vhnt, số 108
24 November 1995
Trong số này:
+ thư vhnt
+ thư bạn đọc
+ giới thiệu người viết: Chinh Đinh và "Này Nhân Gian"
+ 1 - thơ, Thơ trẻ Saigon...............................Dung Nguyen gửi
- Bọt..............................................Châu Quang Phước
- Những giấc mơ trên đồị.....................Nguyễn Danh Lam
+ 2 - thơ, Lưng Thơm Hương Ngát.........................Nguyễn An-Vy
+ 3 - thơ, Ở Nguyễn Tri Phương....................Cỏ Nhớ/Lộc Quy
+ 4 - điểm sách, "Nhật Ký" của Phan thị Vàng Anh...Lưu Hương/DN
+ 5 - thơ, Mây trắng.................................Đặng Khánh Vân
+ 6 - biên luận, Tây Du Ký............. Vương Hồng Sển/Anson Binh
+ 7 - truyện ngắn, Bi Ðông Hoang Đảo (phần 2/4)........Thai Nguyen
Cuối tháng mười một, gió êm ngát trong ngày và nắng mát mẻ, thỉnh thoảng nổi lên cơn lộng cuốn những cành lá bay chấp chới, như một cơn mưa confetti lá. Trong rừng thông, lá nhộn nhịp và trái khô rụng, mầu nắng rực rỡ, vàng óng như quyện mật và no ứ giô Những đám mây viển vông thoáng chốc, trời nguyên vẹn sắc trong, đỉnh đồi sáng tỏ ngời ...
Thời tiết đang độ giao mùa, có những hôm trời đẹp dễ chịu, lại có những hôm lạnh se sắt. Tôi không có chi phàn nàn về mùa thu. Tôi đón nắng buổi sáng và đi về với cái lạnh ban đêm, với những công việc và lại thêm rất nhiều công việc khác cho gia đình, nên không gửi báo VHNT ra cho bạn đọc vài hôm nay, mong bạn thông cảm. Ngày lễ Tạ Ơn tôi ngồi bên giường bệnh của mẹ trong bệnh viện, xem những đám múa và diễn hành đủ mầu sắc trong màn ảnh truyền hình, và nhớ đến món nợ mà tôi chưa gửi cho bạn. Mẹ tôi nằm mê man, mặt bà bình yên. Mẹ tôi lại vừa trải qua một cơn thập tử nhất sinh. Thanksgiving năm nay, tôi có nhiều điều để tạ ơn, nhưng không có một bữa tiệc với gia đình, có gà tây nướng và những món ăn thịnh soạn như tập tục của người bản xứ. Tôi chỉ biết ơn trong lòng rằng tôi còn mẹ, còn có những giây phút bình yên, êm tĩnh trong đêm, lắng dịu trong ngày, và còn có diễn đàn VHNT, cùng những bạn đọc đã đóng góp, lo lắng, và cùng thưởng thức nó.
Vẫn nhận được đầy đủ bài gửi về, nhưng chưa đăng kịp vì mấy hôm lễ và bận rộn vừa qua, mong bạn thông cảm.
VHNT số này giới thiệu Chinh, một cây bút có bài đăng thường xuyên. Chinh còn trẻ, lại có lòng với văn chương nghệ thuật, con đường của Chinh còn rất dài và còn nhiều hứa hẹn. Thơ Chinh ngọt như giòng nước dịu và cũng nhiều trăn trở hun hút, VHNT xin giới thiệu Chinh cùng bạn đọc.
Chúc bạn đọc một ngày vui và bình an.
thân ái,
PCL/vhnt
Thư Bạn Đọc
Chào chị Chi Lan và các bạn,
Ðọc mục thư tín vhnt số 106, thấy chị Lan có ý kiến rất hay là giới thiệu các cây bút có bài thường xuyên trên diễn đàn vhnt để chúng ta có dịp biết rõ hơn về các tác gỉa mà văn tài đã làm chúng ta cảm mến.
Tôi đồng ý hoàn toàn, và cũng mong là các anh trong nhóm điều hành hy sinh thêm một chút thì giờ nữa :-) để độc gỉa có thể biết thêm về các tác gỉa đã bỏ nhiều tâm huyết vào diễn đàn này.
Nói đến đây thì tôi lại nhớ đến những vị đã sáng lập và điều hành vhnt từ khi thành lập đến nay, mà như tôi biết thì gồm có chị Lan, anh Việt và anh Ðiềm.
Riêng chị Lan thì ngoài phần vụ điều hành rất xuất sắc, còn đóng góp rất nhiều bài vở cho vhnt, nếu không nói là nhiều nhất: 13 bài cho tháng 10; 25 bài cho tháng 9; 16 bài cho tháng 8 và " bao dàn " cho tháng đầu tiên. Ðó là chưa "bàn" đến các cải tiến , các sáng kiến , các lời khuyến khích... để tạo một bầu không khí thân mật thoải mái cũng như để phát triển vhnt.
Vậy tôi xin đề nghị với tất cả các bạn ,chúng ta cùng yêu cầu Ban Ðiều Hành hãy giới thiệu tiểu sử và chân dung của chị Lan như là một tác giả đã đóng góp bài vở nhiều nhất và thường xuyên nhất. Và nếu có thể được, xin giới thiệu cả ban Ðiều hành nữa.
Ðể kết thúc, vì hiểu đức khiêm tốn của quí bạn, tôi xin mượn một bài đồng dao đã có công năng bắt một vị anh hùng cái thế cổ Trung Hoa phải dời đô, để "ép" các bạn xuất đầu lộ diện. ;-)
Kim hữu nhất nhân
Cách bích dao linh
Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình
Phú qúy bất quy cố hương, như cẩm y dạ hành
tạm dịch:
Nay có một người
(Ðứng) cách tường (mà) rung chuông.
(Chỉ) nghe tiếng (chuông), (nhưng) không thấy hình (người) .
Phú qúy không về quê cũ, như (mặc) aó gấm đi đêm.
Thân ái :-)
Thái Vũ
Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
C h i n h Đ i n h
Tên thật: Đinh, Chinh
Bút hiệu: Chinh
Tuổi: 25
Hiện đang định cư ở vùng nào: Annandale, Northern Virginia
Công việc đang làm: software engineer.
Quá trình sáng tác: thường làm mấy bài thơ ngắn khi nghĩ đến một người, một nơi chốn, một hình ảnh nào đó. Cũng có thể làm thơ theo cảm xúc từ một câu/bài hát (tùy theo tâm trạng). Những bài thơ đó vì vậy luôn xuất phát từ cảm xúc rất thật. Khi làm thơ/viết văn, không quen tưởng tượng.
Ðã đăng bài ở những báo nào: chưa đăng bài ở báo nào.
Nguyên do sáng tác, những suy nghĩ về văn chương, quan niệm về sáng tác, sáng tạo:
Sáng tác chỉ cho vui. Chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ cố gắng làm một thi sĩ hay văn sĩ. Những tác giả, tác phẩm ưa thích:
Tác giả: Francoise Sagan, Albert Camus, Boris Pasternak, Nguyễn Tuân, Trịnh Công Sơn, Văn Cao, Huy Cận, Bùi Giáng, Nguyễn Ðức Sơn, Hoàng Ngọc Tuấn, etc.
Tác phẩm: Aimez-Vous Brahms?, The Great Gastby, The Stranger, Dr. Zhivago, Vang Bóng Một Thời, Lửa Thiêng, Chùa Ðàn", etc.
Và bất cứ điều gì anh chị muốn cho biết về cá nhân mình:
- Học xong trung học Marie Curie, Sài Gòn (1986-1988).
- Học (chưa xong) đại học Bách Khoa, Khoa Ðiện Toán (K88), Sài Gòn.
- Bachelor of Science, Computer Science, UVA (ra trường 1995).
- Hối tiếc đã chọn sai ngành học (CS).
- Ước mơ: trở thành họa sĩ.
oOo
Này Nhân Gian...
này nhân gian, có nghe đời nghiêng...
tcs
Vầng trăng xưa đã biệt ly mãi mãi
Cánh nhạn chẳng bao giờ về.
Mỏi trông mùa xưa vàng trở lạị
Ôi, chẳng còn ai...
Chẳng còn ai giữa nhân gian sầu thảm
Ta đành uống rượu một mình, một mình thôi.
Ly rượu ngọt ngào ru ta lời cuối.
Sao lời ru dài như một giòng sông?
Nhớ lại đi, ký ức khô mòn,
như những sợi tóc rơi vào bàn tay trống.
Tóc bạc để làm gì?
Rượu cạn để làm gì?
Con gió nào thổi đầy những đóa thiên thu.
Ngoài cõi trống.
Nhớ lại đi, tình kia thảng thốt
như tiếng chuông khuya,
hôm nào đánh thức một hồn câm.
Mênh mông cố quận người rời xa ai
cho tình vắng qúa một đêm dài...
Nhớ lại đi, trong chút vàng son rơi sót lại
sau một trăm năm mệt nhoài chia tay
Một trăm năm, một ngày buồn.
Sao tháng ngày dài như một vết thương?
Vầng trăng xưa đã biệt ly mãi mãi
Cánh nhạn chẳng bao giờ về.
Mỏi trông mùa xưa vàng trở lại.
Ôi, chẳng còn ai...
11.21.1995
Chinh
Thơ Trẻ Sài Gòn
Bọt
tặng Chính 7A
Như con ngựa chiến bãi hoang quạng
giò rung cú hậu
Ta say giấc mơ tình lẫm đẫm ngày yêu
Ngột lời hoa nẻo cát
Rút hoác gờ môi phức điệu
Bóng con chim ăn đêm gù gật
Rặng sương dật dờ vũng nắng
Khi cô bé lần xưa vụt trở gót quay về
ru bời gió lẳng
Ta tự ép cánh mỏng vùng ta vào đoạn
thức
Âm
Chờ ẩn ngữ ban chiều
Em cởi bỏ
Vệt mù mờ ta rồi thắt nút hình nơ
Nhớ buổi mưa dông trời sửng nắng
chơ ngơ
Cột rơm nghiêm đồng nhốt rạ
Ta bội thực ôm cái đợi không tên
Cô bé đến
Rồi quên
Nhớ bờ sông chảy tóc vây vơ rêu đụn
đóng
Ta chơi xa về trễ
Cô bé giật mái nhà chòi bùn trôi cỏ phế
Rồi quên
Nhớ vòng hoa hè choàng qua vực lá
khép hờ
Cô bé và ta
Rồi quên
Không dưng giờ vỡ dãy nước mắt
ngân hà băng xuôi ngõ về cách biệt
vòng nhật nguyệt
Bọt gió đòi yêu!
Châu Quang Phước
oOo
Những Giấc Mơ Trên Đồi
Những đám mây lờ lững
Sớm tinh mơ
Sương dát ngọc trên đồi
Bầy trẻ ngồi nghe câu chuyện cổ
Về một vương quốc xa xôi
Những đám mây lờ lững
Hanh hanh đồi nắng lên
Bầy trẻ tản ra
Mỗi đứa tìm một bóng mát
Ngồi nhớ lại câu chuyện cổ
Cười vu vơ một mình
Những đám mây lờ lững
Ong ong đồi nắng trưa
Bầy trẻ thấm mệt
Nằm thiêm thiếp
Câu chuyện cổ tan trong từng giấc mơ
Những đám mây lờ lững
Bầy trẻ theo nhau về
Câu chuyện cổ chẳng đứa nào nhớ nữa
Bay theo từng giấc mơ
Những đám mây lờ lững
Lẫn dần vào bóng đêm
Trên đồi chỉ còn tiếng dế và cỏ ướt
Những giấc mơ im lìm...
Nguyễn Danh Lam
trích báo TT 19-9-1995
Dung Nguyen sưu tầm
Tuy mùa chỉ mới vào Ðông, xin được ra mắt các anh chị bằng một bài thơ Xuân - một niềm hy vọng vào ngày Xuân quê hương không còn xa nữa.
Lưng Thơm Hương Ngát
Khi trời mới vừa bắt đầu lạnh là
tôi đã lo ủ mấy củ Uất Kim Hương
cho mùa Xuân năm tới. Những đêm gió
lộng tôi thích nằm nghe tiếng cây
hoa gạo trước nhà rung, như tiếng sóng
của biển từ đâu rào về, và nghĩ tới
những củ hoa nhỏ vẫn hiên ngang âm thầm
lớn lên trong lòng đất ẩm. Rồi đây
khi muà Xuân trở lại, những búp hoa thon
mướt sẽ vươn cánh, tô thêm lên mảnh
vườn lưu vong của tôi một luồng sinh
khí rực sắc.
Lưng thơm hương ngát một cồng hoa
Cô con gái hát đem Xuân về làng
Rặng cây gốc lúa bên đường
Lặng yên đủng đỉnh tà dương xuống dần
Làng xa mấy nóc nhà gần
Cơm chiều đến buổi khói hồng với nhau
Ráng xa đáp nhịp chân thâu
Ðường quê len lẻn đất mềm dõi theo
Mau mau, chân dẵm bụi hồng
Kẻo đường dài nỗi mẹ già ngóng trông
Chuông chiều nhẹ dấy thinh không
Gà đà cục tác gọi con lên chuồng
Mâm tròn cơm trắng tương thơm
Bữa cơm đạm bạc đậm nồng tình thân
Hương cau tươi đón ngoài sân
Vai hoa canh cánh trời Xuân mang vào.
AnVy
1986
Ở Nguyễn Tri Phương
Em về tìm lại hồn cây cỏ
hỏi chuyện nhân gian nhớ chạnh lòng
em, nhiều năm trước cô chủ nhỏ
em, bây giờ nước mắt mênh mông.
Cô chủ nhỏ tìm hoài mất dấu
nhà xưa thay chủ đổi ngôi buồn
hoa giấy rụng xác bay về đậu
sân nhà người hiu hắt mù sương.
Năm tháng lớn hao mòn tuổi dại
chảy thêm dòng nước mắt ly hương
giọt nào đi giọt nào ở lại
với nhà thay chủ đổi ngôi buồn.
Cỏ Nhớ
Điểm sách: truyện ngắn Nhật Ký - Phan Thị Vàng Anh
Ðược khóc là một điều sung sướng
Phan Thị Vàng Anh
Ðã có bao giờ bạn rơi vào trạng thái không biết mình muốn gì và cần phải làm gì chưa? Nếu chưa thì điều đó thật là may mắn vì nói như một nhân vật trong truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh thì "một đất nước với những thanh niên như Khanh sẽ không bao giờ làm nên chuyện gì; những người không muốn điều gì và cũng không muốn điều gì và cũng không biết mình phải ham muốn điều gì!"
Hàng ngày Khanh phải trải qua một cảm giác mà cô hết sức căm ghét, cảm giác lửng lơ, không màu sắc, không xao động, không có gì vui, không có gì mới lạ. Chính cảm giác đó đã dần dần giết chết những xúc cảm tốt đẹp trong tâm hồn cô. Cô trở nên dửng dưng trước niềm vui cũng như nỗi bất hạnh của người khác. Vừa hỏi han bạn bè, cô vừa tự phân tích cảm giác thật sự của mình, và cảm thấy ngượng ngùng vì đàng sau những lời nói đầy vẻ quan tâm ấy là một sự thờ ơ đến lạnh lùng. Cảm giác khô cứng, tâm trạng uể oải, Khanh không rõ mình đang vui hay đang buồn. Cô cảm thấy mình đang chết, cảm thấy trái tim mình đang cằn cỗi dần đi trước những khuôn mặt quen thuộc đến mỏi mệt trong những khung cảnh chật chội giống nhau đến chán chường. Thầy giáo khuyên cả lớp nên ghi nhật ký, nếu không ghi được gì phải coi chừng, Khanh giở trang nhật ký ra rồi lại lên gường ngủ, cô không biết phải viết gì vào đấy. Người ta chỉ ghi nhật ký khi có một cái gì đấy đáng ghi, đáng nhớ. Chẳng ai ghi nhật ký bằng những dòng: sáng tôi ăn, tôi đến trường, chép bài, ra chơi, rồi chép bài, rồi cà phê; tối tôi học, tôi ngủ, rồi sáng tôi lại ăn, tôi lại ngủ...
Nhưng hôm nay, tại lớp học thêm tiếng Anh buổi tối, có một người đã làm cô phải khóc vì hổ thẹn, và điều này đáng ghi vào nhật ký vì đã lâu lắm rồi cô không khóc cũng không cười. Người ta thỉnh thoảng cũng phải có chuyện gì đó để mà khóc mà cười chứ!" Một cuộc sống lặng lờ cũng như một vở kịch không cao trào, muốn khép màn lúc nào cũng được." Với một cuộc sống như vậy, cô đã từng nghĩ: "Bây giờ mà chết cũng không có gì để tiếc!" Người ta chỉ tiếc khi rời bỏ cuộc sống khi còn bao nhiêu việc chưa kịp làm, khi biết rằng cuộc đời còn nhiều điều hấp dẫn và mới la, rằng những người thân yêu đang cần đến ta cũng như ta muốn được gần kề họ. Trong trời chiều sụp tối, Khanh vừa đi vừa lau nước mắt, vừa đi vừa lau nước mắt, vừa mỉm cười và khẽ nói hai chữ "cám ơn." Cô cám ơn anh bạn lái xe học cùng lớp tiếng Anh buổi tối đã cho cô thấy bấy lâu nay cô đã không sống cho ra sống cũng như không học cho ra học. Lần này cô không còn phải trải qua cảm giác lửng lơ không màu sắc nữa.
Tôi gấp tập truyện của Phan Thị Vàng Anh vào rồi mở cuốn sổ nhật ký của mình ra. Hôm nay có điều gì đáng ghi nhận? Hôm nay tôi đã đọc truyện ngắn "Nhật ký" của Vàng Anh và tôi cũng muốn có một ai đó để tôi nói lời "cám ơn" và để được... khóc. Ðược khóc vì một điều gì đó còn sung sướng hơn là muốn khóc mà không có lý do gì để khóc. Cái tâm trạng mệt mỏi, chán chường của nhân vật Khanh mỗi người trong chúng ta đều đã từng trải qua:mệt mỏi, chán chường vì sống không có hoài bão và mục đích nào cả, mệt mỏi chán chường vì những toan tính vặt vãnh của đời thường...
Lưu Hương
Mây Trắng
Mây trắng đơn sơ, mây trắng ngần
Một màu trắng xóa của phù vân
Lãng du trong gió, chẳng bâng khuâng
Tìm đến thiên thai - lánh cõi trần!
DKV
Sự Thật Về Thầy Trần Huyền Trang,
tức "Ðường Tam Tạng", Đi Tây Phương Thỉnh Kinh
trích Con Ngựa Già Của Ðường Tam Tạng của Vương Hồng Sển
Mọi người Việt Nam chúng ta, ai ai cũng đã từng được nghe kể lại, hoặc đọc truyện Ông Ðường Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký diễn nghĩa. Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, bộ Tây du ký diễn nghĩa có cái đặc điểm ngộ nghĩnh là trẻ nhỏ đọc thì mê theo trẻ nhỏ; người lơn đọc thì lại say sưa theo người lớn. Trẻ nhỏ thì thích Tây Du Diễn Nghĩa thần thông quảng đại, có bảy mươi hai phép biến hóa, có Trư Bát giới chọc cười duyên dáng... Còn người lớn thì say mê vì những ý nghiã thâm trầm, trào lộng.
So với các bộ tiểu thuyết danh tiếng khác như Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử v..v... phạm vi phổ biến của Tây Du diễn nghĩa còn rộng hơn nhiều. Căn cứ theo bộ truyện Tây Du Diễn Nghĩa, thì thầy trò Tam tạng gồm bốn người ( Tam Tạng, Ngộ Không, Ngộ Năng, Ngộ Tịnh ) và một con ngựa (bạch mã) tướng tinh là rồng mắc đọa. Cả đòan đi qua Tây phương ròng rã 14 năm trời, khi thỉnh được kinh trở về có tám vị Kim Cang đằng vân theo hộ tống đưa về Trường An, vừa khứ hồi trở lại Tây phương cõi Phật chỉ mất có tám ngày vãng phản. Truyện kể bốn thấy trò và một ngựa ngày đêm vượt rừng trèo núi, gặp yêu dẹp yêu, gặp phước làm phước, gian nan không sờn, tử sanh chẳng nệ, trải qua tám mươi mốt nạn lớn, nào là Bàn Ty Động quyến rũ, nào là hỏa diệm sơn đỏ hực, Tiểu lôi kinh khủng v..v... mới đến được Tây phương.
Trong truyện vì làm việc của Tam Tạng là khó, không ai làm được, nên muốn cho dân chúng dễ tin, phải thêm thắt và thi vị hóa cuộc hành trình bằng bao nhiêu yêu tinh đón đương, lớp đòi ăn thịt Ðương Tăng, lớp cám dỡ chuyện bảy con nhện cởi truồng tắm sông có Bát Giới tắm hùa, còn khêu gợi gấp mấy chuyện ngày nay in hình khiêu dâm. Thực sự, Tay du diễn nghiã là một bộ truyện thần thoại, hầu hết sự kiện, tình tiết đều là bịa đặt.
Nhưng chuyện thầy Trần Huyền Trang ( Tam Tạng) đi từ Ðông Ðộ qua thỉnh Kinh Tây Phương lại là chuyện lịch sử có thật. Trần Huyền Trang là một nhân vật có thật trong lịch sử nhà Ðương. Ông tên thật là Trần Vỹ, sanh vào năm thứ 16 đời Tùy Văn Ðế Dương Kiên (596 sau TL) tại huyện Câu Thi (hiện là Huyện Yêm Sư) Tỉnh Hà Nam. Và chuyện thỉnh kinh Tây Phương cũng là chuyện có thật, đã được chính Huyền Trang thuật lại rất cặn kẽ trong bộ: Ðại Ðường Tây Vực Ký. Thầy chính là một nhân vật sống đã vào lịch sử một cách vinh quang. Thầy từng làm tôi cho vua Ðương Thái Tôn (Lý Thế Dân) là bậc minh quân đem lại hiển vinh cho lịch sử Trung Quốc.
Sự thực thầy Huyền Trang chỉ đi một mình cỡi, một con ngựa già làm chân. Ông đi và ở suốt 17 năm bên Tây phương, gồm 2 năm đi, hai năm về và 13 năm ở lại du lạc tại Ấn Ðộ. Ði từ năm 629 mãi đến năm 645 (sau TL) mới về đến thành Trường An (Trung Quốc). Tính ra Huyền Trang đã rơì Ðại Ðường đến 17 năm, đi trên năm vạn dặm đường, qua 128 quốc gia lơn nhỏ. Khi về, ông đã mang về:
- 150 Xá Lợi Tử (tinh cốt của Như Lai)
- 2 tương Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước
- 3 Tương Phật bằng đàn hương: Cao 3th5, 2th9, 2th3
- 657 bộ Kinh, chia làm 520 hiệp
- Cùng một số bảo vật khác nữa. Và phải dùng voi, lạc đà và 24 ngựa Mmi chở hết.
Trên thực tế, đường đi không có gặp yêu tinh cản trở, cCó chăng là bọn mọi dữ thích ăn thịt người, nhưng những khó khăn trở ngại cản trở lẫn vật chất và tinh thần lại hết sức nhiều và lơn, nếu là người khác ắt vô phương vượt khỏi. Có lúc Thầy Huyền Trang nhịn đói nhịn khát suốt bảy tám ngày ròng rã giữa một trảng sa mạc trời nắng chang chang, không một bóng cây, cũng không một bóng người qua lại. Nhưng ý chí của Thầy thật là sắt đá. Có lần đói khát khổ qúa, bụng tính quay trở về phiá đông để tìm chỗ xin nước uống đem theo rồi sẽ đi nữa, nhưng vừa quày ngựa trở về hương đông đi đặng một đỗi đường thầy lại tự nhủ: "Trước kia, đã thề nếu qua không đến Ấn Ðộ, quyết không trở về Ðông một bước. Nay thà đi về hướng Tây mà chết, chớ lẽ nào đi về Ðông để sống hèn".
Một lần khác, thầy gặp bọn mọi ăn thịt người (tức bọn yêu tinh kể trong truyện Tây Du). Thầy Tam Tạng sẵn lòng hiến thân cho bọn quỷ khát máu ấy. Nhưng giữa lúc bàn tính, xảy có mưa to sét lơn. Bọn người rừng kinh sợ vì cho rằng trời không bằng lòng Chúng lật đật giục thầy lên đương, nhưng thầy khăng khăng một mực nài bọn kia: hoặc hãy "ăn thịt Thầy" nếu qủa thật thầy có phép làm cho bọn nó sống lâu muôn tuổi, hoặc nếu bọn chúng muốn cho thầy lên đương thì phải ăn năn sám hối, chừa thú tánh, chừa ăn thịt người từ đây. Và rốt cuộc Tam Tạng cải hóa được bọn chúng. Hơn một ngàn ba trăm năm trước đây dám một người một ngựa vượt suối trèo non, băng sa mạc, càn rừng sâu đi đến xứ Ấn Ðộ huyền bí xa xăm, Trần Huyền Trang qủa là một nhà du thám vĩ đại trong lịch sử. Kỳ công đó, tinh thần nghị lực đó, người đời sau không thể không nghiêng mình bái phục.
Trong thơì gian mươì ba năm luu trú tại Ấn độ, thầy đi viếng hầu hết các di tích của đạo Phật, đặc biệt nhất là thầy ở lại chùa Na Lan Ðà, học đạo trong sáu năm. Tất cả những kinh điển của phái Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Kinh Phệ Đà (Veda), các sách thuốc, sách thiên văn, địa lý, kỹ thuật v v... đều tập trung tại chùa này. Chùa do pháp sư Giơí Hiền chủ trì và pháp sư có đến trên mươì ngàn tín đồ theo học đạo.
Sau sáu năm học tập, Huyền Trang trở nên một trong ba người học trò giỏi nhất của vị cao tăng Giới Hiền. Theo sách khảo cứu Pháp văn, chẳng những là một nhà sư đạo đức, Huyền Trang còn tỏ ra là một học giả uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một địa lý hoc chơn tài, một ngôn ngữ học xuất chúng, nhứt là một nhà phiên dịch giỏi không ai bằng. Lúc còn ở Tây Phương, đi đến đâu, thầy cũng nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình từng địa phương. Khi về Trương An, thầy viết lại thành bộ Ðại Ðương Tây Vực Ký, gồm 12 quyển, trong ấy ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục, tập quán v.v... của 128 nước đã đi qua hoặc từng trú ngụ. Ngày nay, những tài liệu của Thầy để lại vẫn còn giúp ích rất nhiều cho các chuyên gia khảo cổ Ấn Ðộ và bất kỳ ai ngày nay cũng công nhận những điều nghe thấy và ghi chép của Thầy Huyền Trang rất là đích xác.
Từ ngày về Trường An, thầy Huyền Trang bắt tay vào công việc phiên dịch. Suốt mười chín năm ròng rã (từ 645-644) thầy dịch được tất cả bẩy mươi lăm bộ kinh, gần một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển từ Phạn tự dịch qua Hán tự và một bộ (Ðạo đức Kinh) và một bản dịch "Ðại Thừa Khởi Tín Luận" từ chữ Hán ra chữ Phạn, cùng để lại cho đời một bộ "Ðại Ðường Tây Vực Ký".
Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bịnh hoạn và già yếu. Thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Ngày cử hành tang lễ có đến một triệu ngươì ở Trương An và các vùng lân cận qui tựu để tiễn chân thầy về nơi Cực Lạc. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần. Từ xưa đến nay chưa có vị đế vương nào được ngương mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này.
Vương Hồng Sển
trích : Ðặc San Quan Thế Âm, số 2, 1995
Quan Thế Âm Ni Tự - AUSTRALIA
~ ~ ~ .
\,|./ . . ~ . ~
-{, .}- . ~
/ | \ ~ ~ . ~ B I D O N G
_ _ _ _
~ /%\/%\ ~ /%\/%\ H O A N G Đ Ả O
__.<%%%#%%\,_ <%%#%%%\,__
~ <%#%%%%%%%#%%%\ /^%#%%%%%%%#%\ Thai Nguyen
""/%/""\ \""\@| |/""'/ /\""""'
~ L/ ` \ \ ` " / / ```
` \ \ ~ / / ~ (Phần 1/4)
~ ~ \ \ / / .
. \ \ ,,, / / ~
~ . ':;\ \iii/ /|k/ ~ .
Sau năm ngày đêm trôi dạt trên biển cả, con thuyền nhỏ chúng tôi được chiếc tàu dầu Anh vớt. Họ cung cấp thực phẩm và cho tạm trú hai ngày trước khi đưa chúng tôi vào trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai. Khi con tàu chuyển chúng tôi vào đảo Bidong, mọi người đều mừng vui hớn hở cho bước đầu thành công trên đường tìm tự do. Xa xa sau làn sóng trắng lăn tăn chúng tôi thấy những mái nhà cây, những tấm phên nhựa xanh tung bay phất phới như một cảnh hội chợ náo nhiệt với lố nhố người dọc theo bờ biển như đón chờ mong mõi gặp chúng tôi.
Cuối cùng chúng tôi được bước lên cây cầu Jesty trên đảo Bidong. Một sự thất vọng lan tràn trên mặt mọi người. Một đám cảnh sát Mã Lai và vài người Việt Nam trong ban trật tự ra giải chúng tôi như tù binh vào khu vực cảnh sát Mã Lai. Họ ra lệnh chúng tôi phải ngồi bệt xuống đất theo thứ tự, không được nói chuyện với người bên ngoài. Tôi có cảm tưởng như mình là con thú trong thảo cầm viên cho mọi người đồng hương đứng bên ngoài hàng rào xem nhìn bàn tán. Những người ngoài hàng rào đến "xem" chúng tôi đông lắm. Chúng tôi cố tìm trong họ có bạn bè thân thiết nhưng vô dụng vì không thể nhìn hết được một số người qúa đông như đi xem hội "người tị nạn mới đến." Sau một thời gian khá lâu, họ gọi từng gia đình vào phỏng vấn tên tuổi và cấp "nhà ở". Trên chuyến ghe chỉ có tôi và anh Tuyển là 2 người độc thân nên không được cấp "nhà". Họ hỏi tôi muốn ở với ai, tôi liền đáp:
- Cho tôi ở với gia đình bạn thân tôi là Hạ.
Cuối cùng chúng tôi cũng được thoát ra khỏi "ty cảnh sát" Mã Lai. Họ chia chúng tôi ra theo từng hộ và dẫn đi đến "nhà" cung cấp. Quái lạ họ không dẫn tôi đi với gia đình Hạ, mà họ đưa tôi và anh Tuyển đến ở chung với gia đình cô Hà cùng trên chuyến ghe. Tôi mới vỡ lẽ ra vì họ nhầm lẫn hai chữ "Hạ" và "Hà" như nhau chỉ khác dấu. Tôi thật hoang mang không biết đảo này bao lớn, rồi tôi có gặp lại bạn tôi và những người thân quen.
Vào đến nhà cô Hà tôi mới giật mình, thì ra tôi "phải ở" chung nhà với hai cô bé được mẹ đút cơm ăn. Lúc trước có Hạ còn bạo dạn chọc, bây giờ chỉ có một mình tôi làm sao đấu khẩu lại hai cô bé chứ? Gia đình cô Hà gồm có anh Tâm là cháu cô Hà, cô Khánh em cô Hà và hai cô bé con cô Hà không cho tôi biết tên. Ngày đầu tiên họ chẳng phát cho thứ gì cả ngoài mấy bao gạo. Nồi niêu chén đĩa đều không có, tôi phải lần dò hỏi thăm nhà của gia đình Hạ để đến "mượn" một số đồ ăn và đồ dùng. Tôi vào rừng chặt mấy khúc cây khô đem về nhà chụm lửa nấu cơm. Hôm đó chúng tôi chỉ ăn cơm với nước tương. Trong trại họ nói đồ ăn họ sẽ phát một tháng hai lần. Còn một tuần nữa mới phát lương thực. Nhìn những bịt gạo nằm cho vơ trong xó chòi mọi người đều nản lòng. Chiếc loa phóng thanh vang lên những bản nhạc buồn thắm thía cho người tị nạn. Ðôi khi bị gián đoạn bởi những tin tức hoặc nhắn tin. Bỗng nhiên tôi nghe rõ tên mình trên loa: "hãy lên phòng thông tin gặp người thân." Tôi đang nằm vắt tay chán nản ngồi vụt dậy chạy đi trong niềm vui lây của mọi người trong nhà. Tim tôi rộn rã "không lẽ điện tín trên tàu dầu đã đến tay ba tôi bên Mỹ." Khi đến phòng thông tin tôi bỡ ngỡ nhìn thằng bạn đã hơn hai năm không gặp:
- Ê Thái ! Mày nhớ tao không? Ðường Tuấn đây nè, Tuấn 9A1 đó.
- Ủa! mày cũng ở đây à tao tưởng mày đã qua Mỹ rồi chớ.
- Còn lâu, diện hốt rác mà mày, đã gần "hai năm tù" rồi.
- Thôi, đến nhà tao chơi, kẻo người nhà đang trông.
- Bộ có gia đinh mày đi chung à?
- Không ! Chỉ một mình tao. Tao đang ở chung với mấy người đi chung ghe.
Tuấn và tôi leo theo mấy ngọn đá núi đi tắt về khu G. Về đến nhà tôi giới thiệu với mọi người Tuấn là bạn cùng trường. Sau khi trò chuyện Tuấn biết chúng tôi đang túng thiếu đồ ăn, hắn đề nghị về nhà hắn mang một mớ đồ hộp về sài đỡ. Tôi theo Tuấn đi về nhà hắn. Hắn trao cho tôi một bao to, toàn là hộp đậu green bean. Hắn nói:
- Tao ở đây cũng đâu có dư dã gì, lương thực cao ủy cấp mà. Ở chung với mấy thằng bạn, lâu rồi ăn đậu riết cháng nên tụi tao không đụng đến nữa. Mày lấy đem về sài đỡ đi nhê Khi nào có gì tao sẽ đến tìm mày.
- Ðược rồi, cám ơn mày. Có đậu còn hơn không. Tao ăn cơm không đã chán rồi. Tao về nhe Tuấn. À mày nhớ Hạ không nó đi cùng tàu với tao đó, khi nào rủ nhau ra chơi.
Tối hôm ấy tôi ngủ thật ngon nhưng đầu óc vẫn còn bay lên xuống như nằm trên mặt sóng. Ðang đêm khuya, tôi bỗng nghe tiếng thét gọi giựt dậy:
- Ẳ A! Cướp, cướp. Cứu tôi với... ú...
Tôi vùng đứng dậy chụp được một khúc cây gần đấy dơ cao lên:
- Ðâu... đâu? Cướp đâu... hải tặc đâu?
Mọi người trong nhà đều thức dậy. Thì ra chỉ là cơn mê của một trong hai cô bé "nhõng nhẻo". Tôi hoàn hồn nhưng vẫn còn cầm khúc cây trên tay. Cô bé nhỏ hỏi:
- Anh còn cầm cái cây chi vậy?
Tôi bực mình liếc cô em:
- Ừ ! Tại ai la cướp... cướp ỏm tỏi lên đấy.
- Ðâu phải tại em đâu! Tại chuột nó bò lên cắn chân nên em sẵn nằm mơ chứ bộ.
Tôi cười xéo xẹo làm hoà, vì nghĩ mình cô thế nên di hoà cho dễ thở.
- Thôi không có gì nữa đi ngủ tiếp đi, còn cầm cây chi? Ngủ đánh trúng tui bây giờ đó "anh hai". Anh Tuyển cười nói với một đồng tiền bên má.
Anh Tâm đã leo lại lên giường kéo tấm chăn cũ rách mướt của trại tặng cho đắp vào người. Tôi không thể ngủ lại được nên đi dạo ra ngoài bờ biển. Từ "nhà", tôi chỉ cần băng qua cây cầu ván nhỏ và bước qua lớp học anh văn của khu G là đến bờ biển. Khi đêm yên tĩnh, nằm nghe tiếng gió và sóng biển rì rao qua ngọn cây khẻ lá. Nhìn ra bãi biển khu G với mấy chiếc ghe bị phá vỡ, xa xa cây cầu Jesty đón đưa người tị nạn mà cảm thấy buồn buồn. Cuối cùng mình cũng đã lưu vong! Không biết giờ đây nơi quê hương, gia đình bạn bè đang nghĩ gì về mình. Cách đó mấy hôm mình còn ngồi bên bờ đá bãi trước Vũng Tàu mơ ước một chuyến ra đi. Bây giờ ngồi đây nhớ lại nơi mình đã bỏ ra đi mà không biết đến bao giờ trở lại.
Sáng hôm sau tôi thức dậy thật sớm, lấy sổ gia đình đi xếp hàng lấy nước uống. Ở nhà chưa thân nên hơi ngại. Tôi đợi gần 30 phút mới được cấp hai thùng nước. Khi đi về có anh Tuyển ra khiêng phụ một thùng. Ngày hôm nay lại có người trên phòng thông tin nhắn tin muốn gặp tôi. Tôi nghĩ chắc bạn bè gì nữa đây, chứ không còn hy vọng thân nhân như lần trước nữa. Ra đến nơi tôi mới nhận ra anh Hùng, bạn trai của chị hai tôi, đã rời Việt Nam gần hai năm nay không ngờ cũng gặp lại nơi đây. Thấy tôi anh rất niềm nỡ, dẫn đi uống cafê buổi sáng. Bạn anh Hùng thật đông, toàn là những anh to con lực lưỡng như các người trong chương trình "lực sĩ con kiến vàng". Nghe anh Hùng bảo họ sống chung nhau trên khu F, đều luyện võ thần và làm phu khuân vác hàng lậu kiếm thêm tiền sống qua ngày ở đây. Tôi nhập bọn với đám bạn anh Hùng đến nhà họ chơi đến chiều mới về nhà. Về đến nhà cô Hà và mọi người nhìn như chờ đợi trách móc. Cơm để phần cho tôi vẫn còn trên bàn làm tôi cảm thấy áy náy. Tôi đi vào rừng đốn một mớ củi với anh Tuyển. Anh Tuyển nói:
- Mày thiệt là tệ. Có đi đâu cũng phải cho cô Hà và tao biết chứ, để tao ăn hết cơm khỏi phải chừa phần mày.
- Xin lỗi nhé vì gặp lại anh Hùng "chăn bò" và một mớ bạn bè cũ, họ kéo đi ăn uống rồi về nhà họ chơi, kể chuyện qua lại với nhau về Việt Nam và ở đây nên quên mất.
- Hùng "chăn bò"? Có phải nhà hắn có bò hay đi chăn mướn?
- Ảnh chăn bò cho nhà ảnh.
- Hổng chừng tao quen à! Nó ở xóm vườn phải không?
- Ồ ! Ðúng rồi, nhà gần lăng cá ông, phường Thắng Tam.
- Mày dẫn tao đi gặp tụi nó đi.
Tôi với anh Tuyển đem củi về nhà xong rủ anh Tâm cùng đi chơi cho vui. Chúng tôi hẹn cô Hà và gia đình sẽ về trước khi trời tối. Căn nhà sàn khu F của "băng phu hàng lậu" bạn anh Hùng nằm nhìn ra biển vắng, gió lúc nào cũng lùa vào mát rượi. Bên dưới nhà sàn là phòng "thể dục" với những cây tạ làm bằng cây rừng đá núi trông rất có vẽ tiền sữ. Nhà sàn khu F chứa khoảng 15 thanh niên độc thân, xung quanh đấy còn vài anh ở những căn nhà nhỏ hơn nhưng cùng trong bọn. Khu F tự nhiên trở nên giống như một gian sơn riêng của dân "phu hàng lậu". Gặp nhau đám bạn anh Hùng cũng quen nhiều với anh Tuyển họ mừng rỡ ôm nhau trò chuyện rối rít. Họ kể nhau nghe chuyến vượt biên của họ, cuộc sống "hành đêm" của dân phu: mỗi khi có ghe lương thực lậu từ đất liền Mã Lai đem qua bán cho doanh thương nơi đây, đám dân phu nhận lảnh vác hàng ra đến khu phòng thông tin. Nếu cảnh sát Mã Lai bắt được trên đường đi họ sẽ tuần bố bắt về đem bỏ vào bao đánh cho nhừ tử. Còn nếu đem ra chợ họ sẽ không bắt nữa. Vác mỗi bao được một đồng Mã Lai, bằng 1 ly cafê ở tiệm. Chuyện trò riết hết chuyện đán bạn anh Hùng bắt đầu hỏi ai có biết chuyện chưởng kiếm hiệp gì kể cho anh em nghe chơi. Ðúng đài của anh Tâm, nên anh bắt đầu kể cho mọi người nghe câu chuyện "Cô Gái Ðồ Long". Anh Tâm đọc và nhớ rất rành mạch từng chi tiết. Giọng anh kể hấp dẫn say mê như đang lôi cuốn mọi người về thời cổ đại. Anh kể đến mệt và khan cả cổ. Anh em bạn kẻ rót nước người nấu trà, người mồi thuốc đưa anh Tâm:
- Anh Tâm uống miếng nước, từ từ kể tiếp.
- Anh Tâm hút điếu thuốc cho ấm giọng.
- Ê! đi nấu trà cho anh Tâm uống.
Hình như nơi đây không còn gì vui giải trí cho bằng những đêm không phải khuân vác ngồi bên nhau quân quần trò chuyện. Trời nhá nhem tối, tôi xin ra về. Anh Tuyển và anh Tâm bị các bạn giữ lại không cho về. Họ bảo tôi ngày mai về nhưng tôi nghĩ đến lời đã hứa với gia đình cô Hà, vã lại hiện giờ nhà chỉ toàn đàn bà con gái, đêm hôm có lẽ sợ sệt lắm. Tôi quyết định đi về.
Ở chung với gia đình cô Hà gần một tuần tôi mới biết tên hai cô bé. Cô chị tên Quỳnh, cô em tên My. Người chị ít nói, trầm tư lặng lẽ. Cô em lém lĩnh, rắn mắt hoạt bát. Có lần tôi ăn cơm chung một đĩa với anh Tuyển (nhà chỉ có 3 cái đĩa cho 7 người ăn), tôi ưa ăn mặn nên bỏ nước tương vào nhiều làm anh Tuyển la lên ong óng. Bảo tôi phải đợi anh ăn xong rồi mới bỏ xì dầu vào ăn sau. My đề nghị tôi có thể ăn chung với Quỳnh và My vì My cũng thích ăn mặn lắm. Ban đầu tôi ngại lắm nhưng nghĩ lại đã ở chung nhà cũng nên coi nhau như anh em, huống hồ chúng tôi đã cùng vượt qua cái chết trên đại dương cho đến ngày hôm nay. Từ đó ba đứa con nít chúng tôi ăn cơm chung với nhaụ Nhiều khi My kén không ăn chỉ có tôi và Quỳnh cùng ăn.
Hôm nay Ðường Tuấn đến tìm tôi và đưa tôi bài toán hình học bảo là bạn nó đố mà không làm ra nhờ tôi làm hộ. Tôi bảo hắn là đã bỏ học hơn 3 năm nay rồi không biết có còn nhớ hay không? Nhưng hắn cứ nằng nặc bảo:
- Tao biết mày làm được mà. Trong trường ai mà không biết Trình Ðịa vua đại số. Ðình Thái xếp hình học.
- Ừ ! để tao thử xem, một lát lại lấy.
Hắn bỏ đi rồi, tôi ngồi xem lại bài toán vẽ vời vài hình, để nhớ lại những cái mình học cách đây khá lâu. Rốt cuộc tôi cũng làm xong. Chiều hắn đến lấy bài giải đi một lúc rồi quay lại bảo:
- Tao biết mày được mà, bạn tao nó phục lắm. Tối nay có tiệc tiễn một người bạn đi định cư. Mày đến chơi tao giới thiệu mày với nó. Nói xong hắn quay qua cô Hà:
- Bác đi chơi cho vui, coi tiệc tiễn người đi ở đây.
- Bác không đi đâu, chỗ đó thanh niên không mà.
Ðường tuấn không bỏ lỡ cơ hội:
- Hay bác cho Quỳnh, My đi chơi với Thái cho vui, ở gần đây thôi.
- Ờ để xem tụi nó có muốn đi không?
Chiều hôm đó Tuấn đến đón tôi và Quỳnh đi dự tiệc. My bị nhức đầu nên không đi. Cô Hà bảo Quỳnh đi chơi cho vui chứ ở nhà hoài buồn nhớ Việt Nam thêm. Chúng tôi theo Tuấn dẫn quanh co qua mấy mô đá núi gồ ghề đến một căn chòi cheo leo dốc núi. Bàn tiệc được bày ngoài trời với những chiếc ly bằng lon, hộp chứa thức ăn đã dùng và rửa sạch. Thức ăn cũng đơn sơ, đa số làm bằng gạo, vốn dư thừa nơi đây. Người ngày mai được đi định cư vui vẽ giới thiệu cùng mọi người bạn bè với nhau. Trời tối dần, họ thay phiên nhau ca hát tặng người ra đi những niềm khúc ray rức nhớ người ở lại. Tôi và Quỳnh tách xa dần đám đông đang hoạt náo. Chúng tôi trò chuyện nhau về Việt Nam về bạn bè còn ở lại. Quỳnh và tôi đều thích đọc tiểu thuyết, nhất là của Quỳnh Giao. Những chuyện và nhân vật của Quỳnh Giao được chúng tôi đem ra bình phẩm. Hai chúng tôi trở nên thân mật nhau hơn tình anh em mỗi ngày. Tôi thấy trong linh hồn Quỳnh có một một giọt lệ mà giọt lệ ấy sao làm lòng tôi xót xa! Ðêm đã xuống, tôi từ giã Tuấn và bạn Tuấn ra về. Trời đêm 30 ở đảo "Buồn Lo Bi Ðát" này tối âm u vì không một ngọn đèn điện. Quỳnh cận thị lại yếu đuối nên khó khăn đi vững trên đường núi. Tôi nắm tay Quỳnh dắt cô bé đi từng bước. Lòng tôi tự nhiên như nở rang một cảm xúc thật lạ êm ái. Tôi mong con đường dài thêm ra, dốc càng gồ ghề để tôi nâng đỡ dìu dắt cô bé mãi. Cuối cùng chúng tôi cũng về đến nhấ Ðêm ấy tôi thật khó ngủ, trằn trọc mãi, vân vê mãi đôi bàn tay mình. Không biết cô bé có ngủ ngon hay không?
(còn tiếp)