) cỗ xe trống chỗ bên trái, ý cầu hiền
(13) chửng nic.ch = vớt kẻ chết đuối
(14) Khôi huyện = nơi Lê Lợi bị quân Minh bao vây (1422)
(15) mười phần chết một phần sống
(16) tâm công = đánh vào lòng người, dùng tư tưởng, lòng nhân để thu phục kẻ thù.
(17) Vua nhà Minh
(18) Đoạn này kể tên những bại tướng nhà Minh và những trận thắng của quân Ðại Việt.
(19) mặt trời, mă.t trăng mờ rồi lại tỏ
SÁCH ÐỌC THÊM:
Võ Văn Ái, Nguyễn Trãi Sinh thức và Hành động, Quê Mẹ, Paris, 1992
Dương quảng Hàm, VN Văn Học Sử Yếu, Saigòn, 1968
Phạm thế Ngữ, VN Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quyển 1.
Phạm văn Sơn, Việt Sử Tân Biên, quyển 2.
Viết bài này để tưởng nhớ Kiến Trúc Sư Nguyễn Huy (1941-1995), 20 năm không gặp mặt nay nghe tin đã mất.
DMH
082895