vhnt, số 118
18 December 1995
Trong số này:
Thư vhnt...............................................................PCL
T H Ơ
1 - Giới thiệu thơ trẻ Saigon: Quốc Sinh.................Dung Nguyen
- Bầy trẻ chăn bò ........................................Quốc Sinh
- Dặm dài................. .................................Quốc Sinh
2 - Nợ ....................................................Hồ Minh Dũng
3 - Người tình bay mãi, qua từng chiêm bao......Chinh
4 - Gió nổi cơn giông...........................................Phượng Châu/TMH
5 - Bài chưa thuộc...............................................Tường Vi
6 - Bên thềm hoang lạnh.....................................Quách Cường
7 - Có những bài thơ ..........................................Bé Lì
8 - Ðoản khúc 1 ..................................................Cỏ Nhớ/ Lộc Quy
V Ă N H Ọ C / N G H Ệ T H U Ậ T / Đ I Ệ N Ả N H
9 - Michael Crichton: Con khủng long trong làng văn................Hồng Lĩnh/Dung Nguyen
10- Sophie Marceau: Một tài năng không gian lận.................Trang Anh/Dung Nguyen
T R U Y Ệ N N G Ắ N
11- Milan Kundera: Chúa ở trong lòng (p.5)..Trịnh Ðình Tường dịch
12- Giới thiệu Andrew Lam: She's In A Dance Of Frenzy.......Phùng Nguyễn
"Quay Cuồng Trong Điệu Vũ"............Andrew Lam/Thạch Hãn dịch
18 tháng 12, 1995
vhnt số này giới thiệu một truyện ngắn của một người viết trẻ, Andrew Lâm với truyện "She's in a dance of frenzy", Thạch Hãn chuyển ngữ, do anh Phùng Nguyễn gửi bạn đọc. Andrew Lâm, cùng với một số khá nhiều những cây viết trẻ lớn lên tại hải ngoại, đã dùng Anh ngữ hoặc một ngoại ngữ không phải tiếng mẹ đẻ để sáng tác. Những người viết trẻ này phần lớn đã được đào tạo trong những chương trình sáng tác văn chương, hoặc có theo học những phân khoa văn chương tại các trường đại học, sáng tác của họ hoàn toàn không lệ thuộc vào hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt của người Việt Nam, hay chịu ảnh hưởng bởi một nền văn học Việt Nam hải ngoại hay trong nước. Sáng tác của họ có một bản sắc riêng biệt, tuy nhiên vẫn bộc lộ được tình cảm của một người mang nguồn gốc Việt Nam, một sắc thái lạc loài cách biệt, giữa rừng văn hóa ở hải ngoại. Suy tư của họ là mối trăn trở chung của những kẻ lưu vong. Họ là những kẻ đang đi tìm một bản thể riêng?
Có lần tôi đưa vấn đề này ra bàn với người bạn, cũng là một nhà văn trẻ qua Mỹ từ nhỏ và sáng tác bằng Anh ngữ. Người bạn bác rằng: Nhà văn không thể hiện một văn hóa hay để mình bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa. Nhà văn là người làm văn hoá nhưng không có văn hóa.
Câu này tôi vẫn nhớ trong lòng.
Nhà thơ Nobelist Czeslaw Milosz gốc Poland, trong một đoạn viết trong "Nỗi lòng tha hương", ông nói:
Con người khi đánh mất sự hòa hợp với thế giới chung quanh, khi không cảm thấy đời sống quanh mình là một tổ ấm, những điều nhiễu nhương khó mà hoà nhập vào, thì tự thấy mình là một kẻ tha hương, là một người lưu vong. Nếu người ấy là một nghệ sỹ tự giải toả chính mình với đời sống, một cách rất nghịch lý, người nghệ sỹ ấy được thông cảm và gắn bó với cuộc sống. Nói rõ hơn, con người giữa đời sống xã hội đương thời, dường như ai cũng sống lưu vong ở một phương diện nào.
(A loss of harmony with the surrounding space, the inability to feel at home in the world, so oppressive to an expatriate, a refugee, an immigrant, paradoxically integrates him in contemporary society and makes him, if he is an artist, understood by all. Even more, to express the existential situation of modern man, one must live in exile of some sort.
Czeslaw Milosz, quote On Exile)
Czeslaw Milosz mặc dù được coi như một nhà thơ Ba-Lan, nhưng ông không được sinh ra ở Ba-Lan, mà cả đời ông sinh sống và sáng tác ở nước ngoài.
thân ái,
PCL/vhnt
Quốc Sinh xuất thân từ một vùng quê miền Trung vào Sài Gòn học, trong ký ức thơ Quốc Sinh vẫn đôi khi bắt gặp hình ảnh quê nhà. Quốc Sinh là cây bút trẻ của vòm me xanh. Nhưng trang thơ này anh bạn để bóng lá xanh non thành thị phía sau lưng...
Dung Nguyen
Bầy Trẻ Chăn Bò
Những đứa trẻ chăn bò đi qua làng
trong buổi sớm mùa đông
Mang theo những chiếc roi kéo lách tách trên mặt đất
Chúng che thân bằng mảnh áo nhàu cũ nhất
Trong ánh mắt loe nhoe còn mơ giấc ngủ hôm qua
Những đứa trẻ chăn bò lặng lẽ đi khỏi làng
Ban mai nuốt dần từng ánh hồng trên bếp lửa
Nắng đã lên rì rào ngòai mé sông
Lũ trẻ cùng đàn bò đã ra tới cánh đồng
Ở phía Tây Nam làng núi rừng chạy mênh mông
Những khỏang đồng quanh năm ngập gió trời
và tràn đầy cỏ
Những đứa trẻ chăn bò suốt bốn mùa lang thang trên đó
Chúng mải mê chơi như những con nghé
mải mê quên cả chiều về
Bầy trẻ chăn bò trở về làng trong buổi chiều mùa đông
Chúng kéo những chiếc roi lách tách
kêu trên con đường sỏi đất
Từng ngõ nhà lên đèn khi hòang
hôn cuối chân trời lặn tắt
Còn trầm vang tiếng bò mẹ gọi tìm
con trong vườn nhập nhọang đêm
10-95
Dặm Dài
Như con sâu cắn lá vườn đam mê
Ở một nơi
Tôi với những tháng ngày qua không
nhớ
Mấy nẻo hồn riêng chừng như tấp
bụi mờ
Một nơi
Sông chẳng bao giờ hóa nổi câu thơ
Mệt mề trôi quanh bờ chật
Tôi treo mình lên giấc mơ
Không một chân trời về đáy mắt
Tôi lên đường một chiều mây biếc
Tím mùa thu giăng mấy phố phường
Nơi ấy khuất xa dần trong đêm rét
Còn lại chấm mờ
Ðỏ quạnh cuối sương
Tôi mơ làm gió
Bay lên với gió
Qua những mạn sông thắm đỏ ngọt ngào
Làm lòai thú đêm hoang mắt đỏ
Chạy miệt mài trên cánh đồng sao
Từ bỏ những ngày dài gặm nhấm
Như con sâu cắn nát lá khu vườn
Một đêm
Tôi bần bật đập cánh
Làm chim vui cô độc tha phương
Một đêm tôi rủ bờm kiệt sức
Những ngả đường còn xanh biếc dặm dài
Thấy chốn xưa như tắt sau bờ vực
Giữa hành trình lạc lõng một ban mai.
9-1995
Quốc Sinh
TT 17-10-1995
Nợ
Rừng cây, ta nợ, vài chiếc lá
nằm đợi bao năm ngựa vía về
lục lạc rung khan triền núi lở
bờm rụng, vó cùn - hết thời hề
Lọng người che đồi hoang kín mít
co ro mình ta vạch lá nhìn trời
mới nhớ năm xưa mượn em sợi tóc
tưởng ngàn thu xanh, nay bạc trắng rồi.
Nợ sông, mấy nhánh, qua cồn cát
thân ta tôm đất, có gì vui
xa rong mới biết bùn chua ngọt
đời trôi xuôi, mình bò giật lùi.
Hoàng hôn, ta nợ, vầng mây úa
níu đuôi hạc bay hành hiệp góc đời
ánh trăng ngày ấy, lời thề ấy
trấn nước với ta đuối giữa đìa người
***
Ðêm đêm, thao thức, chờ gõ cửa
chẳng còn ai đến đòi nợ về
còng lưng gánh, một mình, khấp khởi
chạy quanh co - đời quanh co hề.
Hồ Minh Dũng
Người Tình Bay Mãi Qua Từng Chiêm Bao
tặng B. Hằng
(I)
À ơi...
ru người
ru người, tình xa.
Người bay thầm lặng bay quên không về
Bay theo mây trắng,
bay theo sông dài.
Ta ngồi bất động.
chờ tin...
Người tình ơi hỡi,
mùa đông đã về.
Ru ta chìm khuất, tiếng ru ơ hờ...
rơi từng
chiếc lá
đông khô.
(II)
Người tình ơi hỡi,
mình xa cách rồi.
Người bay tịch lặng.
Ðành bỏ quên ta.
Người tình bay mãi
Qua từng chiêm bao.
Ôi xa xăm quá,
Người tình như mây.
(III)
Người tình đi xa. Mãi miết. Bặc âm.
Hờ,
chốn mù sương.
Bạc màu cố quận.
Lá muà đông,
khô như giọt máu.
Rơi lặng thầm,
rơi quanh vết ai...
Ta cũng chìm rơi.
Vực nào,
người có nghe tiếng gọi?
Người tình đi xa.
khuất mãi đời ta.
Biền biệt chim xưa. Quên không về.
Ơ hờ, sông cũ.
Trăng chưa tìm nụ,
sông đã xa ai?
(IV)
Ði biền biệt.
Ði quên về.
Quê xa vẫn đứng
não nề
chờ tin.
Theo gió cũ,
về đi em
Tiếc chi một cuộc vui xa,
đã gần...
12.6.1995
Chinh
Gió Nổi Cơn Giông
Rừng nổi gió giục hồn sông-núi dậy,
Ðêm linh-thiêng ai viết hịch chiêu-hiền.
Những trái tim hồng nung thanh kiếm gẫy,
Chí ngang-tàng trời đất phải ngả-nghiêng.
Mẹ bỏ núi, cha bỏ vùng biển cả,
Về hội anh-hùng con nước nôn-nao.
Suối thơ buồn trăng mờ trong lửa đỏ,
Biển Ðông gào, núi hận ngất trời cao.
Ai vớt lá đọc hịch truyền chiến-sĩ,
Tim xôn-xao, máu nóng chảy vào người.
Khăn gói lên đường: Tâm-hồn hiền-sĩ,
Gậy tầm-vông, và môi trổ hoa cười.
Ngựa mỏi vó, thân tàn loang máu đồ
Voi sa lầy mắt lệ chảy rưng-rưng.
Ði vá cờ-đồ cha ông bỏ dở,
Giấc mộng chưa tròn thương nước long-đong.
Ta gặp lại anh-hùng trong sách sử
Dưới trăng mờ viết hịch gởi non-sông.
Ước-nguyện thác vào mấy vần thơ cổ,
Sẽ có một ngày gió nổi cơn giông.
Phương-Châu
Thơ Phương-Châu, trích từ Giúp Ích Số 4. Ngoài thơ và truyện ngắn, Giúp Ích còn có nhiều bài biên-khảo giá-trị về văn-hóa và truyền-thống Việt.
Bài Chưa Thuộc
Có một bận giờ ra chơi thứ sáu
Sau giờ Việt văn, cô vừa giảng bài xong
Em đang ngồi nắn nót tựa đề hồng
Nhìn lên thấy anh cười cười hỏi chuyện
Em ngỡ ngàng... anh làm như thân thiện
Hỏi mượn bài chép trong vở Việt Văn
Anh bảo anh vắng mặt suốt một tuần
Nên phải chép lại bài cho đầy đủ
Em cho mượn tuy thấy hơi ngồ ngộ
Có thật anh vắng mặt suốt một tuần?
Em với anh tuy học lớp cũng gần
Nhưng ai biết anh đi hay vắng mặt...
Rồi một ngày... một tuần qua vùn vụt
Đợi chờ hoài chẳng thấy bóng anh đâu
Bài Việt Văn cô bắt học thuộc làu
Tập không có, không học bài, sao thuộc?
Ngày nào cũng chờ anh như lửa đốt
Em nhát gan nên chẳng dám sang đòi
Sợ đám bạn bè nghịch ngợm túa ra coi
Thì lúc đó em ngàn lần xấu hổ....
Sáng thứ hai, ngày gì mà xui quá
Mới đầu giờ cô gọi đúng tên em
Nghe tên mình em thật muốn đứng tim
Guốc thì nhẹ mà sao như chôn đá
Lên gặp cô, em cúi đầu... thẹn quá
Học trò cưng mà lại chẳng thuộc bài
Cô nhìn em mắt cứ dò hỏi hoài
Sao con bé hôm nay bài không thuộc?
Em nhìn cô, mắt lệ mờ ấm ức
- Cô ơi em không có tập học bài
- Vậy thì em đã đưa tập cho ai?
Em nhìn xuống lòng ngập tràn đau khổ
Lũ bạn cười, nháy mắt em dụ dỗ
Bí mật gì, thôi khai thật ra đi
Thú thật xong, em còn biết nói chi
Tin đồn đã truyền nhanh như gió thổi
Sang thứ tư bỗng từ đâu anh tới
Trả tập em, anh vẫn chỉ cười cười
Làm em giận anh quá di mất thôi
Không xin lỗi, cũng chẳng lời... sám hối
Em nhìn anh, mắt dỗi hờn không nói
Cầu đêm nay trời bắt phạt cho rồi
Nói gì không... mà sao cứ cười hoài
Cầm quyển vở... ủa, ai bao bìa mới
Bài học ai chép dùm cho đến cuối
Nét chữ gọn gàng cứng cỏi làm sao
Lật cuối trang sau, có một đoạn viết màu
Ai chép tặng bài thơ tình Mường Mán
Cuối tuần rồi, học văn chương lãng mạn
Phần giảng này lại chẳng chép vào đây
Nguyên trang giấy, nhìn vào em chỉ thấy
Vỏn vẹn cuối hàng hai chữ... "Yêu em"...
tường vi
12/14/95
Bên Thềm Hoang Lạnh
Em đứng bên thềm, nhìn lá vàng rơi,
Chiều thu nhạt nắng, nhớ nhung nặng đời,
Em đứng bên đời, mệt những buồn đau,
Ôm hồn viễn xứ, chết tự hôm nào!
Em đứng trong ngày, bắt lấy thời gian,
Thấy ngày vùn vụt, tim đau bàng hoàng!
Em đứng nơi nầy, tìm chút tình thương,
Người qua lặng lẻ, tình thương lạc đường!!!
Em đứng bên thềm, gục khóc mình em,
Phù du một đóa, đời thêm cũ mèm!!!
Em đứng bên thềm, chiều đã dần phai,
Tình em ai biết, thềm hoang lạnh dài!!!
Quách Cường
Calif 11/13/95
Có Những Bài Thơ...
Có những bài thơ nhỏ
Viết vội trong sân trường
Nằm bên lề trang vở
Từng nét chữ vấn vương...
Những bài thơ không tựa
Quên luôn cả luật, vần
Tình cờ em gặp lại
Bỗng nhung nhớ mênh mang...
Ngày xưa, từng nét chữ
Nắn nót, thật dễ thương
Đây cuốn sổ học trò
Ai ký chữ... "thương thương"
Kia một bài thơ nhỏ
Chan chứa đọng tình quê
Chữ nghiêng nghiêng chắp nối
Như mấy nhịp Trường Tiền...
Có những bài thơ nhỏ
Êm êm, nét mượt mà
Đưa em về thuở nọ
Tuổi học trò phôi pha...
Bé Lì
Dec' 95
Ðoản Khúc 1
Người bạn thân thời thơ ấu kể tôi nghe về cuộc tình đã mất. Anh cứ buồn, buồn hoài. Cho đến một ngày bạn tôi nhận được thư người bạn gái cũ. Lá thư xin lỗi, tự trách đầy nước mắt. Tôi hỏi "anh còn tình cảm với người ta, sao không tha thứ". Anh cười, là nụ cười buồn, "Anh vẫn nghĩ anh là một người rất tầm thường, rất nhỏ bé, nhỏ bé như cây kim vậy. Em có bao giờ thấy cây kim rớt xuống lạch nước mà tìm lại được không?".
Thì ra là thế. Tôi cứ loay hoay mãi không biết tìm hình ảnh nào, ngôn ngữ gì để ví von một gút mắc của đời sống mình. Nghe chuyện, tôi mới hiểu, có một lúc nào đó tôi đã như cây kim văng mất khỏi đời sống người. Thì ra tôi vốn nhỏ bé và tầm thường như thế.
Cỏ Nhớ
Tờ Time (2-10-1995) gọi ông là "Jurassic man" (ông khủng long), "Mister wizard" (thầy phù thủy). Michael Crichton quả là một khủng long trong làng văn, đúng hơn ông có cái đầu to lớn của một con khủng long khi sáng tác văn học.
Dung Nguyen sưu tầm
Khủng Long Trong Làng Văn
Nhà xuất bản Alfred A. Knopf vừa loan báo trong một cuộc họp báo cuối tháng chín vừa qua rằng họ sẽ in cuốn tiểu thuyết mới nhất của Michael Crichton tựa "The Lost World" (Trần gian đã mất) với hai triệu bản bìa cứng (hardcover). Và sách sẽ được dịch ra 27 ngữ khác trong vòng năm tới. Một kỷ lục trong lĩnh vực xuất bản sách văn học. Có điều tác giả không thuộc câu lạc bộ những nhà văn diễm tình kiểu Daniel Steel hoặc Barbara Cartland. Ông cũng không viết truyện tình báo như Tom Clancy. Cũng chẳng đưa người đọc vào thế giới ghê rợn như Stephen King. Sách của ông, như cuốn "The lost world" (mà bạn đọc Việt Nam rồi cũng sẽ được thưởng thức), đủ làm bể đầu những người đọc dễ dãi, ít kiến thức khoa học.
"The lost world" là phần tiếp của cuốn sách best-seller "Jurassic Park" (Công viên khủng long) xuất bản năm 1990, và sau đó đã được đạo diễn Steven Spielberg chuyển thể thành bộ phim cùng tên cực kỳ ăn khách khắp thế giới, đồng thời mang lại cho ông bốn giải Oscar (phim thì hấp dẫn từ đầu tới cuối, song bản dịch Việt ngữ cuốn Jurassic Park của nhà xuất bản Kim Ðồng cũng không phải sách dễ nuốt).
Nhà văn người Mỹ 52 tuổi, cao 2,06 mét này không chỉ thuận tay với các tiểu thuyết khoa học viễn vông mà còn viết nhiều đề tài khác, và hầu như những gì ông đã xuất bản khi được dựng thành phim cũng rất thành công.
Bộ phim truyền hình nhiều tập ER chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Crichton, được ông viết từ những kinh nghiệm của một sinh viên y khoa Ðại Học Harvard, kể về những gì diễn ra tại một phòng cấp cứu ở bệnh viện, cũng đã được Steven Spielberg dàn dựng, đã lôi cuốn khán giả Mỹ (đồng thời được chiếu ở 82 nước) và được đề nghị tặng tới 23 giải Emmy-giải thưởng lớn nhất cho các sản phẩm của màn ảnh nhỏ ở Mỹ, ngang với giải Oscar trong điện ảnh. Song kịch bản ER đã phải chịu cảnh mòn mỏi chờ đợi suốt 22 năm ở Hollywood trước khi vào tay Spielberg. "The Andromeda strain" (Giống Andromeda), tiểu thuyết best-seller đầu tiên của Crichton, được dựng thành phim và trở thành một phim ăn khách vào năm 1971. Tiểu thuyết "Rising sun" (Mặt trời mọc) viết năm 1993, nói về nỗi sợ hiểm họa kinh tế Nhật trong lòng nước Mỹ, được dựng phim và dù bị Nhật tẩy chay cũng đã thu về hơn 100 triệu USD. "Disclosure" (Cởi ra) viết năm 1994 xung quanh chuyện quấy rối tình dục trong chốn làm việc ở Mỹ, khi quay thành phim (với nữ chủ Demi Moore quấy rối nhân viên Michael Douglas) đã mang về cho nhà sản xuất hơn 200 triệu USD. "Congo", câu chuyện phiêu lưu trong rừng rậm xứ Congo với một chú khỉ dã nhân biết nói, được chuyển thể điện ảnh mới đây cũng thu vào 80 triệu USD ở Mỹ và đang được chiếu ở châu Âu. Phim này không được ăn khách lắm so với những phim khác từ tiểu thuyết của Crichton có lẽ do khi quảng cáo nó người ta đã quên ghi dưới tên bộ phim một siêu sao, tác giả của "Công viên khủng long." Bởi "Jurassic Park" đã thu được 912 triệu USD khi chiếu khắp thế giới, và trở thành bộ phim được nhiều người biết đến nhất trong lịch sử điện ảnh.
Crichton đạt được thành công vẻ vang như vậy là nhờ sự am tường và mối đam mê của ông đối với khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, giải trí và cả với thương mại. Ông không chỉ có một năng lực tưởng tượng phi thường mà còn say sưa với những vấn đề xã hội đương thời, và cũng quan tâm không kém đến chuyện doanh thu từ sách và phim. Steven Spielberg ca ngợi: " Ông có lẽ là người giàu tưởng tượng nhất mà tôi được biết." Nhưng những gì Crichton tưởng tượng ra được chuyển hóa thành những thực tại sờ mó được, gần gủi với con người, như đồng tiền chẳng hạn. Ví dụ, trong "Jurassic park" có một đọan viết về cấu trúc DNA mà mã di truyền có thể tạo được nhờ kỹ thuật sinh học, đang từ những chuyện cao siêu về phân tử DNA, chỉ sau vài đọan dẫn, tác giả đã biến những vật thể vô cùng bé thành chuyện sản xuất những gen chống bệnh đau tim, những chế phẩm ngăn ngừa sương giá phá họai mùa màng và từ đó mang về tớị..5 tỉ USD!
Tổng biên tập nhà xuất bản Knopf, ông Sonny Mehta, nói về Crichton:" Khi Michael gửi cho chúng tôi một bản thảo, tất cả chúng tôi đều hết sức kinh ngạc bởi nó chứa đựng quá nhiều thông tin ở trong đó, và nó đã được nghiên cứu mới kỹ lưỡng làm saọ Tôi đều học được điều gì đó mỗi khi, làm việc với Michael!"
Phải chăng trong một thế giới đang khát khao thông tin, các tác phẩm của Michael Crichton càng được ưa chuộng? Tính ra, từ cuốn "The Andromeda strain" tới nay đã có hơn 100 triệu bản in các tiểu thuyết của ông. Tạp chí Forbes ước tính thu nhập trong năm 1995 của Crichton là 22 triệu USD.
Nhà văn Crichton sinh ra ở Chicago, có bố là nhà báọ Năm 14 tuổị Michael đã viết một truyện du hành cho tờ New York Times, sau đó thi vào trường Harvard với ý định trở thành một nhà văn, nhưng rồi sớm bỏ khoa tiếng Anh để theo ngành nhân loại học, được học bổng du học ở Ðại học Cambridge (Anh) và trở lại Harvard học y khoạ Trong thơi gian học đại học, chàng sinh viên Crichton đã kiếm được khấm khá nhờ viết tiểu thuyết dưới nhiều bút danh và chỉ ký tên thật từ cuốn "The Andromeda strain." Dạo đó, mỗi ngày Michael Crichton viết tới 10,000 từ!
Không chỉ viết văn, Michael Crichton còn làm được bao chuyện khác. Ông đã có 24 đầu sách, đã đạo diễn tám bộ phim. Ông còn viết tài liệu về kỹ thuật tin học, điều hành một công ty phần mềm, từng thiết kế trò chơi điện tử, viết bài cho Wired, tạp chí chuyên về máy tính có đông bạn đọc. Ông còn sưu tập các tác phẩm mỹ thuật hiện đại và từng viết một cuốn sách về họa sĩ Jasper Johns.
Thành công trong nhiều lĩnh vực nhưng Michael Crichton bảo vệ nghiêm ngặt cuộc sống riêng tư của ông và lánh xa giới báo chí. Không một nhà báo nào được ông mời đến nhà riêng ở Santa Monica, nơi ông đang sống với người vợ thứ tư sau ba lần ly dị và với cô con gái sáu tuổi.
Cứ mỗi cuốn sách Michael Crichton mất một năm rưỡi để viết. Làm việc đều đặn là chìa khóa thành công của ông. Ðều đặn cả trong bữa ăn: hầu như ông ăn bữa trưa không thay đổi trong suốt thời gian viết sách. Thường là một món đơn giản.
"The lost world" đã được Steven Spielberg đưa vào kế họach làm phim của hãng Amblin Entertainment dù có thể không do ông làm đạo diễn. Chắc chắn phim sẽ rất ăn khách.
Hồng Lĩnh
theo Time - TTCN 8-10-1995
Sophie Marceau là diễn viên điện ảnh Pháp rất nổi tiếng. Kể từ bộ phim La boum (khi cô mới chỉ 15 tuổi) đến các bộ phim sau này như Eurydice, Pygmalion và Trái tim dũng cảm, Sophie đã không ngừng giành được cảm tình của khán giả Pháp cũng như thế giới bằng cách diễn xuất rất sống thực và đầy nữ tính của cô.
Tiếc là tôi không có scanner để cho các bạn trên vhnt cùng xem tấm hình đẹp ngây thơ và rất quyến rũ của Sophie Marceau. Tiếc thay!!!!
Dung Nguyen giới thiệu
Sophie Marceau - Một Tài Năng Không Gian Lận
Sophie là ngôi sao điện ảnh duy nhất đi ngang qua một tấm gương mà chẳng màng ngó vào. Cô cũng là người duy nhất chộp lấy hóa đơn tính tiền khi được mời ăn ở nhà hàng, và là người duy nhất nghĩ đến mọi người trước khi nghĩ đến mình. Công chúng Pháp đã không lầm khi dành cho cô tất cả sự mến mộ. Sophie sống rất thật. Cô không hề gian lận.
Ðể quyến rũ công chúng, cô không bơm môi, không đánh mông, không làm điệu. Cô chỉ thể hiện những gì là chính bản thân mình. Trên sàn quay, cô rực sáng như một vầng dương. Ðôi tay cô rộng mở, trái tim cô rộng mở, chan chứa tình yêu và lòng cao thượng. Ðiện ảnh có thể đã khiến cô già dặn trước tuổi, nhưng thành công không làm cô ngây ngất. Cô vẫn nhớ xuất thân của mình: "Tôi là một cô gái tỉnh lẽ..." Sophie rất thích viết. Cô vẫn làm thơ và ghi nhật ký. Cô dự định sẽ tung ra cuốn phim đầu tiên với tư cách đạo diễn. "Bình minh đảo ngược"(tên bộ phim đó) đem đến cho cô một niềm vui sáng tạo to lớn. Và tất cả những gì Sophie bắt tay vào làm thì cô luôn theo đuổi với tòan bộ sự đam mê. Cô đã từng say mê bơi lội đến mức... chỉ dừng lại khi hai vai có dấu hiệu to bè; cô học đánh kiếm với tất cả sự cần mẫn, học thêu thùa với tất cả sự kiên trì; cô yêu nhạc của Bach, của Mahler, nhạc Baroque các thế kỷ thứ XIV-XV; cô thích vẽ cảnh thiên nhiên và chân dung các nhà văn mà cô yêu thích.
Lấy đâu ra nguồn năng lượng phi thường nơi người nữ diễn viên bé nhỏ đõ "Bí quyết" của cô có lẽ là tình yêu cuộc sống, yêu công việc, sống hết mình và sống rất "tự nhiên"... ngay cả trong vai trò người mẹ. Giờ đây cô đang rất bận rộn sau khi bé Vincent ra đời. Cô tâm sự:"Cuộc đời đã đem lại cho tôi rất nhiều diễm phúc và tôi muốn trao lại tòan bộ những may mắn cho cục cưng của tôi. Tôi sẽ không nhường cho bất cứ ai việc chăm sóc nó." Chỉ ở một điểm duy nhất, Sophie thể hiện sự đỏng đảnh thường có ở các minh tinh: cô kiên quyết giấu tên cha của đứa bé. Cô nói:"Tôi đã cống hiến nhiều cho công chúng. Hãy cho tôi giữ lại một chút bí mật riêng tư." Sophie nói đúng, và công chúng Pháp vốn mến mộ Sophie đã quyết định chiều theo nguyện vọng của cô.
Trang Anh
TTCN 17-9-1995
Chúa Ở Trong Lòng
Phần 9
Hôm đó là thứ Năm. Thứ Bảy Edward cùng Alice về quê thăm người anh. Ông anh vui vẻ đón tiếp hai người, và cho họ mượn căn nhà mát cạnh giòng sông.
Hai kẻ yêu nhau đi lang thang trong khắp cánh rừng, và dạo chơi trên những đồng cỏ phủ đầy hoa vàng suốt buổi chiều. Họ hôn nhau, và bàn tay của Edward đã vi phạm vào đường biên giới vô hình chia đôi vùng tội lỗi và thánh thiện. Chàng thấy vùng cấm địa từ rốn trở xuống không còn là cấm địa nữa. Lúc đầu chàng định hỏi cặn kẻ về sự thay đổi thái độ của Alice, nhưng một nỗi e ngại làm chàng rụt rè, nên chàng giữ yên lặng.
Dường như chàng đoán đúng về sự đổi thái độ đột ngột của Alice. Sự thay đổi này hoàn toàn không ăn thua gì tới những tuần lễ thuyết phục khổ công của chàng, cũng như chẳng ăn thua gì tới những lý luận hết sức logic chàng đã đưa ra. Thực tế, chàng hiểu rõ sự biến thiên tâm lý này hoàn toàn do nguồn tin tử đạo mà chàng đang gánh (dĩ nhiên đó là một sự hiểu lầm). Nhưng thiên hạ vẫn suy luận một cách phi luận lý từ một sự hiểu lầm như vậỵ Edward tự hỏi: " Tại sao nỗi đau khổ chàng đang gánh chịu vì sự trung tín đối với Chúa lại ảnh hưởng đến sự bất trung của Alice đối với điều răn của Chúa. Nếu chàng không phản Chúa trước Ủy ban, thì sao nàng lại phản Ngài trước Edward?"
Trong trường hợp này, chàng hiểu, những suy tư đó nếu được nói thành lời lẽ làm cho Alice thấy được niềm tin thiếu thuần nhất của nàng, rằng đức tin của nàng chỉ là một bức bình phong cho nàng lẫn trốn những sự thật cuộc đời. Vì vậy Edward đành i lặng; nàng cũng không để ý đến thái độ này vì còn bận nói huyên thuyên. Sự vui vẻ linh hoạt của nàng cho thấy rằng sự chuyển hướng đức tin này không có gì bi thảm hay đau đớn làm nàng phải khó chịu cả.
Khi trời tối họ trở về căn nhà mát, mở đèn lên, trải giường ngay ngắn, và hôn nhau. Alice bảo chàng tắt đèn. Tuy nhiên, ánh sáng những vì sao tiếp tục chiếu xuyên qua cửa sổ, nên nàng lại bảo chàng kéo màn cửa lại. Rồi nàng lặng lẽ hiến thân cho chàng.
Edward đã chờ đợi giây phút này trong nhiều tuần lễ; nhưng ngạc nhiên thay, khi giây phút đến chàng thấy sao nó lại vô vị như vậy, so với thời gian chờ đợi. Vì thế trong lúc ái ân, chàng chẳng thấy hoan lạc gì cả vì những tư tưởng cứ hổn độn nhảy múa trong đầu: những tuần lễ dài khổ sở Alice hành hạ chàng; nào là sự khó chịu chàng phải chịu đựng trong trường (mà nàng chính là nguyên nhân). Thế nên, thay vì cảm ơn nàng chăn gối, chàng cảm thấy một cơn giận cứ dâng lên. Ðiều làm cho chàng khó chịu nhất là sự dễ dàng phản bội ông Chúa-cấm-tà-dâm của nàng, mà nàng từng cuồng nhiệt thờ phụng; thêm nữa dường như nàng thể nghiệm mọi sự mà nội tâm không có gì bứt rứt, xung đột cả - một cách ung dung, tự tại. Khi cơn khó chịu này ngùn ngụt dâng lên, chàng hung hãn yêu nàng, như để buộc nàng phải có những phản ứng, kêu la, hoặc than khóc. Nhưng chàng hoàn toàn thất bại cho dù chàng có biểu lộ hết nhiệt tình, và cơn mưa ái ân chấm dứt một cách nhạt nhẽo.
Nàng choàng tay ôm lấy chàng rồi lặng lẽ ngủ, trong khi Edward mở mắt nhìn vào bóng đêm, phân tích tình cảm của mình: chàng cảm thấy trống rỗng. Chàng cố hình dung Alice (không phải bằng xương bằng thịt, nhưng nếu có thể được, con người toàn vẹn của nàng), nhưng chàng chỉ thấy nàng như một bóng ma.
Chúng ta hãy dừng lại đây một chút: Alice, như Edward từ trước đến giờ vẫn thấy, là một người con gái khờ khạo, nhưng có cá tính vững vàng: vẻ đẹp đơn giản của nhân dáng nàng tương ứng với sự giả tạo cũng đơn giản của đức tin nàng; và cái định mệnh đơn giản này là sự cụ thể hoá của nhân cách nàng. Cho đến lúc này, Edward thấy nàng rõ ràng như một sự hiện hữu liên tục, sống động. Chàng có thể chế nhạo nàng, nguyền rủa nàng, hoặc tìm cách dụ dỗ nàng. Nhưng chàng (dù không muốn) phải kính trọng nàng.
Giờ đây, những dữ kiện vừa xảy ra đã tạo nên một vết nứt trong sự hiện hữu của nàng. Ðối với Edward, niềm tin của nàng chỉ là một ngoại vật của định mệnh, và định mệnh này cũng là một vật ngoại của thể xác, tư tưởng, và đời sống nàng. Nàng chỉ là một sự kết hợp ngẫu nhiên của thể xác, tư tưởng một cách bất kỳ và mong manh. Chàng hình dung ra Alice (nàng đang ngon giấc, gối đầu lên cánh tay chàng), và thấy thân thể yêu kiều này bị tách rời khỏi tư tưởng kia; chàng ưa thích thể xác này nhưng chàng thấy nực cười vì một thể xác không tư tưởng không thể tạo nên một con người toàn vẹn. Nàng giống như một giòng mực kẻ lên giấy, không hình dạng.
Chàng thật sự yêu thích thể xác nàỵ Khi Alice tỉnh giấc sáng hôm sau, chàng bắt nàng để trần thân thể, và dù ngày hôm qua nàng đã cương quyết đòi kéo màn cửa vì ngay cả ánh sáng mờ nhạt của những vì sao cũng làm nàng mắc cở, hôm nay hình như nàng hoàn toàn tự nhiên trước yêu cầu của chàng. Edward nhìn nàng chăm chú ( nàng vui vẻ pha trà, làm điểm tâm ); và khi Alice liếc nhìn chàng, nàng thấy chàng đang chìm đắm trong dòng suy tưởng. Nàng hỏi chuyện gì, chàng chỉ trả lời rằng chàng phải nói chuyện với ông anh sau bữa điểm tâm.
Ông anh hỏi về sinh hoạt tại trườngcủa chàng. Edward trả lời rằng mọi sự đều tốt đẹp. Người anh nói:
- Chehachkova là một con heo, nhưng tao tha thứ cho nó lâu rồi. Anh tha thứ, vì ả có biết ả làm gì đâu? Ả muốn làm hại anh, nhưng vì thế mà lại hay, vì ả giúp anh tìm được một đời sống đẹp. Làm nông dân, anh kiếm nhiều tiền hơn. Và được liên lạc với thiên nhiên là liều thuốc hay nhất ngừa bệnh hoài nghi chủ nghĩa, mà dân thành phố thường mắc phải.
Edward nói:
- Người đàn bà đó cũng đem cho em một vài nguồn vui.
Nói thế, nhưng Edward vẫn giữ vẻ tư lự. Chàng có quá nhiều vấn đề trong đầu, không biết nên sắp xếp như thế nào. Chàng kể cho người anh nghe về mối tình đối với Alice, về chuyện bày đặt tin Chúa để chinh phục nàng, về những rắc rối do chuyện đức tin gây ra, về ủy ban điều tra, về Chehachkova đòi cải tạo chàng, ngỡ chàng là một kẻ tử đạọ Chỉ có một điều chàng không dám nói là đã buộc Chehachkova đọc kinh, vì qua những câu chuyện này chàng thoáng thấy vẻ bất đồng ý trong ánh mắt người anh.
Người anh nói:
- Tao có thể cũng mắc nhiều lầm lỗi, nhưng có một điều tao không bao giờ làm: Ðó là, không bao giờ đóng kịch, và nói thẳng vào mặt mọi người điều tao suy nghĩ. Có sao nói vậy, người ơi.
Edward luôn kính trọng và yêu thích ông anh chàng, hơn một người anh, mà là một người bạn (chàng không có nhiều bạn), vì thế những điều ông anh nói làm chàng khổ sở, khó chịu. Chàng phải tìm cách biện minh cho những hành động đó; cho nên hai anh em tranh luận về nhau về điều phải, lẽ trái trên cuộc đời. Cuối cùng Edward nói:
- Anh Hai, em biết anh là người thẳng thắn và anh luôn luôn hãnh diện về điểm đó. Nhưng có khi nào anh tự hỏi rằng: tại sao ta phải nói thật? Ðiều gì buộc chúng ta làm như thế? Và tại sao dám nói thẳng, nói thật lại được người đời xem như đức hạnh, phỉ phong? Anh cứ tưởng tượng thử xem là anh gặp một thằng điên, tự cho nó là một con cá và mọi người đều là cá hết, cá mập, cá nhám, cá sà, v.v... Anh có tranh luận với nó không? Anh có cởi hết quần áo ra chỉ cho nó thấy anh không có vẩy không? Anh có nói thẳng vào mặt nó điều anh nghĩ không?
Người anh im lặng, và Edward tiếp tục:
- Nếu anh nói cho nó biết sự thực, nói cho nó biết những gìanh nghĩ, thì anh sẽ phải đôi co với một thằng điên, rồi anh cũng phát điên lên theo. Xã hội quanh mình cũng vậy. Nếu em cứ ngoan cố nói thẳng sự thật vào mặt nó, thì cũng như em coi việc nói chuyện với thằng điên là quan trọng, là nghiêm túc. Nếu mình cứ quan trọng, nghiêm túc hóa những điều lẩm ca, lẩm cẩm thì mình sẽ mất đi sự nghiêm túc chung quanh, cũng như của chính mình. Em phải nói láo, vì em không muốn quan trọng hóa thằng điên: " Mày muốn làm cá mập ư, cứ làm cá mập đi ", và vì em không muốn hóa điên theo nó.
Milan Kundera
(còn tiếp...)
Trịnh Đình Tường dịch theo bản English: "Edward and God", trong tuyển tập "Laughable Love".
Chị Lan và các bạn thân mến,
Xin được giới thiệu cùng các bạn bản Việt ngữ của "She in A Dance of Frenzy," một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn trẻ Andrew Lâm do Thạch Hãn chuyển ngữ. Nguyên bản tiếng Anh đã đăng trong tuyển tập "The Other Side of Heaven" mà tôi đã có lần đề cập trên diễn đàn VHNT. Gần đây, truyện được dăng lại trong tuyển tập "Once Upon A Dream - The Vietnamese-American Experience," do nhà Andrews and McMeel ấn hành.
Theo thiển ý, bản dịch của Thạch Hãn đã không rơi vào cái tiền lệ quái ác của dịch thuật, nếu đẹp thì không trung thành, hoặc ngược lại. She's beautiful and faithful, I think...
Chúc các bạn một mùa Giáng Sinh/Noel/Christmas tuyệt vời và không quên sáng tác hăng.
Thân ái,
Phùng Nguyễn
oOo
She's In A Dance of Frenzy
Quay Cuồng Trong Ðiệu Vũ
Andrew Lâm
Thạch Hãn dịch
Cô gái lớn lên tinh nghịch như một đứa con trai. Cô có thể vung chày đánh banh trong khi mấy đứa em trai cô chẳng làm được, lại có thể đá văng kiếng khỏi mặt một thằng con trai, và vì thế, chẳng bao giờ thân với mẹ. Mẹ, ngồi lê đôi mách, lo chuyện nhà chuyện cửa, đánh bạc mắc nợ, thân hình sồ sề nên lại càng không quan tâm gì đến con gái, không hề bước ra khỏi nhà, lại quá chú tâm vào việc trong gia đình, còn thì giờ đâu mà nhìn thế giới bên ngoài, nhìn trời nhìn biển.
Cô gái, đứa con gái của gia đình, con gái tính như con trai, ham cười ham chơi, trái lại rất thích thể thao, thích phim chưởng, thích cãi cọ, thích được người khác thích, và thích đàn ông con trai. Nhất là thích chơi với Bố, trước là một trung sĩ Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng hoà, thời chiến tranh ông là một tay giết người như ngoé, hay một người nguy hiểm đại loại như thế, dù hồi đó cô còn quá nhỏ nên không thể nào nhớ chính xác. Nhưng điều đó không quan hệ. Cô chỉ biết Bố là một người rất hiền từ. Cô được bố chỉ cho cách móc mồi, cách ném câu, cách giữ im lặng chờ cá đến. Cô được chỉ cho cách duồng theo thủy triều, biết cách nhận ra mỗi khi con tàu chòng chành, và nhất là biết cách đứng ngắm bố tư lự, im như một pho tượng đá, như một người từ thời cổ đại, nhưng cường tráng và sinh động vô cùng.
Cô gái ấy có thân hình gầy gò, nhỏ thó, và chẳng mấy ai nghĩ đứa bé gái tính tình như con trai đó sau này lại trở thành một người đàn bà tuyệt đẹp?
Nhưng rồi năm lên 16, cô bắt đầu có kinh. Máu trong người cô túa ra như những chùm hoa thủy tiên, hoa móng rồng. Ðoá hoa nở muộn, mọi người trầm trồ là hoa nở muộn giữ sắc được lâu. Cô gái ngày càng đẹp, lại duyên dáng, ngực nở mông đầy, mái tóc dài, đen óng ả, lại có nụ cười làm ngất ngây, nhanh nhẹn như một chú thỏ, nhưng cũng im phăng phắc như một cánh chim đang vút bay cao.
Trong bữa tiệc sinh nhật thứ 50 của bố, mọi người không ai dám để mắt nhìn cô khi cô bưng nước mời khách. Chẳng thể nào là đứa con gái mà họ biết, trong khi bố vừa cười vừa nói, nó đấy, đứa con gái tính như con trai của tôi đấy. Rồi có một ông, trẻ nhất trong đám bạn nhà binh của bố, bây giờ rất thành công trong ngành địa ốc, công khai tán tỉnh. Lấy chú đi, ông nói, cháu là người đẹp nhất thế gian nàỵ Dạ được Chú à, cô gái trả lời, rồi ngồi sà vào lòng ông như cô vẫn thường ngồi ngày còn bé, và cháu muốn chú mua cho cháu một toà lâu đài trên núi, rồi ông ấy trả lời, muốn gì cũng có, rồi họ bật lên cười, nhưng cô lại thấy đôi mắt bố hướng về phía cô, tỏ vẻ bất bình. Nó là đứa bé tinh nghịch của tôi, bố nhắc lại cho bạn bè mình biết, và cô trả lời, đúng đấy bố ạ, khi nào con cũng là đứa con gái bé nhỏ tinh nghịch của bố, rồi mọi người phá lên cười. Nhưng sau khi khách khứa ra về, bố đã tát vào mặt cô.
Nhưng chính lời thì thầm của đám bạn bố khi họ ra về - "Ðẹp đéo chịu nổi!" - cô nghe vọng lại trong cú tát đó. Ðẹp đéo chịu nổi, thân hình lại có những đường cong đúng chỗ, nên sắc đẹp của cô lại trở thành một thứ tai họa. Khi soi mình trong gương cô nhận ra là mình không còn hợp với gia đình này, không còn thể đi đứng như ngày trước trong căn nhà này nữa, đẹp đéo chịu nổi nên giữa mẹ và con đã trở nên căng thẳng vì mẹ chẳng lấy gì làm đẹp, lại có vẻ quê mùa, chị em gái lại ganh tị vì sắc đẹp của cô, đẹp đéo chịu nỗi nên bố và anh em trai không còn dám nhìn thẳng cô, giữa họ như có một đám mây đen bao phủ, đẹp đéo chịu nổi nên năm mười bảy tuổi cô ra khỏi nhà.
Dù sao thì cũng đã đến lúc cô bước ra thế giới bên ngoài. Lặng lẽ, cô thu xếp hành trang, từ biệt gia đình. Họ phản đối nhưng cô tự hỏi biết đâu những người đàn bà còn lại trong gia đình lại không kín đáo cảm thấy hài lòng khi cô ra đi, từ bỏ nơi chốn mà ngày trước cô đã sống vui thú, hồn nhiên, nhưng bây giờ cô chẳng còn tìm lại được nỗi vui sống đó.
Cô giã từ bố, mẹ, anh chị em, họ khóc lóc, cô cũng khóc, nhưng vẫn cứ đi. Ði học đại học ở miền Bắc, và ở đó cô đã gặp hết người đàn ông này đến người đàn ông khác. Ðàn ông đủ mọi loại, mọi màu da, vây quanh cô. Những người đàn ông trẻ mạnh, đẹp trai, thông minh và nhiều tham vọng, giàu có nghèo có. Những người đàn ông yêu cô, và cô nghĩ, cô cũng yêu họ. Cô được chiều đãi nhất thế gian này. Cô thông minh, có óc tưởng tượng phong phú, vui vẻ, lại biết nấu ăn, biết dọn dẹp, biết may vá, biết nhảy cha cha cha, biết quay paso doble, biết mê mẩn theo điệu tango, biết dang đôi chân thon dễ dàng như con thiên nga dang đôi cánh trắng, biết nở nụ cười lúc ân ái với tình nhân, và những lúc trời mưa, cô còn biết thở dài não nuột, với một nỗi thâm trầm như từng được diễn tả qua thi ca. Cô là một người bạn đời tuyệt vời, một người vợ ngoại hạng cho bất cứ thằng chó đẻ nào chiếm được tim cô!
Nhưng tim cô ở đâu? Nói nghe lạ, nhưng hiếm khi cô thấy mình quyến luyến những tên đàn ông này. Sau mỗi cuộc tình cô lại thấy mình cô đơn, những lần ân ái, những vòng tay ôm chỉ là những giây phút thoáng qua, những tên đàn ông, sắc diện tài hoa tương lai tiềm năng của họ tan theo gió thoảng, cuốn hút đi trong cơn mưa buồn và che lấp bởi lớp sương mù từ trên đồi cao là đà mỗi sáng.
Bạn gái của cô thường hỏi, vậy đi đến đâu với chàng này chàng kia rồi? Cô chỉ thở dài rồi bảo, cũng được, nhưng... Nhưng không phải thế. Cô dễ thấy nhàm chán và dễ nhận ra những khiếm khuyết nơi những người đàn ông ấy. Họ cũng chỉ là đàn ông, ngay cả những kẻ giỏi giang nhất cũng có khiếm khuyết. Nhưng không phải vì những khiếm khuyết của họ mà cuộc tình giữa cô và họ không bền vững. Còn điều gì khác nữa tận trong lòng cô đã khiến cô phải nhắm mắt, đã khiến cô phải kêu than, điều gì đó gây cho cô nỗi sợ hãi rằng cuộc tình này sẽ bền vững hay sớm dứt, để rồi cuối cùng mọi chuyện lại đều như cũ và cô từ bỏ họ.
"Chuyện gì vậy cưng," một trong những nhân tình cô hỏi, câu hỏi rất quen thuộc, "Anh đã làm gì để em buồn?"
"Không có chuyện gì hết cưng ơi," cô trả lời, lại thở dài. "Chắc tại thời tiết. Cũng có thể mình đã quá quen nhau." Và ngay sau đó, con tim hắn tan vỡ vì cô không còn muốn gặp lại hắn nữa. "Mình chỉ là bạn thôi," cô thường nói thế với một tình nhân, hay "Sự liên hệ giữa mình nay đã thay đổi, chỉ là anh em thôi." Rồi thêm một con tim bị tan vở. Rồi một con tim khác. Rồi một con tim khác. Có quá nhiều con tim bị tan vỡ nên cô quyết định dẹp bỏ hết tiếng vỡ rổn rảng trong máy ghi âm. Cô cắt điện thoại, đem cho chiếc máy ghi âm đã ghi lại âm thanh loảng xoảng của những con tim tan vỡ, và trong lúc thu dọn, cô quét mạng nhện, dọn dẹp rác rưởi trong nhà, vất một cái bàn, một chiếc ghế dài có thể làm giường ngủ, vất bỏ một vài thứ lỉnh kỉnh như áo choàng, quần cộc, và cuối cùng cô tự bảo: À, đây này, giờ tìm lại được sự bình yên này, khoảng không gian này, và nỗi cô tịch này, đây là những gì mình khao khát. Từ đây chỉ có mình với mình, mình và công việc.
Thế nhưng nỗi buồn vẫn không dứt. Rồi chẳng bao lâu, vì cô đơn, vì nhu cầu, vì bản năng, cô lại có người tình mới, gắn lại điện thoại, rồi tiếng tim vỡ lại loảng xoảng trong máy, có con tim đã vỡ nát bây giờ chẳng còn loảng xoảng nổị Có ai đếm xem có bao nhiêu quả tim đã tan vỡ không? Chắc chắn không phải cô. Cô vẫn buồn, vẫn tư lự, sương mù vẫn lảng đảng mỗi sáng qua trước nhà cô. Và cô lại muốn trốn chạy khỏi một tình nhân mới, một người đàn ông gốc Phi Châu da không đen mấy, đẹp trai, trẻ, cao ráo. Chàng chưng hửng, còn cô thì khăng khăng, bởi vì nếu không mọi việc sẽ trở lại hoàn toàn như cũ, và cô thì đã quá mệt mỏi.
Cô có vấn đề gì? Ðiều gì đã khiến cô trốn chạy khỏi những người đàn ông này, những người trai trẻ sung sức, những kẻ da màu ưa múa ưa nhảy, những kẻ thường xuyên mang quà, mang thơ, mang lời hứa hẹn tình yêu đến dâng tặng? Còn thứ gì khác trên đời này nữa không? Tại sao cô lại vừa trốn chạy, lại vừa khao khát họ. Tại sao cô lại luôn luôn lẫn lộn giữa cái này và cái kia, chẳng bao giờ nói điều mình nghĩ, và chẳng bao giờ làm điều mình nói. Cô có vấn đề gị Có phải cô đã bị hà bá nguyền rủa để phải sống suốt đời khao khát và chẳng bao giờ có được gì mình muốn?
Nhưng cô không thể trả lời những câu hỏi này, vì cuộc đời giờ đang nhoè đi, cũng giống như đám khách đang nhoè trước mắt cô khi cô đang vũ trong quán rượu kiêm tiệm ăn hạng sang này. Nhưng nếu cô chuyên tâm vào công việc, nhảy múa một chút, liếc mắt đưa tình một chút, phô trương chút da thịt phơi phới, biết đâu lại chẳng tìm được điều cô muốn tìm. Có thể cô dọn đi một nơi khác, xa thật xa. Hay đổi nhà, thuê một chỗ khác quang đãng hơn. Có thể cô nhận lời một người khách trẻ, giàu có, bay đi Paris bằng máy bay phản lực riêng của hắn, hay nhận lời ông khách mập ú viếng Hollywood bằng xe limousine để xem hắn biến mộng tưởng thành sự thực, biết đâu lại có thể xoa dịu những ray rứt trong cô. Có thể cô rán tiếp tục làm những gì cô đang làm thêm một thời gian nữa: nhảy múa, liếc mắt đưa tình, rồi cái gì cô muốn tìm, mà biết tìm cái gì đây? Cô từ lâu đã mất mà không tìm lại được, nay lại hiện ra, lại cưỡi trên đầu ngọn triều lúc đêm xuống quay trở lại với cô. Biết đâu...
Rồi vào một đêm khuya nọ, sau khi đi làm về, cô ngồi một mình, thời khắc im lặng và mọi việc dường như bớt quay cuồng, chỉ có mình cô với cô, cô bắt đầu hồi tưởng. Cô vừa từ trong phòng tắm bước ra, sau khi ngâm mình khá lâu trong dòng nước ấm, đôi bàn chân đã bớt đau vì nhảy quá nhiều, da thịt cô trở lại mềm mại, mái tóc sũng nước, mát rượi. Ngồi trên giường, bên cạnh một chồng gối nhồi lông ngỗng, cô tìm cách nhớ lại quãng đời tuổi trẻ của mình, những khuôn mặt thân quen, những sự việc, những biến cố đã khiến cô dao động. Việc gì, và ai đã khiến cô cảm thấy hạnh phúc nhất? Việc gì, và ai, đã khiến cô phải đau buồn nhất?
Lúc đầu, cô không nghĩ ra. Có quá nhiều khuôn mặt hiện ra cùng một lúc, khiến cô cảm thấy mình như đang chết đuối trong căn phòng nhỏ, và cô tìm cách xua đuổi hết ra khỏi phòng, nhưng hoài công. Nhưng ngay lúc cô bắt đầu thấy mình ngộp thở, cô nghe có tiếng gọi tên cô. Tên Việt Nam của cô, cái tên thật đẹp và ngọt ngào. Cô cố gắng tìm ra khuôn mặt cất tiếng gọi tên cô trong vô số những khuôn mặt đang hiện diện trong căn phòng chật chội. Từ xa, một khuôn mặt dần dần hiện ra, lúc đầu còn nhạt nhòa. Nhưng đó là khuôn mặt cô đã rất quen. Khuôn mặt đó cô đã thấy trước khi cô gặp những người đàn ông kia, trước khi cô trở thành một người đàn bà nhan sắc, trước khi cô biết nói tiếng Anh và trước khi cô đặt chân đến Mỹ. Ðó là một khuôn mặt khôn ngoan, bao dung, một khuôn mặt cô hằng biết và hằng yêu thương, khuôn mặt đã đến với cô lúc cô đang nằm trên một chiếc chiếu, trong một khoang tàu chật như nêm chở người Việt Nam vượt biển, lênh dênh giữa lòng Thái bình dương, lúc con người cô gầy mòn như một cái chấm nhỏ, đang chết khát đến rũ rượi. Cả gia đình đang ở quanh cô, không khí ẩm ướt và nồng nặc mùi khai, trên đuôi mắt mọi người đều trĩu cơn buồn ngủ. Giữa những giấc ngủ chập chờn, cô thấy khuôn mặt đó càng lúc càng gần, và cuối cùng cô đã nhận ra. Khuôn mặt dãi dầu, buồn bã, lo âu, nhưng ăm ắp tình thương, cô nghe tiếng bố nói khẽ: "Dậy, đậy đi cưng, uống chút sữa rồi hẳng chết."
Cô nhớ lại cơn nắng chói chang phủ ập xuống người, gió thổi càng lúc càng mạnh. Và cô nhớ là qua đôi mắt khép hờ, cô nhìn thấy đại đuơng xanh ngát và bao la vô cùng. Cô cảm thấy được bố nâng người cô lại gần ông, cô nhấp môi nếm chút chất lỏng âm ấm, sền sệt, và sau một vài ngụm nhỏ, cả thế giới như đang bừng sống trong cô. Cô nhìn bố, chớp mắt và gượng mỉm cười, bởi vì khi đó cô biết là cô sẽ sống, sống cho bố an lòng.
Và giờ đây, nằm trên giường là một người đàn bà trẻ đẹp, mắt đang đẫm lệ, cô biết lúc đó là giây phút hạnh phúc nhất đời cô chứ không phải bây giỡ. Bởi vì không có gì chân thật hơn cử chỉ của bố vào lúc đó, còn những thứ khác như xứ Mỹ, như những người đàn ông đã yêu thương cô, những kẻ đã săn sóc cô, đã khóc cùng cô, đã nhảy nhót với cô, những kẻ có con tim tan vỡ rổn rảng như tiếng pha lê vỡ trong máy ghi âm, ngay cả mái ấm gia đình mà cô đã từ bỏ, ngay cả Paris, Hollywood, xe limousine, tiền bạc cũng không đủ, không bao giờ đủ. Giờ cô lại thấy thèm khát cái cử chỉ giản dị ngắn ngủi đó hơn lúc nào hết, cảm thấy cơn khát đến độ quay cuồng của một thời xa xưa trên biển cả đang dâng lên trong người cô, một cơn khát vô cùng mãnh liệt, một cơn khát thiêu đốt hết mọi thứ, một cơn khát mà không có thứ gì trên đời này, kể cả tình yêu, có thể dứt nổi.