vhnt, số 152
24 February 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Chèo xuồng ....................................................lephan
2 - Chiều bên cửa biển .............................Trần Thái Vân
3 - Lễ xuân ...............................................Phan Lê Dũng
4 - Ðêm thơ em ..................................Nguyễn Hiện Nghiệp
5 - Giới thiệu thơ Lê Ðạt: Gốc khế ....................Lê Ðạt
V ă n H ọc Q u ốc N ội :
6 - Phấn đấu cho nền văn học dân tộc .......Nguyễn Quang Sáng
H ội H ọa :
7 - Phòng tranh đất .........................................Trịnh Cung
8 - Từ bảng màu Cézanne ............................................P.V.
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Tùy bút Cỏ Mây ...............................................CỏMay
10- Lối về (p 3/3) ............................Nguyễn Phước Nguyên
Giếng ngọt quê hương
Một đêm mưa, tôi mơ thấy mình rơi xuống giếng nước sau nhà, vùng vẫy lặn ngụp trong nước giữa cơn hoảng hốt. (Tôi trẻ thơ nghịch ngợm sau bóng hiên nhà, trên hai mươi năm về trước.)
Rồi tôi vùng dậy giữa giấc mơ, cảm giác khát khô cổ, cùng lúc với cái khao khát được rơi xuống giếng nước một lần nữa để được uống những giọt nước ngọt quê hương. Kỳ lạ, chưa bao giờ nước có vị ngọt lịm đến vậy, dù là vị ngọt trong giấc mơ giữa cơn hốt hoảng té giếng. Tỉnh táo, tôi nhớ ra chỉ có nước mưa hứng từ máng xối ở Việt Nam mới có cái vị ngọt ngào dịu mát đó. Mưa đêm nhỏ giọt càng lay nỗi nhớ, càng khiến tôi ngậm ngùi nhớ đến hôm nào trở về lại quê xưa, đứng nhìn ngôi nhà mình nay đã mất dấu, thay vào đó là một biệt thự có cổng sơn xanh nay được một cán bộ cao cấp làm chủ. Ngôi biệt thự xóa gần hết ký ức tuổi thơ của tôi, cho đến khi đi vòng ra phía sau nhà, và bắt gặp lại cái giếng nước ngọt ngày xưa vẫn còn ở chỗ cũ, di tích và chứng tích duy nhất còn lại của ngày xưa. Cái giếng bị bỏ quên may mắn chưa bị lấp mất, hệt như ký ức tuổi thơ của tôi chưa bị vùi lấp bởi thời gian, vẫn khiến tôi ngụp lặn trong kỷ niệm xưa, vẫn mơ những lần té giếng để uống lại cái ngọt của nước mắt quê hương giữa cơn lo sợ hoảng hốt. Biến cố 75 là một cơn sặc nước dữ dội, là một ấn tượng mạnh mẽ, là một cái té giếng khá đau, mà vị ngọt của nước giếng quê hương luôn ám ảnh gần gũi, không có một nguồn nước nơi nào có thể thay thế! Tôi vẫn mong uống lấy nguồn nước quê hương, cho dịu cơn khát và lấp cái cô đơn của người xa xứ. Dù chỉ được uống trong những giấc mơ.
oOo
Chúc bạn đọc một cuối tuần an vui, có vị ngọt của những hạt mưa đầu mùa.
thân ái,
PCL/vhnt
Chèo Xuồng
Ta sẽ chèo đi đâu hở em
Chiều nay
Gió man mát dòng Ðồng Nai
Vàng ngây thơ mùa điên điển
Em áo bà ba buông câu hò hẹn
Sông nước ru hời giấc mộng lứa đôi
Ta sẽ chèo đi đâu hở em
Chiều nay
Gió êm đềm sông Hương
Tím thẹn thùng mùa bằng lăng
Em nón bài thơ che nghiêng chờ đợi
Ðại nội im lìm con nắng chưa phai
Ta sẽ chèo đi đâu hở em
Chiều nay
Gió cuồn cuộn sông Hồng
Ðỏ rực rỡ mùa hoa gạo
Em áo tứ thân nôn nao trẩy hội
Ba mươi sáu phố phường vào cuộc đổi thay
Ta sẽ chèo đi đâu hở em ... ?
Chiều nay,
Sẽ ta chèo đưa nhau đi
Vào chiều mai
Gió quạnh hiu dòng kỷ niệm
Xanh chắt chiu mùa yêu dấu
Em cuộc tình về trong quê hương giấc ngủ
Có con nước đục ngầu
Muôn thuở chèo đi ...
lephan
Chiều Bên Cửa Biển
Buồn ơi man mác chiều cô lữ
Dõi mắt vời trông chẳng thấy nhau
Mênh mang gió thổi lời vô tự
Tim tím sương dâng một cõi sầu
Bãi vắng xác xơ từng lớp cỏ
Cuối thu xào xạc lá vàng rơi
Sông nước mênh mông, trời mây hỡi
Nhớ về cố quận, nhớ không thôi
Người đứng chờ mong, trông với đợi
Một lời giã biệt vạn đời xa
Ta đứng trầm tư thời gian gọi
Hồn về dĩ vãng chửa từng qua
Người thầm thương tiếc thời vang bóng
Anh hùng dệt mộng rộng bờ vai
Ta ngẩn ngơ nghe từng tiếng sóng
Trong chiều gió lộng tưởng thiên nhai
Người nhớ dặm trường băng khe, suối
Tiếng kèn giục trận máu đào say
Ta thương những đường xưa mờ bụi
Nắng cháy thiêu người, bỏng da tay
Người khóc mười năm rừng núi độc
Từ người xuống lại vượn cổ sơ
Ta tiếc mười năm đời hiu hắt
Già nhiều trước tuổi mất ngày thơ
Tưởng niệm tri âm người rơi lệ
Trên những nấm mồ lạnh khói hương
Ta khóc bạn mình khi lưu lạc
Thuyền chìm bỏ xác xuống đại dương
Người vui gặp lại người năm cũ
Chén tạc, chén thù vơi khổ đau
Ta ngôi sao lạc vùng tinh tú
Ðộc ẩm, một mình thương nhớ nhau
Chiều nay ta đứng bờ sông lạ
Sương khói buồn giăng thương nhớ thương
Ðời ta bình thản không gì lạ
Nhưng cũng cảm thông nỗi đoạn trường
Trần Thái Vân
Lễ Xuân
Ngày Xuân đường im lặng
Con phố vắng thật dài
Ðường dẫn về nhà nguyện
Ðấu thời gian nhạt phai.
Bên bờ khung cửa cũ
Sỏi cuội trắng u hoài
Lào xào cơn gió tạt
Kẻ lạc bước bi ai.
Hôm nay nhà nguyện đóng
Ngày xuân một lễ thôi
Lỡ giờ nên đành chịu
Lời nguyện khẽ trên môi.
Cách chúa bằng liếp cửa
Gỗ..., gỗ lim thật dày
Chúa thấy không hỡi chúa
Kẻ đơn côi đứng ngoài?
Biết xin gì đây nhỉ
Cho thân phận lạc loài
Cho linh hồn trống vắng
Nguyện gì ở ngày mai?
"Con chiên này lưu lạc
Mơ vọng tiếng chuông đêm
Con chiên này câm lặng
Phúc âm buồn xa xôi."
"Con chiên này sa đọa
Bỡ ngỡ lúc xuân về
Con chiên này cô độc
Tìm cứu rỗi, ăn năn."
"Con chiên này nhờ gió
Gửi hộ khúc kinh cầu
Con chiên này xin đêm
Cuốn đi dùm tội lỗi."
Gió vẫn rét lặng câm
Và đêm về thăm thẳm.
Giữa Chúa và con chiên
Tấm cửa lim già cỗi.
Không cha lời thú tội
Rơi rớt chuỗi đơn côi
Ai gửi lời đến chúa
Mọi đàng lỗi tại tôi?
Phan Lê Dũng
đêm thơ em
đêm.
ta đứng
trên trái đất
nhìn em
những tinh cầu.
lòng thầm khấn nguyện
một phép lạ hiện ra -
một vì sao lạc xuống
thắp sáng cõi hồn ta
nhiệm mầu.
đêm.
muôn loài nằm im ngủ.
ta đứng chôn mình
dưới trăng.
cho máu chạy xuống chân
đừng ngược về tim óc,
dội buốt những niềm đau.
đêm.
em về
xõa tóc
ta bật khóc
làm thơ.
Nguyễn Hiện Nghiệp
Giới Thiệu Thơ Lê Ðạt:
Gốc Khế
Khi gió mùa anh đi
Sang sông tìm nắng khác
Ðể mẹ già tóc bạc
Lưng còng trên gậy tre
Để người yêu ngơ ngác
Gốc khế xanh đầu hè
Ba năm anh không về
Mẹ già anh ngơ ngác
Lưng còng đau gậy tre
Người yêu anh đốm bạc
Tóc khế xanh đầu hè
Ba năm anh không về
Ba năm rồi ba năm
Mẹ anh thành nắm đất
Người yêu anh cũng đi
Gốc nửa ngày khế chát
Sót bóng hoa mơ chờ
Lê Ðạt
(trích Tác Phẩm Chọn Lọc, II)
Diễn Ðàn Văn Học Quốc Nội : Ðây là bài tuờng trình của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, ban chấp hành Hội Nhà Văn Thành Phố, về sinh hoạt văn hóa trong kỳ họp 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh. Xin trích dăng lại từ báo Văn Nghệ để bạn đọc hiểu về tình hình văn học quốc nội trong những năm gần đây.
PCL
oOo
PHẤN ÐẤU CHO NỀN VĂN HỌC DÂN TỘC
Mầu sắc riêng của văn học thành phố xuất phát từ đặc điểm của thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn, là một trong những trung tâm kinh tế và văn hóa của cả nước. Văn hóa và kinh tế luôn luôn gắn bó và tác động lẫn nhau rất mạnh mẽ, nhiều mặt và đa dạng. Nhu cầu văn hóa trong đó có nhu cầu hưởng thụ văn học của quần chúng rộng rãi vừa rất lớn, vừa bức xúc như thức ăn hàng ngày, và thành phố cũng là nơi tiêu thụ sách mạnh nhất nước.
Xin chúng ta hãy nhớ lại một thời mà sách văn học cho bạn đọc vừa rất thừa mà cũng vừa rất thiếu. Ðó là thời sách mang nặng tính thương mại, tràn ngập trên thị trường (tràn ra tận vỉa hè).
Sách cho thiếu nhi: Sách cho thiếu nhi phần lớn là sách về hình sự, trinh thám và vụ án. Loại sách kích thích tính ác trong tuổi thơ. Loại sách xấu này tràn ngập đến mức báo chí phải lên án.
Sách cho người lớn: Văn học về đời thường là một nhu cầu không thể thiếu với bạn đọc sau chiến tranh. Văn học viết về đời thường là viết về những nhân vật bình thường trong đời sống hàng ngày, về mối quan hệ với gia đình cha mẹ, anh em, vợ con... mối quan hệ với bạn bè xã hội, về miếng cơm manh áo, về nỗi lo âu và ước mơ. Một cuộc sống bình thường nhưng rất phong phú, sâu sắc và tế nhị. Ðề tài này muốn hấp dẫn bạn đọc đòi hỏi nhà văn phải có tài năng. Sách có giá trị về đề tài này rất hiếm hoi, không đủ đáp ứng cho bạn đọc. Trong khi đó thì loại sách tầm thường mang tính giải trí rẻ tiền như chuyện tình tay đôi tay ba ... những loại sách này không gây chấn động về chính trị nhưng đã tầm thường hóa tri thức văn học, hạ thấp trình độ thẩm mỹ, về lâu về dài sẽ xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, rất đáng lo ngại. Tai hại trước mắt là nó tạo nên một nền văn học thấp kém đối với người mới viết. Ðột xuất có quyển dưới cả mức tầm thường, tác hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, đã bị lên án gay gắt.
Về thơ: Vì yêu cầu cho chiến thắng, có một thời thơ ít đề cập đến tình yêu trai gái. Ít đề cập đến mức như tối kỵ. Những năm qua, có lúc thơ tình như bừng lên, trên mặt báo đâu đâu cũng thấy thơ tình. Có bạn nói thơ tình đang lạm phát, có bạn nói đùa đọc thơ tình bây giờ tưởng như cả nước đang thất tình. Thơ tình yêu là một đề tài muôn thuở của con người. Thơ tình thì nhiều, nhưng để lại những vần thơ rung động thì rất hiếm. Sự sàng lọc về thơ tình phải qua thời gian, rất khắt khe mới đọng lại trong lòng người.
Loại sách nói trên hầu hết không xuất phát từ hội nhà văn thành phố chúng ta. Các sách ấy dù mang tên nhà xuất bản tỉnh này tỉnh nọ, nhưng phần lớn đều in tại thành phố và cũng phát hành ngay trên địa bàn thành phố. Thị trường sách của thành phố như một cá biển lớn cho tất cả các nguồn đổ về.
Thực trạng này, phải nói thật là ngoài tầm tay của Hội Nhà Văn Thành Phố, hội không đủ chức năng chịu trách nhiệm, nhưng hội nhà văn không được quyền làm ngơ mà phải có tiếng nói trách nhiệm, Hội đã từng phát biểu và kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước.
Trong sự hỗn độn của chợ sách, vẫn có những quyển sách quý có giá trị văn học, nhưng rất tiếc những tác phẩm ấy không được giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc. Vừa ít, hình thức lại quá giản dị, thường bị đẩy lui vào trong sâu các cửa hàng, bị che khuất sau những sách thương mại rẻ tiền với những cái bìa màu sắc lòe loẹt, hấp dẫn với những hình ảnh của các cô gái gợi tình. Người chọn sách rất khó nhận ra, số phận những tác phẩm ấy thật hẩm hiu, thật đáng tiếc.
Ðó là thời kỳ đầu văn học bước vào cơ chế thị trường, cái thời kỳ mà một số nhà xuất bản sống bằng giấy phép, thực chất của văn học bị dưới sự chi phối, dưới sự tính toán lời lỗ của tư nhân.
Ðó cũng là cái thời các nhà văn chúng ta hãy còn bỡ ngỡ trước cơ chế thị trường. Trước đây, sau khi hoàn thành tác phẩm, nhà văn đưa đến nhà xuất bản, nhà xuất bản xuất vốn ra in, nhà văn lĩnh tiền nhuận bút, sách theo hệ thống phát hành đến tay bạn đọc. Bây giờ thì khác. Nhà xuất bản phải tự hạch toán. Nhà xuất bản nào cũng tính lời lỗ. Nhà văn phải đối mặt với thị trường.
Cơ chế thị trường với thời mở cửa đã tạo nên một cuộc sống vừa hấp dẫn vừa phong phú vừa vô cùng phức tạp. Về đời sống văn học, chúng ta vừa đón nhận nhiều luồng văn học từ bên ngoài, vừa đón nhận những tác phẩm có giá trị giúp ích cho đời vừa phải gạn lọc, chặn đứng vừa phê phán luồng văn học phản động, đồi bại có hại cho nhân dân.
Hiện nay, một tác phẩm văn học ra đời không chỉ một chiều khen hay chê mà được đánh giá, nhìn nhận khen chê của nhiều góc độ khác nhau.
Ví dụ, có một số tác phẩm mà ta quen gọi là "có vấn đề" thì lại được bên ngoài chú ý, ca ngợi. Phần lớn những tác phẩm này đều bị khoét sâu và thổi phồng những sơ hở chính trị, được đề cao về mặt chính trị hơn là giá trị đích thực của văn học, có khi văn học là một cái cớ để phục vụ những ý đồ khác. Ðiều này có thể tác động tới định hướng sáng tạo của nhà văn. Trên báo chí, bạn đồng nghiệp đã từng lưu ý nhắc nhở nhau: "Càng tự do sáng tạo, tính tư tưởng càng phải sâu sắc".
Trước dư luận rộng rãi của bạn đọc, và trước sự nhìn nhận của nhiều luồng, nhiều quan điểm khác nhau đối với một tác phẩm đòi hỏi nhà văn phải tỉnh táo, đủ bản lĩnh nhận ra giá trị của mình.
Cuộc đấu tranh của các luồng văn học vừa qua diễn ra sôi nổi và gay gắt. Cuộc đấu tranh trong văn học là cuộc đấu tranh dành lại tình cảm, tâm hồn, nhận thức của bạn đọc. Chúng ta ý thức rằng muốn đẩy lùi loại văn học xấu và tầm thường, không có gì tốt bằng phải có tác phẩm hay cho bạn đọc.
Với ý thức ấy, Hội Nhà Văn Thành Phố đã liên kết với các báo và nhà xuất bản, như liên kết với báo Kinh Tế Sài Gòn, Tạp Chí Văn, Kiến Thức Ngày Nay, báo Công An Thành Phố, báo Người Lao Ðộng Thành Phố, báo Tuổi Trẻ và nhà xuất bản Trẻ, tổ chức và phát động nhiều cuộc thi viết như cuộc thi viết truyện ngắn hay năm 1991, cuộc thi viết "Con người và hoạt động kinh tế thời mở cửa", cuộc thi viết tiểu thuyết năm 1992, 1993, cuộc thi viết về đề tài "Thiếu nhi vì tương lai đất nước", cuộc thi viết về đề tài "Tuổi hai mươi", cuộc thi viết về "Chân dung người lao động", ủng hộ và tài trợ cuộc thi thơ hay của báo Văn Nghệ Thành Phố. Cuộc phát động này vừa dứt thì cuộc phát động khác tiếp theo chen kẽ hoặc song song cùng một lúc với những đề tài khác nhau.
Chúng ta biết rằng, không phải cuộc vận động sáng tác nào cũng đưọc mùa như nhau, nhưng tất cả các cuộc vận động sáng tác đều có điểm giống nhau là luôn luôn hâm nóng bầu không khí văn học trong người viết. Cuộc phát động nào cũng phát hiện thêm được cây bút mới. Những cây bút lần đầu tiên được giải tuy chưa thật xuất sắc, chưa thuyết phục rộng rãi bạn đọc và bạn bè trong giới, nhưng tất cả đều mang vào văn học chất tươi trẻ cũng như hơi thở của đời sống, góp thêm phần phong phú cho văn học. Các cuộc vận động sáng tác, những tác phẩm được giải, được in đều theo đúng định hướng. Ðó là cách đưa nghị quyết của trung ương về văn hoá và nghệ thuật vào đời sống văn học. Các cuộc phát động sáng tác cho chúng ta hiểu tiềm lực của sáng tạo của anh chị em để từ đó đề ra những phương hướng thích hợp hơn.
Dù cuộc vận động sáng tác của thành phố, của một hội địa phương, của một tờ báo thành phố (như cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ Thành Phố) đều được hưởng ứng nhiệt tình của các cây bút trên cả nước và tác giả được giải cũng là tác giả cả ba miền.
Ðồng thời với các cuộc vận động sáng tác, hội đã mở trại bồi dưỡng lực lượng sáng tác trẻ, hai lần tổ chức trại sáng tác cho hội viên (1987-1988) và (1989-1990), một trại sáng tác thơ (1992), trại sáng tác đề tài thiếu nhi (1993). Gần đây nhất, để khai triển nghị quyết IV về văn hoá văn nghệ của trung ương, nhờ sự tài trợ của ủy ban thành phố, hội đã mở trại viết về đề tài chiến tranh. Cuộc thi và trại viết về đề tài thiếu nhi đã có một số sách hay phục vụ cho các em trong mùa hè 1993. Sách được giải và không được giải đã được tái bản nhiều lần theo nhu cầu của bạn đọc trẻ. Những tác phẩm ấy đã trả lại tuổi thơ cho các em: tính trong sáng, thơ mộng, tình yêu với cha mẹ bạn bè anh em, tình yêu thiên nhiên, tình yêu tổ quốc.
Về đề tài chiến tranh có lúc như bị lãng quên. Dù chiến tranh đã đi qua, nhưng đề tài về chiến tranh cách mạng bao giờ cũng là một đề tài hiện đại. Là một đề tài giáo dục sâu sắc về lòng yêu nước đối với mỗi con người.
Trại viết về đề tài chiến tranh vừa qua đã thu hút rất nhiều nhà văn, nhất là những nhà văn đã trải qua hai cuộc chiến tranh. Ðó là những tác phẩm viết về người lính, người cán bộ trên nhiều chiến trường. Ngòi bút của các tác giả đã không nhắc lại những chiến công mà đi sâu vào đời sống bên trong của nhân vật, khơi sâu vào nỗi đau mất mát, đồng thời nâng cao hơn niềm tự hào. Tác giả nhìn chiến tranh với nhiều góc độ, và dù từ nhiều phía vẫn không xóa nhòa ranh giới giữa hai cuộc chiến chính nghĩa và phi nghĩa.
Nhìn lại bảy năm qua, trong bối cảnh của thế giới và đất nước, văn học của thành phố cũng đã trải qua nhiều bước thăng trầm và có những bước phát triển dài, càng ngày càng phong phú, càng ngày càng nhiều bạn đọc, đã góp phần ổn định đời sống xã hội và góp phần nâng cao tâm hồn con người theo nhịp điệu của đời sống. Ðội ngũ Hội Nhà Văn Thành Phố đã hội tụ từ : đội ngũ nhà văn từ miền Bắc, miền Trung về sống và hoạt động trong thành phố và đội ngũ trẻ từ năm 1975. Một đội ngũ với nhiều phong cách khác nhau đã tạo nên một dòng văn học rất nhiều mầu sắc. Anh chị em nhà văn vừa vui với niềm vui của đất nước mỗi ngày một đổi mới, mỗi mở mang, vừa âu lo với tệ nạn xã hội: nạn tham nhũng, sự xuống cấp về đạo đức và sự phân hoá quá nhanh chóng, quá cách xa giữa giầu và nghèo. Tâm trạng cũng như trách nhiệm của nhà văn đã thể hiện rõ trên trang viết của anh chị em.
Về văn xuôi: So với tiểu thuyết thì truyện ngắn khởi sắc hơn, mạnh hơn. Ðối tượng mô tả của truyện ngắn càng ngày càng rộng rãi hơn, đa dạng hơn: từ trí thức đến công nhân, nông dân, từ anh chiến sĩ cầm súng đến anh cán bộ trong thời kinh tế mở cửa, từ người giàu đến thân phận những kẻ nghèo bán vé số và cả lớp người sống bụi đời... Truyện ngắn đã thể hiện được tâm trạng, nguyện vọng, ước mơ của mỗi số phận, phản ánh được nhiều mặt bề rộng và cả bề sâu của đời sống. Truyện ngắn mang nhiều màu sắc và sắc sảo trong những năm qua là nền tảng cho những tác phẩm sau này đồ sộ hơn.
Thành phố Hồ Chí Minh lại có một truyền thống lâu đời về mặt báo chí. Rất nhiều anh chị em nhà văn hội viên trẻ đang sống bằng nghề báo. Từ đó hầu hết trên các mặt báo của thành phố, ký văn học vừa phản ánh nhanh nhậy, kịp thời những hoạt động trong xã hội và đã đặt được nhiều vấn đề xã hội cần quan tâm.
Nghề báo không hề mâu thuẫn với nghề văn, mà đây là thời gian để nhà văn tiếp xúc, lăn lộn trong đời sống, là thời gian tích lũy vốn sống lâu dài cho văn học.
Anh chị em hội viên nhà văn trong nghành sân khấu đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển sân khấu nhỏ của Hội Sân Khấu.
Bảy năm qua, anh chị em nhà văn cộng tác với ngành điện ảnh quá thưa thớt. Ðiều này có thể giúp cho ta cắt nghĩa vì sao thành phố chưa có phim haỵ Không có kịc h bản văn học hay, không thể có phim hay, đó là chân lý.
Ngày 13-9-1994, Hội Nhà Văn Thành Phố chính thức lập hãng phim Mê Kông với mục đích góp phần tạo thêm nguồn kịch bản điện ảnh.
Về thơ: Với phương thức nhà xuất bản và tác giả cùng làm, nhà xuất bản cấp giấy phép, tác giả tự ấn hành, tự hạch toán. Chưa có lúc nào thơ được phát hành vừa nhiều vừa phong phú như bảy năm qua. Nhìn chung, mỗi hội viên trong ngành thơ, kể cả nhà thơ chưa là hội viên, hầu như nhà thơ nào cũng có một tập thơ cho riêng mình.
Thơ của thành phố đã thực sự bắt kịp nhịp điệu của đời sống đang mỗi ngày một biến động, mỗi ngày mỗi cởi mở hơn, trong lành hơn.
Ngoài vấn đề tình yêu nam nữ, tình yêu quê hương, thơ không từ chối bày tỏ những nỗi buồn riêng của đời thường. Với tinh thần trách nhiệm công dân, thơ cũng cất tiếng lên án cái xấu, cái ác đang cản ngại sự hoàn thiện của con người mới, xã hội mới.
Có nhà thơ tìm về hồn thơ truyền thống để từ đó nâng cao hơn, hướng tìm tòi này đã góp phần phong phú cho nền thơ hiện đại. Trong khi đó cũng có những nhà thơ muốn tìm cho thơ mình hướng phát triển khác, bằng cách mở rộng không gian nghệ thuật, giao lưu ngôn ngữ với các dòng thơ hiện đại trên thế giới. Hướng tìm tòi này vừa mang đến cho thơ thêm điều mới lạ, đồng thời cũng có điều cần xem xét trao đổi.
Không có sự tìm tòi nào, sự sáng tạo nào không bị va vấp trước khi đạt đến thành công. Chúng ta đã trao đổi, phê phán trên tinh thần trân trọng sự tìm tòi sáng tạo của nhau.
Bảy năm qua, thơ của thành phố vừa hòa nhập với dòng thơ của cả nước vừa góp thêm phong phú với màu sắc riêng của thành phố.
Về lý luận phê bình: Cuộc đấu tranh của nhiều quan điểm khác nhau đã diễn ra khá sôi nổi. Nổi bật giữa hai quan điểm: một bên muốn đổi mới, muốn văn học phát triển cao hơn trên nền văn học cách mạng, một bên cũng đổi mới với quan điểm cực đoan, hoặc phủ nhận hoặc đánh giá thấp sự thành tựu của nền văn học cách mạng, một nền văn học đã gắn bó và cống hiến không nhỏ cho hai cuộc chiến tranh. Từ quan điểm này có bài viết đánh giá văn học cách mạng tháng tám đến nay là "văn học cung đình", "văn học phải đạo", "văn học cán bộ"...
Những quan điểm này phần lớn không xuất phát từ thành phố nhưng đã phổ biến khắp nước.
Phục hồi lại giá trị văn học một thời bị lãng quên là một việc làm đúng đắn và cần thiết, nhưng có lúc đề cao một cách quá đáng. Những quan điểm sai lệch trên không thuyết phục được rộng rãi của cả nước và thành phố.
Công tác lý luận phê bình vừa qua không khoanh vùng trong giới làm công tác lý luận phê bình.
Khi có sự bất thường trong văn học, người sáng tác - dù không chuyên viết lý luận phê bình - đã không ngần ngại lên tiếng. Chính những tiếng nói nhậy bén ấy đã góp phần vào bầu không khí trong sáng của văn học. Hiện tượng này thể hiện ra trong cuộc tranh luận thơ gần đây về sự đánh giá giá trị văn học cách mạng.
Nhìn chung, đời sống văn học đang đòi hỏi công tác lý luận phê bình nhiều hơn, năng động hơn và sâu sắc hơn.
Nhìn về đời sống của nhà văn trong cả nước nói chung, của thành phố nói riêng, rất ít nhà văn sống bằng đồng tiền lao động nghệ thuật của mình. Hầu hết các nhà văn sống bằng nghề khác, lấy nghề phụ để nuôi sự nghiệp văn chương của mình. Có phải chăng đó cũng là điều trở ngại chính cho những tác phẩm lớn đòi hỏi phải được tích lũy, phải được tập trung cao độ tinh lực, tài năng và thời gian.
Không thể không có sự tài trợ cần thiết của nhà nước đối với những nhà văn đang ấp ủ những tác phẩm lớn, mang tính khái quát nhiều thời kỳ, nhiều mặt của xã hội.
Năm năm cuối của thập kỷ XX, hy vọng anh chị em nhà văn chúng ta dốc hết tâm lực của mình lên trang giấy, cùng toàn dân mạnh mẽ bước vào thế kỷ XXI, biên niên đầy thử thách và cũng đầy hứa hẹn đối với Việt Nam, tổ quốc của chúng ta.
Nguyễn Quang Sáng
8-6-1995, ban chấp hành
Phòng Tranh Đất
Khưu Ðức, nhà tạo tác gốm hiện đại Việt Nam 48 tuổi, trước 1975 tốt nghiệp Trường Trang trí mỹ thuật Gia Ðịnh, sau học tại Trường cao đẳng Mỹ thuật vùng Bắc Virginia, ngày 8-10-1995 đã cùng hai hoạ sĩ nổi tiếng Nguyễn Lâm và Hồ Hữu Thủ tổ chức trưng bày 34 tác phẩm gốm và 16 bức tranh sơn mài tại một gallery xinh đẹp mới khai trương ở số 47 Trần Cao Vân, quận 3, TP.HCM.
"Ðất" là tên gọi của phòng triển lãm đồng thời cũng là triết lý nghệ thuật của các nghệ sĩ, nhất là đối với gốm. Như ai đó đã nói:"Ðất-nơi sinh ra con người và cũng từ đất con người đã tạo ra nguồn hạnh phúc cho mình. Cuối cùng đất cũng là nơi con người trở về. Ðất vô nghĩa, và tất cả". Sự thật là như vậy, người phương Ðông gọi đất là mẹ và đã tìm thấy từ xa xưa luật âm dương và ngũ hành.
Gốm ra đời từ tâm thức ấy sau khi con người tìm ra lửa, yếu tố thứ năm trong ngũ hành. Với con người, đất và lửa sinh ra gốm, đất và mộc sinh ra hội họa.
Việt Nam sau giai đọan gốm mộc mạc của thời Ðinh Lê Lý Trần và gốm tinh xảo thời nhà Nguyễn với màu xanh được thế giới đặt tên "bleu de Huế" thì đã dừng lại và thất truyền. Hiện nay chúng ta đang khôi phục và gốm đang hưng thịnh ở ngoài Bắc lẫn trong Nam, nhưng rất tiếc chỉ là gốm dân dụng với trình độ mỹ thuật và kỹ thuật còn thấp. Trong những năm gần đây, ở Hà Nội đã xuất hiện vài nhà tạo tác gồm nghệ thuật nhưng chưa thành công lắm vì không ra khỏi giới hạn của tình trạng thiếu kỹ năng toàn diện về gốm.
Ðây là điều trọng yếu nhất của nghề gốm. Ðây là điều trọng đại nhất của nghề gốm và mỗi thời đại, mỗi trường phái đều giấu kín cái "bí kíp" nhờ đó đã giúp họ trở thành những nhà làm gốm lừng danh.
Hôm nay Khưu Ðức đã mang về Việt Nam một phần của những tiến bộ về gốm mà anh đã học được ở Mỹ. Gốm của Khưu Ðức hoàn toàn là gốm nghệ thuật-gốm để"chưng". Các lọ, hũ được thực hiện theo tính cách gốm Nhật mang đậm tinh thần im lặng và lắng nghe. Ðất biết nói, biết ca hát, biết chiều chuộng cho con người vì đất là người, đằng này lại còn do con người gửi về đất tâm tình của mình thì đất trở nên sinh động là điều không thể không thể nhận ra (vì thế trong cuộc sống thực đã có người mất vợ vì yêu gốm, có người phạm tội vì tham gốm). Khưu Ðức đã trình làng 34 tác phẩm gồm một sốmen chìm với một nghệ thuật hiển nhiên, nghệ thuật ấy được nâng niu bằng một kỹ năng cao, học được ở trường chuyên nghiệp và một tham vọng đi tìm cho gốm Việt Nam những gì đang cần và còn hơn thế nữa.
Bài viết chỉ đề cập đến gốm của Khưu Ðức vì các tác phẩm sơn mài của Nguyễn Lâm và Hồ Hữu Thủ đã quá quen thuộc đối với những người yêu hội họa thành phố.
Trịnh Cung
(TTCN số 41-95)
Từ Bảng Màu Cézanne
Cuộc triển lãm các tác phẩm của nhà danh họa Paul Cézanne kéo dài suốt ba tháng (bắt đầu từ tháng 9-1995) là sự kiện lớn trong đời sống văn hoá của Paris và cả nước Pháp.
Nhưng không chỉ có tranh của Cézanne. Ngoài các tác phẩm của ông được đưa từ nhiều viện bảo tàng, phòng trưng bày ở nhiều nước để triển lãm tại Cung điện Lớn (Grand Palais), dịp này những người yêu mến Cézanne còn có dịp thưởng lãm và cả mua sắm những đồ vật được chế tác từ hội họa của Cézanne. Chẳng hạn, các loại đồ sứ tráng men (chén đĩa, tách, khay...) mà hình dạng, màu sắc của chúng được "cóp" từ các tác phẩm của Cézanne (một trong những nơi trưng bày là bảo tàng Orsay). Rồi ở nhà thời trang Dior là nơi trưng bày những chiếc cravat, khăn cài túi áo, khăn quàng cổ, khăn san với môtip hoa được in lấy từ các bông hoa trong nhiều tranh Cézanne. Ở đây còn có những món trang sức phụ nữ được làm theo mẫu các thứ quả trong tranh Cézanne (táo,cam, lê...).
Ðến với Cézanne cũng là dịp mua sắm "hàng hóa của Cézanne". Trong ảnh (DN: Xin lỗi đã không thể scan hình gửi các bạn được) là siêu người mẫu Claudia Schiffer với bộ váy được Gianfranco Férré thiết kế cho nhà thời trang Christian Dior mà cảm hứng là từ tác phẩm "Người đàn bà ở quầy cà phê" phía sau.
P. V.
(TTCN số 41-95)
Tùy Bút
(Ðể tưởng nhớ những người đã nằm xuống ở Huế tết Mậu Thân)
Mỗi con người đều bình đẳng ở chỗ họ phải đeo suốt đời trên lưng một cái bướu định mệnh. Có những định mệnh vui và có những định mệnh buồn. Tôi cũng chỉ là một trò chơi của định mệnh.
"Có kẻ gieo cầu có người nhặt được. Kẻ nhặt được không chắc là vui mãi. Kẻ không được cũng chẳng nên lấy đó làm điều" (*)
Ðịnh mệnh vẫn gieo những trái cầu hạnh phúc. Tôi đã hụt hơi theo nhặt , để rồi khi cầm được trái cầu trong tay mới thấy rằng hạnh phúc là hư vô, và tôi cũng học được rằng ở đời không có kẻ chiến thắng hay người chiến bại. Dù thắng dù bại, cả hai đều có những nỗi đau mất mát như nhau.
Mỗi buổi sáng thức đậy, tôi im lặng nghe một giọng chim thảng thốt, tôi im lặng nhìn cuộc sống trầm ngâm. Cuộc sống đấy, có gì mới, có gì lạ, có gì vui? Không, không có gì. Chỉ thấy niềm tin mỗi ngày một rụng rơi. Niềm tin cũng giống như những hạt cát trong tay; càng nắm chặt, càng rơi nhanh.
Con người vẫn bận rộn với những quyền lực, bạc tiền, lợi danh. Con người vẫn gây ra chiến tranh, đói kém, tai họa cho con người. Con người, vẫn rộn ràng với những vong tính và vong thân.
Mỗi đêm, khi rơi vào giấc ngủ nhớ, tôi vẫn kinh hoàng mơ thấy chiến tranh, thấy những người phải chết khi họ không muốn chết; thấy những em thơ chết bên vú mẹ; thấy những người yêu chết trên tay những người yêu. Tôi đã chết từ khi tôi thấy những điều ấy. Phải chăng trong trái tim loài người không còn chỗ cho hoa lá sinh sôi? Tôi đã nguyện cầu khản giọng cho một niềm tin, và tôi đã buông xuôi.
Có phải khổ đau là bản chất của cuộc sống? Ðiều đó quá vô minh nhưng có lẽ không sai. Và vì thế tôi vẫn sống, vẫn yêu, vẫn tuyệt vọng đợi chờ, vẫn khổ đau... như thân phận một con người vốn không thể khác.
Cỏ May
24 Feb 1996
(*) Trịnh Công Sơn
Lối Về
(phần 3)
Khi chiếc xe quẹo ra con đường lớn, Đôn ngã người ra trên ghế và hỏi người bạn Mỹ đồng hành đang lái xe:
- Sao, Alan. Mày có thu thập được gì cho bài tường trình của mày không?
- Mày biết gì không Don, tao ghi nhận được rất nhiều điều bổ ích cho bài tường trình của tao. Nhưng mày biết điều gì làm tao thích thú nhất không?
- Điều gì?
- Tao nghĩ là tao chỉ cần thu thập tài liệu cho bài tường trình là xong rồi, nhưng tao không ngờ rằng những điều đó còn ảnh hưởng với lối tao nhìn cuộc sống nữa.
Quay qua nhìn bạn, Đôn hỏi:
- Tao không hiểu mày muốn nói cái gì. Alan, mày cho thí dụ đi.
- Thì thí dụ là cái lý do ra đi của mẹ của mày đó.
- Tao vẫn không hiểu.
- Thì mày không thấy sao, Don. Mẹ của mày nói ra đi chỉ vì muốn cho mày và em mày có tương lai. Cho em mày được gần ba mày, cho ba mẹ mày được gần nhau. Mày chưa thấy sao?
- Tao nghĩ mày lầm rồi, Alan ạ. Ai di dân như nhà tao thì cũng nghĩ như vậy thôi.
- Tao không lầm đâu, Don. Mày nghĩ đi. Ở nước này, tụi tao lớn lên là muốn ra tự lập. Đôi khi đâu phải tại muốn xa cha mẹ, mà tại vì ở nhà cứ nhìn cha mẹ cãi nhau rồi trút lên đầu con cái. Ra đi để tự lập là một lối thoát, hiểu không Don?
- Nhưng, Alan, ba mẹ mày đâu có cãi nhau và vẫn lo cho mày đi học mà.
- Thì tao đồng ý. Nhưng đây là tao nói đến số đông của người ở đây kìa.
Đôn nghĩ tới trường hợp của mình và những hành động mà mình đã làm từ khi mẹ và em vừa sang. Rồi lặng lẽ gật đầu. Bất chợt Đôn quay qua hỏi bạn:
- Alan, mày có nghĩ là tao quá Mỹ hóa không?
- Tao nghĩ là không đâu Don.
Đọc được sự im lặng trong chờ đợi của người bạn Việt Nam của mình, Alan nói tiếp:
- Để tao nói cách khác nhé. Trong lối cư xử với mọi người và trong lối sống hằng ngày, có thể mày đã bị Mỹ hóa ít nhiều. Nhưng tư tưởng và thói quen của mày vẫn là của một người Việt Nam, Don ạ. Để tao đặt ngược một câu hỏi với mày để mày hiểu tao hơn - Mày có đồng ý là từ cách nói chuyện cho đến cách mày sống, mày không khác gì tao, nhất là khi ra đường?
Chờ Đôn gật đầu xong, Alan cắt nghĩa thêm:
- Ở những điều như vậy mà mày mới có những băn khoăn về vấn đề Mỹ hóa chứ gì? Thì mày có thấy không, ngay trong tư tưởng mày đã không muốn hoặc sợ bị Mỹ hóa nên mày mới hỏi tao câu này, đúng không? Thêm vào đó nữa, nếu mày đã hoàn toàn bị Mỹ hóa rồi thì mày đâu bao giờ thấy cần phải đặt câu hỏi này với tao. Chỉ có người chưa bị hoặc không muốn bị Mỹ hóa mới đặt câu hỏi như mày. Có đứa Mỹ nào như tao mà đặt câu hỏi như vậy đâu. Mày thấy chứ, Don?
Đôn nhìn Alan trong sự ngạc nhiên vì lối nhận xét chính xác của bạn mình. Và Đôn ói:
- Mày làm tao ngạc nhiên, Alan.
- Tại sao?
- Vì tao không bao giờ nghĩ ra rằng một người Mỹ, nhất là trẻ như mày, lại có thể có những tư tưởng như vậy.
- Mày biết không Don. Tao thấy đó là sự sai lầm trên quan niệm giữa những người Tây phương và Đông phương. Khi người Tây phương phản ứng theo sự việc xảy ra trước mặt, thì người Đông phương lại cho đó là sự nông cạn của tâm hồn. Ngược lại, khi người Tây phương thấy người Đông phương thường hay suy nghĩ trước khi làm một việc gì, thì lại cho rằng người Đông phương rụt rè, nhút nhát. Sự thật, theo tao nghĩ, chiều sâu của tâm hồn một con người đâu thể nào được đo lường bởi những cá tánh bị thấm nhuần từ phong tục, tập quán của địa phương, kể từ khi còn bé. Có một điều lạ, Don ạ. Mày biết là gì không?
- Gì, Alan?
- Khi tao nói chuyện với mẹ của mày, mẹ của mày có nói một câu làm tao suy nghĩ mãi mới thấy có lẽ đây là sự khác biệt nhất giữa người Việt và người Mỹ.
- Mẹ của tao đã nói gì?
- Khi tao hỏi mẹ của mày có thấy thiếu thốn không khi đã từ một nơi nghèo khó đến một nơi văn minh, tiện nghi như nước Mỹ này. Mà có nhớ mẹ của mày trả lời ra sao không?
Thấy Đôn không nói gì, Alan tự trả lời:
- Mẹ của mày nói: Không có những tiện nghi để cho cuộc sống thêm thoải mái đâu có nghĩa là mình không thoải mái được với một cuộc sống thiếu tiện nghi. Mày dịch câu này lại cho tao, mày không nhớ sao? Mày dùng chữ "content"(hài lòng) thật hay đó Don. Cái chữ này coi vậy chứ khác xa với chữ "accept" (chấp nhận) hay "make-do" (chịu trận). Nhất là với ý nghĩa của câu trả lời của mẹ của mày. Người Mỹ tụi tao lúc nào cũng chạy đua với tiện nghi và vật chất, đâu có như người Đông phương tụi mày. Rất cam phận và chịu đựng. Và điều tuyệt diệu nhất là trong tư tưởng, không bao giờ người Đông phương tụi mày bị ràng buộc bởi sự chịu đựng này. Mày nghĩ tao nói đúng không Don?
Đôn ngồi im lặng thật lâu sau câu nói của bạn mình. Và nói:
- Mày biết không Alan. Tao vừa nghĩ đến một điều mà đáng lẽ ra rất là buồn cười, nhưng khi nghĩ lại thì không buồn cười chút nào cả.
- Điều gì vậy?
- Là tao là một người Việt Nam, một người Á Đông. Mà phải nghe một người Tây phương như mày nói ra mới nhận thứ được cái đẹp, cái hay của mình.
Điều đó đáng buồn cười, mày thấy không? Nhưng lại không buồn cười với riêng cá nhân tao.
- Nhưng ở tao là sự học hỏi, tìm tòi, Don ạ. Với mày, nó sẽ là mọc rễ, nhập tâm từ nhận thức được ra ý nghĩa của quá khứ mình. Mày thấy không, tao giống như một kẻ thấy cái gì đẹp là trầm trồ, khen ngợi và mãi mê thưởng thức. Mày là kẻ đã tìm ra cái đẹp đó và thưởng thức nó bằng cách tuyệt đối nhất. Là tự tạo nó ra trong chính mình và người bên cạnh.
- Ừ, có lẽ mà nói đúng đó Alan. Nhưng nè, Alan...
- Gì Don?
- Với tao, mày là người bên cạnh đó. Và mày là cái động lực đã thúc đẩy tao đi tạo cái đẹp đó.
Alan bối rối với lời khen của bạn và nói nhanh:
- Bây giờ chắc ông nội của mày sắp ra tản bộ sau nhà.
Đôn ngạc nhiên:
- Sao mà biết?
- Vì trước khi đi tao thấy em mày đang chuẩn bị hút bụi nhà.
Hồi tưởng lại lúc thông dịch cho Alan hiểu về câu chuyện cái máy hút bụi của ông Năm Tràng với nụ cười hóm hỉnh của ông, Đôn vỗ vai Ala và nói:
- Older is better, heh Alan! (Gừng càng già càng cay, hở Alan?)
Đôi bạn cùng bật cười. Chiếc xe vẫn lao đi.
oOo
Vừa mở cửa căn phòng nội trú để bước vào, Đôn đã khựng người lại khi thấy một tờ giấy nằm dưới thảm. Cúi xuống cầm tờ giấy lên, Đôn đọc xong rồi bước lại bàn nhấc điện thoại lên và gọi về nhà. Sau vài tiếng chuông vang, điện thoại được nhắc lên với tiếng của ông Phúc ở đầu dây bên kia:
- Alloh?
- Ba hả ba. Con Đôn đây ba. Con gọi cho ba hay là con đã lên đến nơi rồi. Ba à. Con có chuyện muốn nói với ba.
- Chuyện gì đó con?
- Ba à, thứ bảy cuối tháng này hội sinh viên Việt Nam tại trường con có tổ chức một ngày sinh hoạt. Ngày đó là ngày để con cái mời cha mẹ, bạn bè lên để giới thiệu về trường cũng như để giới thiệu những sinh hoạt của hội sinh viên tại đây. Ba lên được không ba?
Với sự yên lặng ở đầu dây bên kia, Đôn đoán được những ý nghĩ của cha mình và nói:
- Ba à, ba chở má và thằng Hậu lên luôn nghe ba. Ông nội nữa. Từ hồi đi học đến giờ con chưa đưa ba má lên đây lần nào. Ba ráng chở cả nhà lên nghe ba.
- Ờ, được con. Để ba nói chuyện lại với ông nội và má con. Rồi sẽ cho con hay lên trển lúc nào.
- Ba à, ba nói với má khi nào lên thì làm dùm con một món ăn gì đó đem theo nghe ba. Trên này hội sinh viên có tổ chức buổi tiếp tân thân mật nên cần nhiều món ăn lắm. Nếu mà nấu được một món thì hết xẩy lắm đó ba.
- Ờ, cái gì chứ cái đó thì con khỏi lo. Má con mà trổ tài là hết mức. Hồi đó ba dìa thăm ông nội con, ra sau bếp gặp má con đang phụ làm bếp với bà nội. Lần đầu ba gặp bả, thiệt là...
Ông Phúc ngừng ngang nơi đây. Sau đó lại nói tiếp:
- Mà thôi, để khi ba má lên đó rồi ba kể lại cho con nghe. Có ông nội nữa mới vui. Chuyện dài lắm, con chưa nghe lần nào. Bây giờ kể trên điện thoại, tốn tiền lắm.
- Dạ, vậy thôi nghe ba.
- Ờ, cúp nghe con.
Chờ nghe ông Phúc gác điện thoại, Đôn mới đặt ống nói của mình xuống và cầm tờ giấy lên đọc một lần nữa. Giấy mời gia nhập và sinh hoạt hội sinh viên Việt Nam. Và Đôn tự nghĩ: Cũng lạ, mình đâu có bao giờ vô hội vô hè gì đâu, mà cũng không hề sinh hoạt với hội sinh viên bao giờ. Thiếu điều như xa lánh. Vậy mà cũng bị... nhận diện. Đôn cảm thấy vui vui với cái-cảm-giác-bị-nhận-diện đó. Lấy một cây kim cúc từ ngăn tủ của bàn học, Đôn ghim tờ giấy đó vào tấm bảng trên vách tường. Xong, Đôn ngồi xuống trên chiếc ghế đặt cạnh bàn học của mình, vừa ngó tờ giấy, vừa tự nói với mình:
- Vậy là mai phải đi đóng tiền niên liễm để vào hội.
nguyễn phước nguyên
Văn Học Văn Học - số 20, tháng 9 năm 1987
nhuận sắc 2022